Đôi lời phi lộ:
Trên cơ sở thư mời hội thảo khoa học của Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn Phát huy văn hóa dân tộc, Hội thơ Đường luật Việt Nam và Hội Văn hóa nghệ thuật Nam Định ngày 5/7/2016 với đề tài: Tú Xương với thơ Đường luật Việt Nam. Là một người con của Nam Định luôn mong mỏi được tri ân với quê hương và đáp ứng thịnh tình các tổ chức nêu trên. Tôi đã viết bài: Trần Tế Xương - Người hình thành thơ cách luật Việt Nam. Bài viết có thể còn sơ sài rất mong các bạn có dịp ghé qua Lehoablog thể tình cho người viết.
Từ xưa đến giờ những người làm văn, làm thơ không ai là không có những
phản ảnh về bản thân và xã hội đương thời qua tác phẩm. Trong nhiều bài viết về
Trần Tế Xương cũng đã từng nói về điều đó. Đây chính là những nhân định ban đầu
chứng minh cho quan điểm coi tác phẩm của ông như một Thông điệp văn học sử,
phản ảnh về con người và xã hội trong giai đoạn Thực dân nửa phong kiến cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trên đất nước ta.
Nhà thơ Trần Tế Xương, tên khai sinh là Trần Duy Uyên, sinh năm 1870 tại Nam Định và mất năm 1907.
Cuộc đời ông nằm gọn trong bước đầu cuộc xâm lược của thực dân Pháp và quá
trình thực dân hóa của người Pháp trong nhiều năm sau đó. Đây là giai đoạn xã
hội vô cùng bế tắc và nghiệt ngã trong thiết lập độc quyền của chế độ thực dân
và cuộc vật lộn của chế độ phong kiến cố vớt vát chút quyền lợi trong sự tan rã
tuyệt vọng.
Chứng minh cho điều này dường như chúng ta đã tìm thấy trong Trần Tế
Xương tác phẩm. Chỉ cần mảng thơ luật Đường viết bằng chữ nôm của ông đã có thể
dẫn ta đi tới sự tận cùng mọi tầng lớp con người và xã hội thời đó. Điều đặc
biệt hơn đó là mỗi tác phẩm của ông đều chứa đựng sự phán xét cùng những kết
luận sai, đúng giúp ta có những khái niệm đầu tiên về con người và xã hội đương
thời. Những gì mà ông đề cập đến chính là sự thay đổi ghê gớm của các tầng lớp
quan lại, thị dân đầu tiên dưới chế độ thực dân hóa ở chính nơi ông sinh ra và
lớn lên. Bên cạnh đó là phản ảnh về sự dãy dụa của chế độ phong kiến thông qua
hệ thống trường thi và tầng lớp sĩ tử trong đó có chính nhà thơ.
Cũng từ các nghiên cứu về Trần Tế Xương, đa số các tác giả đều cho
rằng ông có trên 170 tác phẩm văn chương với nhiều thể loại. Trong đó có 123
bài thơ theo thể luật Đường viết bằng chữ nôm cùng với 83 bài dịch thơ Đường của các nhà thơ hàng
đầu của Trung Quốc qua các thời kỳ. Trong số 123 bài thơ viết theo thể luật
Đường, phần lớn các bài thơ đều là thơ trào phúng với giọng điệu phê phán đến
nghiệt ngã nhưng vẫn luôn mang chất trữ tình trong thơ. Về nghệ thuật làm thơ
của ông thật là điêu luyện trong cách dùng ngôn ngữ thơ và hình ảnh thơ cùng
với sự chọn lọc đặc trưng của văn hóa dân tộc Việt Nam cách xa lối thơ Đường luật từ
các thời đại trước đó.
Về phía tác phẩm, cũng như đã nói trên đây, Trần Tế Xương là người có
chính kiến rõ rệt trong nhận định tốt và xấu. Ông thẳng tay phê phán bất kể là
ai cùng với những trò hề thay đen đổi trắng mong cầu lợi cho mình, cho dù là
vài đồng tiền phân bạc, đến chức vị quan lại béo bở với các thủ đoạn bòn rút
bóc lột dân lành. Ông đã trào lộng đến tầng lớp cao nhất trong bộ máy cai trị
thực dân như Quan sứ và mụ đầm, vợ ông ta cho đến tầng lớp thị dân vừa xuất
hiện từ khi Pháp đến xâm lược nước ta.
Cùng với bút pháp điêu luyện của mình ông đã vẽ nên những hình ảnh
vênh vang trơ tráo và lạc lõng của các quan thực dân
Cờ kéo rợp trời, quan sứ đến
Váy lê quét đất, mụ đầm ra.
Váy lê quét đất, mụ đầm ra.
Chẳng những thế, đến cả lính thực dân cũng ra
oai người nhà nước hạch sách và làm tình, làm tội người dân đến mức quái dị và
đê tiện:
Hà Nam danh giá nhất ông cò
Trông thấy ai ai chẳng dám ho
Hai mái trống toang đành chịu dột
Tám giờ chuông đánh phải nằm co
Người quên mất thẻ âu trời cãi
Chó chạy ra đường có chủ lo
Ngớ ngẩn đi xia may vớ được
Phen này ắt hẳn kiếm ăn to
Trông thấy ai ai chẳng dám ho
Hai mái trống toang đành chịu dột
Tám giờ chuông đánh phải nằm co
Người quên mất thẻ âu trời cãi
Chó chạy ra đường có chủ lo
Ngớ ngẩn đi xia may vớ được
Phen này ắt hẳn kiếm ăn to
Bên cạnh các thế lực ngoại
bang là bè lũ quan lại người Nam
vừa đớn hèn vửa trơ tráo giương mắt lên nhìn nỗi nhục mất nước. Đây cũng chính
là cái tròng thứ hai thít chặt vào cổ người dân bằng mọi thủ đoạn thâm hiểm và
ác độc.
Tơ tóc nỗi riêng thì xét nét
Giang sơn nghĩa cả nỡ mần thinh
Cổ cong mặt lệnh, người đâu thế
Cái cóc bôi vôi khéo dại hình
Giang sơn nghĩa cả nỡ mần thinh
Cổ cong mặt lệnh, người đâu thế
Cái cóc bôi vôi khéo dại hình
Nhà thơ cũng kể ra cho ta thấy bộ mặt thật của bọn quan lại thời đó
cùng với tệ nạn bài bạc, ăn chơi trụy lạc:
Ông về đốc học đã bao lâu,
Cờ bạc rong chơi rặt một màu
Cờ bạc rong chơi rặt một màu
Ông kể rõ những hình ảnh về
bè lũ quan lại phong kiến tham lam tàn ác luôn bày đặt mưu sâu, kế hiểm, đưa
người dân vào cái bẫy của chúng để rồi tha hồ vơ vét bóp nặn:
An Sơn tông giống người keo
thực
Bồ Thủy xưa nay của kiết à
Đất nhị dễ thường lươn rúc ở
Lửa nồng nên phải chuột đùn ra.
Bồ Thủy xưa nay của kiết à
Đất nhị dễ thường lươn rúc ở
Lửa nồng nên phải chuột đùn ra.
Càng nhiều những bọn quan tham bỏ mặc chức phận miễn là có tiền vào
túi:
Tri phủ Xuân
Trường được mấy niên
Nhờ trời hạt ấy cũng bình yên
Chữ "thôi" chữ "cứu" không phê đến
Ông chỉ quen phê một chữ "tiền"
Nhờ trời hạt ấy cũng bình yên
Chữ "thôi" chữ "cứu" không phê đến
Ông chỉ quen phê một chữ "tiền"
Điều mà chúng ta thấy được
càng tệ hại hơn đó là một nhà nước vô trách nhiệm trước các thiên tai lụt lội,
hạn hán hết năm này qua năm khác. Ta những tưởng trong tình cảnh ấy có ai đó sẽ
hợp mọi người lại để chung lo chống hạn. Nhưng rồi cũng chỉ có người dân hai
tay trắng đứng ra lo cái không thể làm nổi.
Dạo này đá chảy với vàng trôi
Thiên hạ mong mưa đứng lại ngồi
Ngày trước biết gì, ăn với ngủ
Bây giờ lo cả nước cùng nôi
Thiên hạ mong mưa đứng lại ngồi
Ngày trước biết gì, ăn với ngủ
Bây giờ lo cả nước cùng nôi
Cùng với hạn hán là lụt lội
mất mùa đói kém và rồi ốm đau, chết chóc, cũng từ đó là làm ghê sợ bao người:
Thử xem một tháng mấy lần mưa
Ruộng hoá ra sông cỏ vật vờ
Bát gạo Đồng Nai kinh chuyện cũ
Con thuyền Quý Tỵ nhớ năm xưa
Ruộng hoá ra sông cỏ vật vờ
Bát gạo Đồng Nai kinh chuyện cũ
Con thuyền Quý Tỵ nhớ năm xưa
Có lẽ ông mong lắm cái sự thay đổi của trời đất, nhưng trời đất nào
có thể giúp được ông. Có chăng chỉ có thể là chính quyền nhà nước có can thiệp
hay không mà thôi. Có một nghịch lý đó là cá
kia cũng biết cách trốn chạy hạn hán “Cá
sợ ao khô vượt cả rồi” và trâu kia cũng buồn vì lụt lội “Trâu bò buộc cẳng coi buồn nhỉ” còn con người lại chẳng thể tự liệu được cho mình.
Thật là chua chát cho con người phải sống trong xã hội đầy đau khổ mà không thể
thoát ra được.
IV. BỘ MẶT TẦNG LỚP THỊ DÂN
Cùng với những phản ảnh của nhà thơ về tầng lớp lãnh đạo xã hội bảo
thủ và vô trách nhiệm. Bức thông điệp cũng cho ta thấy đây cũng chính là nguồn
gốc sinh ra mọi băng hoại về đạo đức và lối sống của chế độ thực dân, nửa phong
kiến lúc bấy giờ. Đây cũng chính là nguồn gốc đẩy tầng lớp thị dân đến chỗ sa
đọa về đạo đức và lối sông mà nhà thơ đã điểm qua khắp lượt trong tác phẩm của
ông. Đó là những người dân không còn vườn ruộng, cố gắng bám vào xã hội bằng
cách mở nghiệp bán buôn và làm các dịch vụ phát sinh trong quá trình thực dân
hóa. Cũng từ đây, tầng lớp những người sống bằng nghề buôn bán bắt đầu với
những trò gian giảo, lừa đảo và giả dối:
Ai đấy ai ơi khéo hợm mình
Giàu thì ai trọng, khó ai khinh
Thằng Ngô mất gánh, say câu chuyện
Chú lái nghiêng thoi mắc giọng tình
Giàu thì ai trọng, khó ai khinh
Thằng Ngô mất gánh, say câu chuyện
Chú lái nghiêng thoi mắc giọng tình
Cùng với những mánh lới ma
mãnh sành sỏi nhằm tranh cướp khách hàng thu lợi cho mình bất chấp mọi thủ đoạn
Nước buôn như chị mới ăn người
Chị thấy ai đâu chị cũng cười
Chiều khách quá hơn nhà thổ ế
Đắt hàng như thể mớ tôm tươi
Chị thấy ai đâu chị cũng cười
Chiều khách quá hơn nhà thổ ế
Đắt hàng như thể mớ tôm tươi
Đặc trưng của nghề buôn bán cùng với những thủ đoạn đen tối dần hình thành để rồi mọi thứ đều được cân, đong, đo, đếm bằng tiền và có phải vì thế mà xã hội đã dùng tiền mua mọi thứ và đồng tiền đã khuynh đảo đến mức ghê gớm:
Giàu sang âu yếm tình quen
thuộc
Bần tiện thờ ơ dạ bạc đen
Ví khiến trong tay tiền bạc có
Nói dơi nói chuột chán người khen.
Bần tiện thờ ơ dạ bạc đen
Ví khiến trong tay tiền bạc có
Nói dơi nói chuột chán người khen.
Đến cái kết
quả cuối cùng chính là cái miền quê thân mật ngày xưa không còn nữa. Những
người cùng làng xóm, phố phường trở thành xa lạ. Cả đến những người thân trong
nhà cũng biến thành thù, mất hết giá trị của nhân bản:
Nhà kia lỗi phép con khinh bố
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng
Keo cú người đâu như cứt sắt
Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng
Cũng giống như những người dấn thân vào nghề
buôn bán, những người làm các công việc dịch vụ cũng buộc phải bước vào cõi
sống nhơ nhớp, hy sinh nhân phẩm để có một công việc làm kiếm sống. Họ cũng học
thói giả dối, lừa lọc không khác kẻ buôn bán:
Mình nghĩ cô mình thực gớm ghê,
Lòng son vẫn giữ nước non thề.
Ra tuồng gái hoá khi còn trẻ,
Như chuyện chồng xa lúc chửa về.
Lòng son vẫn giữ nước non thề.
Ra tuồng gái hoá khi còn trẻ,
Như chuyện chồng xa lúc chửa về.
Cũng
từ những bế tắc trong sinh kế, con người rất dễ buông trôi trượt dài trên con
đường trụy lạc. Ngoài nạn cô đầu, đĩ điếm, buôn gian, bán lậu, tệ trộm cắp, lừa
đảo đã trở thành phổ biến. Người ta luôn thay đổi bộ mặt của mình để lợi dụng,
lửa đảo để tồn tại. Có bao nhiêu người đàn bà:
Nói nói cười cười theo giọng tỉnh,
Khăn khăn áo áo giữ màu quê.
Và cũng có bấy nhiêu người đàn ông lấy lừa đảo làm nghề kiếm sống:
Khăn khăn áo áo giữ màu quê.
Và cũng có bấy nhiêu người đàn ông lấy lừa đảo làm nghề kiếm sống:
Khi thì thầy số, lúc thầy lang.
Công nợ bớp bơ hình chúa Chổm,
Ngay cả trong các gia đình, người đàn bà xưa từng được dạy dỗ “công dung ngôn hạnh” luôn thuộc lòng câu “tam tòng tứ đức” giờ đây cũng giả dối trác táng đâu còn hai chữ “chính chuyên":
Ra đường đáng giá người trinh thục
Trong dạ sao mà những gió trăng
Mới biết hồng nhan là thế thế
Trăm năm trăm tuổi lại trăm thằng
Trong dạ sao mà những gió trăng
Mới biết hồng nhan là thế thế
Trăm năm trăm tuổi lại trăm thằng
V. BỘ MẶT TRƯỜNG THI VÀ ĐẠO
HỌC.
Những bài thơ viết về trường thi và đạo học của nhà thơ Trần Tế Xương còn để lại đến nay đã cho chúng ta thấy được toàn cảnh chế độ thi cử đương thời và chỉ rõ sự bế tắc của tầng lớp nho sĩ lúc bấy giờ. Với một bên là chế độ thực dân, cố gắng tiến hành thực dân hóa, một bên là chế độ phong kiến cố níu kéo lại phần quyền lợi của mình nên chế độ khoa cử cũng rối ren kéo theo nhiều hệ lụy. Họ làm sao biết mình sẽ phải học từ đâu và thi như thế nào mới đạt kết quả, trong khi:
Nghe nói khoa này sắp đổi thi
Các thầy đồ cổ đỗ mau đi
Dẫu không bia đá còn bia miệng
Vứt bút lông đi, giắt bút chì
Các thầy đồ cổ đỗ mau đi
Dẫu không bia đá còn bia miệng
Vứt bút lông đi, giắt bút chì
Bên
cạnh cái nền nếp thi nay thay, mai đổi, nhà thơ cũng chỉ ra sự hủ bại của chế
độ thi cử đương thời. cùng với các hiện tượng tiêu cực trong dạy và học. Thật
đáng ngại khi thầy chẳng ra thầy:
Hỏi thăm quê quán ở nơi mô
Không học mà sao cũng gọi đồ
Không học mà sao cũng gọi đồ
..................................................
Hỏi mãi mới ra thằng bán sắt
Hỏi mãi mới ra thằng bán sắt
Còn các quan lại có phận sự cai quản việc thi cử
thì ngu dốt đến mức (sách như hũ nút chữ
như mù) lại làm việc sơ khảo thử hỏi hay, dở rồi sẽ ra sao
Sơ khảo khoa này bác cử Nhu
Sách như hũ nút chữ như mù
Và thật là không đáng, khi những người coi sóc
chốn trường qui lại là kẻ không có học, không
biết chữ gì:
Thánh cắt ông vào chủ việc thi
Đêm ngày coi sóc chốn trường qui.
Chẳng hay gian dối vì đâu vậy
Bá ngọ thằng ông biết chữ gì
Đêm ngày coi sóc chốn trường qui.
Chẳng hay gian dối vì đâu vậy
Bá ngọ thằng ông biết chữ gì
Còn các sĩ tử thì lười học, dốt nát, lấy tiêu khiển ăn chơi là chính.
Đây cũng chính là tệ nạn trong thi cử trong buổi nho học đang tàn tạ. Trách chi
bao kẻ sĩ tử giả danh, chỉ là thi cơm rượu:
Kể tuổi nhà min ngoại bốn mươi
Văn min khấp khểnh, học min lười
Ba năm một hội thi cơm rượu
Bốn bể nhiều anh góp nói cười
Văn min khấp khểnh, học min lười
Ba năm một hội thi cơm rượu
Bốn bể nhiều anh góp nói cười
Cũng chính từ điều này mà những người đỗ đạt
thường chỉ là cậy có người thân giúp, hoặc do mua được bằng tiền:
Ông cử thứ năm, con cái ai
Học trò quan đốc Tả Thanh Oai
...................................................
Học trò quan đốc Tả Thanh Oai
...................................................
Thứ năm, ông cử ai làm nổi,
Học trò quan đốc tỉnh Hà Nội
Học trò quan đốc tỉnh Hà Nội
Càng tệ hại hơn với bao kẻ đỗ đạt trong sự khuất tất khác trong cái sự
tiêu cực nơi trường ốc rồi ra làm một thứ quan nấu rượu:
Hàn lâm tu soạn kém gì ai
Đủ cả vung nồi cả cóng chai
Ví thử quyển thi ông được chấm
Đù cha đù mẹ đứa riêng ai
Đủ cả vung nồi cả cóng chai
Ví thử quyển thi ông được chấm
Đù cha đù mẹ đứa riêng ai
Và trớ trêu thay với những người chưa thi đã biết đỗ, họ đâu có phải
thi chữ nghĩa văn chương:
Người ta thi chữ ông thi phúc
Dù dở dù hay ông cũng vào
Từ những tiêu cực trong dạy, học và thi cử, nhà thơ Trần Tế Xương đã
nhận định về sự chán chường của mọi người về đạo học mà từ bao lâu nay dân ta
luôn coi trọng:
Đạo học ngày nay đã chán rồi
Mười người đi học chín người thôi
Cô hàng bán sách lim dim ngủ
Thầy khoá tư lương nhấp nhổm ngồi
Sĩ khí rụt rè gà phải cáo
Văn trường liều lĩnh đấm ăn xôi
Mười người đi học chín người thôi
Cô hàng bán sách lim dim ngủ
Thầy khoá tư lương nhấp nhổm ngồi
Sĩ khí rụt rè gà phải cáo
Văn trường liều lĩnh đấm ăn xôi
Nhiều người
cho rằng ông Tú nhiều khi cũng tự mâu thuẫn với chính mình, bởi những điều ông
viết ra chứng tỏ là ông đã thấy rõ sự hủ bại của trường thi thời đó, vậy mà sao
ông vẫn cố đi thi. Cái mà ta nhận thấy đây chính là cái bế tắc của tầng lớp sĩ
phu thời đó. Đôi người có thể giả câm, giả
điếc lựa theo chiều gió chấp nhận mất dần bản chất để đi theo. Số người có tài
năng trí tuệ thực thụ thường khó chấp nhận sự đánh mất mình nên rất dễ bị đè
nén bởi nguyên lý tự nhiên của thời đại. Điều này đã tác động vào chính nhà thơ
Trần Tế Xương và rồi có lúc ông cũng muốn phó mặc:
Thôi có làm chi cái chữ nho
Ông nghè ông cống cúng nằm co
Chi bằng đi học làm thầy phán
Tối rượu sâm banh sáng sữa bò
Tuy nhiên ông vẫn day dứt để rồi tiếp tục theo lối cũ. Có lẽ ông không
muốn theo đuôi kẻ khác chống lại dân mình. Thôi thì đành gắng gượng giữ nguyên
cái nghiệp thi cử do nhiều nguyên cớ. Một trong những nguyên cớ đó là ông mong
thỏa mãn sự mong muốn của gia đình mà từ lâu rồi vẫn không có kết quả.
Mở mặt quyết cho vua chúa biết
Đua danh kẻo nữa mẹ cha già
Đua danh kẻo nữa mẹ cha già
Cũng còn một việc là làm thế nào để có một chức sắc, được hưởng lương
bổng sau khi thi đỗ để rồi có thêm những chi phí cho đời sống bản thân nhà thơ:
Cái khó theo nhau mãi thế thôi
Có ai, hay chỉ một mình tôi
Bạc đâu ra miệng mà mong được
Tiền chửa vào tay đã hết rồi
Có ai, hay chỉ một mình tôi
Bạc đâu ra miệng mà mong được
Tiền chửa vào tay đã hết rồi
Và
điều cơ bản là làm sao có công việc làm, có tiền giúp cho gia đình vượt qua
những khó khăn đến (mướt mồ hôi) và (tràn nước mắt):
Van nợ lắm khi tràn nước mắt
Chạy ăn từng bữa mướt mồ hôi
Chạy ăn từng bữa mướt mồ hôi
Cũng
chính từ đây ta hiểu số phận của cả tầng lớp sĩ tử thời đó sống ra sao và họ sẽ
làm được gì để tự cứu lấy đời họ trong khi các tổ chức cách mạng chống xâm lược
đòi quyền sống dường như đã bị tan rã do sự đàn áp của thực dân Pháp. và chính
quyền phong kiến tay sai.
VI. KẾT LUẬN
Trên
đây chỉ là một số dẫn chứng chọn lọc nhằm khảng định công lao to lớn của nhà
thơ Trần Tế Xương trong bức tranh về con người và xã hội Việt Nam trong giai
đoạn thực dân nửa phong kiến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX do Thực dân Pháp xâm
lược và chính quyền tay sai bán nước gây ra. Người ta cũng
có thể gửi lại lịch sử của một thời đại qua nhiều nguồn như nhiếp ảnh nhưng dù
có nhiều hình ảnh đến đâu thì cũng chỉ cho những vẻ ngoài khô cứng, nói làm sao
cho được tâm tư cảm xúc của cả một xã hội đang trong thời kỳ biến động cùng với
những khủng hoảng tăm tối nhất, chơi vơi nhất mà mỗi con người phải chịu đựng. Điều muốn đề cập
đến trong bài viết đó là thêm một lần khảng định các bài thơ luật Đường nằm
trong tác phẩm văn học sử của nhà thơ Trần tế Xương chính là bản Thông điệp
hiện thực và phong phú nhất về con người và xã hội đương thời gửi lại cho hậu
thế.
VIỆT
HÓA THƠ ĐƯỜNG LUẬT
Viết về Việt
hóa thơ Đường luật đã có hàng ngàn người tham gia và có thể cũng có đến hàng
ngàn tác phẩm với nhiều ý kiến khác nhau. Tuy nhiên trong hội thảo lần này của
Hội Thơ Đường luật lại đặc biệt nhấn mạnh đến ảnh hưởng của nhà thơ Trần Tế
Xương đối với thơ Đường luật Việt Nam . Đây là một chủ đề rất mới và
có ý nghĩa vô cùng to lớn khi mà phong trào làm thơ Đường luật với phong cách
Việt Nam đã thực sự trỗi dậy
sau nhiều thập kỷ im hơi lặng tiếng trước các thể thơ khác đã và vẫn đang thịnh
hành trên thi đàn Việt Nam .
Đặc biệt hơn
là số lượng tác giả đã và đang sáng tác thơ “Đường luật” càng lúc càng đông.
Chỉ cần thống kê 12 tập thơ của Hội thơ Đường luật thì đủ thấy điều đó. Chưa
nói đến các thi đàn thơ Đường luật hiện đang thu hút khá nhiều tác giả trong
các trang báo điện tử và trên các CLB của hàng vạn thôn bản trên đất nước này.
Điều mà chúng ta cần nhắc lại đó là những lời ca thán đến mức ái ngại của nhiều
nhà thơ về cái khó của thể thơ này từ nhiều năm trước. Điều này hoàn toàn không
sai vì sự thực là thế, khi mà những niêm cùng luật, những vần với đối và nhất
là khối lượng từ ngữ thật khó để chuyển tải các trạng thái nhân vật cùng với
các hoạt động hết sức sôi động trong hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ.
Tuy nhiên nếu
đặt vấn đề cho thật đầy đủ thì phải nói từ lâu rồi các nhà thơ thời trước đã cố
gắng tìm ra phong cách mới nhằm Việt hóa thể thơ này. Những gì văn học Việt Nam nhận được
đó là sự cách tân của Hàn Thuyên và Nguyến Trãi trong khá nhiều sáng tác bằng
chữ nôm của người Việt. Đặc biệt chúng ta còn có Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm,
Nguyễn Khuyến và nhiều nhà thơ khác trong rải rác các tác phẩm thơ nôm luật
Đường vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay. Để có thể đánh giá đúng và đầy đủ
nhất phải nói đến Trần Tế Xương mới là người đưa thơ Đường luật chữ Hán thành
thơ Đường luật theo phong cách Việt toàn diện và phong phú nhất trong mọi thời
đại.
II. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÁC BÀI
THƠ
Để
có thể nói về công lao của Trần Tế Xương trong Việt hóa thơ Đường luật, không
thể không nói đến việc sử dụng ngôn từ tiếng Việt trong thơ ông. Người ta có
thể nói các nhà thơ đều ngại dùng các từ ngữ quá gợi hoặc tục. Đến như Hồ Xuân
Hương cũng chỉ bóng gió hoặc nói lái là cùng. Tuy nhiên Trần Tế Xương đã có sử
dụng mạnh bạo hơn nhiều. Bên cạnh cái (tôi) dám chịu trách nhiệm, ông dùng khá
nhiều các câu từ nhiếc móc, thậm chí là chửi rủa nhưng đọc lên vẫn thấy không
đáng ngại. Cho đến bây giờ nhiều người còn rất ngạc nhiên vì những câu chữ ông
dùng trong thơ quả là một nghệ thuật cao siêu và hoàn toàn có mặt trong ngữ
pháp tiếng Việt hiện đại.
1. Nghệ
thuật dùng từ trong thơ
Một
đặc điểm quan trọng đó là những câu thơ ông viết cứ như là kể chuyện thường
ngày giữa người này với người nọ; nôm na đấy nhưng không hề tầm thường, dễ dãi.
Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm ọe quan trường miệng thét loa
Hầu hết các bài thơ của ông đều sử dụng rất
nhiều các biện pháp tu từ. Nhiều nhất vẫn là các câu ca dao, tục ngữ và các
thành ngữ như: (Học đã sôi
cơm, Thi không ăn ớt) hoặc các thành ngữ: (Lặn lội thân cò,
Một duyên, hai nợ, Năm nắng, mười mưa) trong
bài Thương vợ. Đây cũng là những cụm từ quen thuộc trong giao tiếp của
người Việt. Với cách này nhiều khi không cần chú thích người nghe, người đọc
cũng đã hiểu ý tác giả:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước lúc đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Về nghệ thuật ngôn ngữ trong thơ Trần Tế Xương
dường như được đi qua hầu hết các biện pháp tu từ. Trước tiên là cách sử dụng
ca dao tục ngữ và các thành ngữ trong thơ ví dụ như cách sử dụng từ láy: (Ngao ngán, Nhạt nhèo, khăn
khăn áo áo, Bút bút nghiên nghiên) trong bài Đêm
buồn. Với
cách sử dụng này quả thật đã phá vỡ Ngũ độ thanh trong thơ Đường luật thời
trước. Điều này cũng cắt nghĩa cho việc Việt hóa thơ Đường luật của ông.
Ngao ngán tình chung cơn gió thoảng
Nhạt nhèo quang cảnh bóng trăng suông
Khăn khăn áo áo thêm rầy chuyện
Bút bút nghiên nghiên khéo giở tuồng
Nhạt nhèo quang cảnh bóng trăng suông
Khăn khăn áo áo thêm rầy chuyện
Bút bút nghiên nghiên khéo giở tuồng
Cách ông dùng ẩn dụ thực sự đã đạt đến sự điêu luyện trong sử dụng ngữ
pháp tiếng Việt. Đương thời dường như có rất ít người làm được như ông. Như
hàng loạt các câu thơ trong bài Đạo đức
giả:
Lắng tai non nước nghe chừng nặng
Chớp mắt trăng hoa giả cách nhèm
Cũng đã sư mô cùng đứa trẻ
Lại còn tấp tểnh với đàn em
Nếu như thơ
Đường luật Trung Quốc vận dụng sự tích và điển cố để mở rộng các ý tứ trong
thơ, thì Trần Tế Xương lại dùng ca dao, tục ngữ và nhiều thành ngữ tiếng Việt
để mở rộng ý thơ. Đặc biệt là phép đối ông dùng càng nhuần nhuyễn. Chúng ta có
thể kể ra một số thành ngữ trong tiếng Việt mà ông đã sử dụng. Với cách dùng
thành ngữ như thế này dường như đã mở ra những mẫu câu cho những người làm thơ
thời nay vận dụng.
Chúng ta còn
tìm thấy ở ông cách dùng từ hết sức gợi cảm nhưng cũng thật gần gũi trong giao
tiếp hàng ngày như: (ngoi, ngỏng):
Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng
Những động từ
(ngoi) dường như gợi cho ta thấy cái động tác cố di chuyển bộ mông ngồn ngộn
của bà đầm. Hay như động từ (ngỏng) khéo nói về sự cố cất cao cái đầu của ông
cử đang phải cúi gục trước các quan lại bề trên. Chính cái sự đối chọi giữa cái
nơi khá “tục” của kẻ này với cái chỗ “thanh” của kẻ kia đã bật ra cái sự nhạo
báng sâu cay đến độ.
2. Kết cấu các bài thơ
Chúng ta có
thể thấy thơ Trần Tế Xương có sự khai thác rất chặt chẽ về niêm, luật, vần, đối
và nhất là kết cấu đề, thực, luận, kết theo quy định của trường thi trong thời
phong kiến. Trong hơn một trăm bài thơ cũng có đôi chỗ trái luật (có thể do sao
chép). Số các bài còn lại thực sự hoàn hảo với ba yếu tố vần, luật, đối. Tuy
nhiên, điều quan trọng hơn cả là các tác phẩm của ông hoàn toàn được viết bằng
chữ nôm của người Việt phù hợp với tiếng Việt giầu hài âm, nhạc tính.
a. Luật thơ
chuẩn mực
Về luật thơ
ông luôn tôn trọng những quy tắc cơ bản của thể thơ với những bộ phận đề, thực,
luận kết bao giờ cũng rõ ràng mạch lạc, không hề công thức và khiên cưỡng. Từng
phần một chắp vào nhau mà không hề thấy có sự phân cách. Có thể lấy ví dụ qua
bài Thiếu
nữ đi tu để dẫn chứng cho kết cấu của luật.
Con gái nhà ai dáng thị thành
Cớ chi nỡ phụ cái xuân xanh
Nhạt màu son phấn, say màu đạo
Mở cánh từ bi khép cánh tình.
Miệng đọc nam vô quên chín chữ
Tay lần tràng hạt phụ ba sinh
Tiếc thay thục nữ hồng nhan thế
Nỡ cạo đầu thề với quyển kinh
Cớ chi nỡ phụ cái xuân xanh
Nhạt màu son phấn, say màu đạo
Mở cánh từ bi khép cánh tình.
Miệng đọc nam vô quên chín chữ
Tiếc thay thục nữ hồng nhan thế
Nỡ cạo đầu thề với quyển kinh
Ngay từ đầu đề bài (Thiếu nữ đi
tu) đã rất
ngắn gọn đủ khái quát chủ đề bài thơ. Các câu phá đề, thừa đề đã hoàn tất việc
giới thiệu về nhân vật (con gái nhà ai) cả
về hoàn cảnh (dáng thị thành) và sự
việc muốn nói đến (nỡ phụ cái xuân xanh).
Với
cặp thực: (Nhạt màu son phấn, say màu đạo, Mở
cánh từ bi, khép cánh tình). Hoàn toàn đủ để
xong phần thực, cùng với phép
đối ngẫu chuẩn mực bao hàm cả thực và
trạng (Nhạt
màu son phấn/ Mở cánh từ bi); (say màu đạo/ khép cánh tình). Chỉ cần hai từ: (say và khép) đã nói lên tất cả.
Với cặp luận: (Miệng đọc nam vô quên chín chữ/ Tay lần
tràng hạt phụ ba sinh) đã nói rõ
những đúng, sai về hành vi của nhân vật trong thơ. Đây cũng là một cặp đối hết
sức hoàn thiện tỏ hết được cái ý của tác giả. Cũng như cặp thực, ở cặp luận
cũng chỉ với hai từ: (quên và phụ) đã
đủ để kết tội người trong cuộc.
Đến
với cặp kết: (Tiếc thay thục nữ hồng nhan thế, Nỡ cạo đầu thề với quyển kinh) thì bài thơ đã hoàn thiện với một cái kết rất
rõ ràng mạch lạc, đủ làm mẫu mực cho thể thơ này.
b. Các bộ vần đẹp
Về các bộ vần
nhà thơ Trần Tế Xương dường như chỉ dùng vần bằng mà ít dùng vần trắc. Đây là
bộ vần truyền thống của thơ Đường luật viết bằng tiếng Việt. Điểm quan trọng
thứ hai là các bộ vần thường là chính vận, có rất ít các bài dùng vần gần đúng
(bàng vận) hoặc các vần thông. Chính vì thế mà cả trăm bài thơ của ông đọc lên
đều thấy êm ái nhẹ nhàng, gợi cảm và rất dễ thuộc.
Có thể lấy bộ
vần trong bài Đau mắt làm ví dụ:
Bộ vần trong
bài Đau mắt với các vần (inh) để có
các từ: Mình, thinh, sinh, đinh, tình.
Đây là bộ vần bằng truyền thống của thơ Đường luật. Kết cấu hài thanh với đầu
và kết lấy thanh huyền (trầm bình thanh). Các vần của các câu giữa đều thanh
không (phù bình thanh). Đây là bộ vần giúp cho hơi thơ dàn trải, man mác hợp
với cách kể lể về nỗi buồn của con người
Vui chẳng riêng ai, ốm một mình
Hỏi ai, ai cũng chỉ mần thinh
Vừa đồng bạc lớn ông Lang Xán
Lại mấy hào con chú Ích Sinh
Hỏi vợ, vợ còn đi chạy gạo
Gọi con, con mải đứng chơi đinh
Muốn mù trời chẳng cho mù nhỉ
Gương mắt trông chi buổi bạc tình
Hỏi ai, ai cũng chỉ mần thinh
Vừa đồng bạc lớn ông Lang Xán
Lại mấy hào con chú Ích Sinh
Hỏi vợ, vợ còn đi chạy gạo
Gọi con, con mải đứng chơi đinh
Muốn mù trời chẳng cho mù nhỉ
Gương mắt trông chi buổi bạc tình
Có thể lấy
thêm bộ vần nữa trong bài Thề với người
ăn xin làm ví dụ:
Bộ vần trong
bài Thề với người ăn xin với các vần
(o) để có các từ: no, cho, trò, gio, vò. Đây cũng là bộ vần bằng truyền thống
với kết cấu hài thanh: vần đầu là thanh không (phù bình thanh). Vần thư 3 và
vần cuối là thanh huyền (trầm bình thanh). Đây là bộ vần có vần đầu tiên giúp
cho hơi thơ ban đầu rất nhẹ, hợp với cách của người muốn thanh minh một điều gì
đó. Sang phần cuối với các vần là thanh huyền (trầm bình thanh) tựa như nhấn
xuống hợp với ý muốn khảng định những điều trước đó đã nói:
Người đói thì ta cũng chẳng no
Cha thằng nào có tiếc không cho
Họ đày đoạ mãi dân cày cuốc
Ai xét soi cho cảnh học trò
Mong được cơm no cùng áo ấm
Gặp toàn nắng lửa với mưa gio
Miếng ăn đến miệng là thưa kiện
Lúa rũ chân đê chửa được vò
Cha thằng nào có tiếc không cho
Họ đày đoạ mãi dân cày cuốc
Ai xét soi cho cảnh học trò
Mong được cơm no cùng áo ấm
Gặp toàn nắng lửa với mưa gio
Miếng ăn đến miệng là thưa kiện
Lúa rũ chân đê chửa được vò
c. Phép đối hoàn chỉnh
Tất cả những người làm thơ đều nhận rõ bản thân
cặp đối đứng độc lập đã đủ để hoàn chỉnh chủ đề của nó. Nhưng với thơ Đường
luật rất cần có nó bởi từ phép đối ngẫu bật ra câu thứ ba (do người viết đề xuất) để tả được nhiều hơn trong phần thực và tỏ
nhiều hơn trong phần luận. Điều muốn nói là trong thơ Trần Tế Xương chưa bao
giờ khoan đối và không đối. Đặc tưng của thơ Trần Tế Xương lại tập trung hầu
hết là thơ trào phúng nên đối trong thơ ông quả là hữu dụng. Dưới đây là một số
cặp đối trong thơ Trần Tế Xương.
Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng
Khăn khăn áo áo thêm rầy chuyện
Bút bút nghiên nghiên khéo giở tuồng
Vừa đồng bạc lớn ông Lang Xán
Lại mấy hào con chú Ích Sinh
Bánh chưng sắp gói e nồm chảy
Giò lụa toan làm sợ nắng thiu
III. KẾT LUẬN
Về phong cách thơ Trần Tế Xương có đủ ba yếu tố
hiện thực, trào lộng và trữ tình. Toàn bộ tác phẩm là bức thông điệp đứng đầu
hệ thống văn học sử của thời đại với bút pháp trữ tình và trào lộng có một
không hai trong lịch sử. Tuy nhiên điều muốn nói đó là tác phẩm của ông được
tạo ra chính bởi chữ viết và tiếng nói của dân tộc Việt. Đặc trưng trong đó là
sự tiếp thu của thơ Đường luật Trung Hoa; một trong những tinh hoa văn hóa thế
giới mà dân tộc nào trên thế giới cũng có thể tiếp nhận, biến cải thành văn
hóa của chính dân tộc mình.
I. GIỚI THIỆU
CHUNG
Ngoài các tác phẩm thơ nôm của nhà thơ Trần Tế Xương mà chúng ta đã xác
định đó là thể thơ Đường luật theo phong cách Việt, chúng ta còn có một kho
tàng thơ dịch của ông cũng mang âm hưởng và ngôn ngữ Việt. Trong số tám mươi ba
bài thơ dịch, tương truyền là của ông đã được các học giả giới thiệu khá kỹ
trong “Tú Xương toàn tập”.
Điều mà ta nhận thấy là đa số các bài thơ ngũ ngôn đã được ông dịch thành thất
ngôn, chính từ đó mà độc giả dễ hiểu và dễ cảm. Nhưng đáng kể nhất phải nói đến
là đó là phương pháp dịch thơ của ông có nhiều nét cách tân khác với nhiều
người dịch trong thời điểm đó.
Cho dù phải tôn trọng nội dung của bài thơ gốc nhưng nhiều bản dịch ông
đã bỏ qua “hình thức ước lệ, tượng trưng, công thức, quy phạm” trong phản
ảnh con người và xã hội vốn đã ngự trị trong thơ Đường luật Trung Hoa bằng cách
sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt hết sức phong phú và đa dạng giống như cách sáng
tác thơ nôm luật Đường của ông. Đây cũng là những nét chính trong Việt hóa thơ
Đường luật.
II. MỘT SỐ BÀI THƠ DỊCH
1. Trích dẫn tóm tắt một số bản dịch
Để nói rõ hơn về quá trình Việt hóa thơ Đường luật của nhà thơ Trần Tế
Xương trong dịch thuật thơ Đường luật chúng ta không thể không nhắc đến tám
mươi ba bài thơ dịch trong:“Đường
thi hợp tuyển ngũ ngôn luật giải âm”.
Trong mảng thơ dịch của ông đều giữ nguyên đầu đề của nguyên tác (nghĩa là các
bản dịch của ông không có đầu đề). Nhiều nghiên cứu của các học giả đã nói về
phương pháp dịch thơ của ông khác hẳn với nhiều người. Điều đáng nói là những
cảnh, những tình trong nguyên tác đã được khắc họa sâu sắc hơn, rõ nét hơn về
mọi mặt. Riêng về nghệ thuật các bản dịch luôn sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt cùng
với nghệ thuật tu từ, đặt câu của văn hóa Việt. Từ đó cho thấy những bài thơ
dịch có một sắc thái riêng mang đậm nét văn hóa của dân tộc Việt Nam . Đây cũng
chính là đóng góp đặc sắc của ông trong dịch thuật thi ca và trong Việt hóa thơ
Đường luật qua các tác phẩm gốc thơ Đường. Dưới đây xin trích dẫn một số bản
dịch thơ của ông:
Thất thập dạ đối nguyệt
(Đỗ Phủ)
Thu nguyệt nhưng viên dạ
Giang thôn độc lão thân
Quyển liêm hoàn chiếu khách
Ỷ trượng cách tùy nhân
Quang xạ tiềm cầu động
Minh phiên túc điểu tần
Mao trai y quất dữu
Thanh thiết lộ hoa tân
Giang thôn độc lão thân
Quyển liêm hoàn chiếu khách
Ỷ trượng cách tùy nhân
Quang xạ tiềm cầu động
Minh phiên túc điểu tần
Mao trai y quất dữu
Thanh thiết lộ hoa tân
Dịch nghĩa:
Ngắm trăng đêm mười bẩy
Trăng thu đêm nay vẫn tròn
Chỉ có một mình lão già ở thôn bên sông
Cuốn rèm lên trăng đã chiếu vào ta
Chống gậy đi đâu trăng cũng theo
Ánh sáng rọi làm con cầu long cựa mình
Bóng sáng soi vào khiến con chim ngủ xoay mình
Lều tranh dựa bên cây quýt, cây bưởi
Hạt móc đọng như hoa mới nở
Chỉ có một mình lão già ở thôn bên sông
Cuốn rèm lên trăng đã chiếu vào ta
Chống gậy đi đâu trăng cũng theo
Ánh sáng rọi làm con cầu long cựa mình
Bóng sáng soi vào khiến con chim ngủ xoay mình
Lều tranh dựa bên cây quýt, cây bưởi
Hạt móc đọng như hoa mới nở
Bản dịch
(Trần Tế
Xương)
Vành vạnh đêm rằm chút chửa sai
Giang thôn lụ khụ một mình ai
Mở rèm trông thấy như chào tớ
Chống gậy ra chơi lại đón người
Trong suốt rồng nằm dòng nước chảy
Sáng choang chim ngủ bóng cành phơi
Nhà tranh ngồi tựa bên chồi quýt
Móc trắng lòng ta cũng trắng ngời.
Giang thôn lụ khụ một mình ai
Mở rèm trông thấy như chào tớ
Chống gậy ra chơi lại đón người
Trong suốt rồng nằm dòng nước chảy
Sáng choang chim ngủ bóng cành phơi
Nhà tranh ngồi tựa bên chồi quýt
Móc trắng lòng ta cũng trắng ngời.
Bài thơ của Đỗ Phủ tỏ rằng chỉ có một mình lão già này ở xóm bên sông
với trăng làm bạn. Hình như trăng vẫn
tròn mà chưa tàn khuyết. Chỉ mới mở rèm ra trăng đã soi vào người. Ta chống gậy
đi đâu trăng cũng theo đi cùng, trăng soi xuống nước làm rồng thức, soi vào
chim trên cây làm cho nó phải xoay mình. Dưới trăng cả ngôi nhà bên cây quýt cũng lay
động, giọt sương cũng ánh lên trên cánh hoa mới nở.
Với ông Tú thì ngoài việc giữ cái ý của nguyên tác còn có thêm những nét
tinh tế khác. Đó chính là ông coi trăng thực sự là người bạn. Vửa mở rèm trăng
đã “chào tớ” và rồi khi ông đi trăng
lại cùng đi “ra chơi lại đón” chứ
không phải đi theo như nguyên tác. Điều thú vị là ông Tú nói không cần úp mở
rằng có trăng mà ta không cô đơn, có trăng mà ta hòa đồng được với cảnh vật tới
mức “Móc trắng lòng ta cũng trắng ngời”
Về nghệ thuật rõ ràng bản dịch theo thể thất ngôn, âm điệu dịu dàng và có
tính nhạc hơn. Tuy nhiên điều chúng ta muốn tìm là phong cách Việt trong thơ dịch
của ông. Điều đó rất rõ trong cách dùng ngôn từ của bài thơ dịch với hàng loạt
các từ láy.
Chỉ là “vành vạnh” thôi
đã đủ để nói cái sự tròn, chỉ với “lụ khụ” đã rõ cái sự già nua tuổi tác. Hoặc với các từ ghép “trong suốt,
sáng choang” đã đủ nói về hình ảnh một không gian sống động. Cùng
với việc sử dụng các từ ngữ điêu luyện là các cấu trúc ngữ pháp trong các câu
thơ chỉ có trong tiếng Việt hiện đại. Ngày nay các tác phẩm vận dụng
theo nghệ thuật dùng từ đặt câu của ông Tú thật là đắc dụng.
Một ví dụ khác nữa là bài thơ “Đối tuyết” thể ngũ ngôn của Đỗ
Phủ cũng được dịch theo thể thất ngôn.
Đối tuyết
(Đỗ Phủ)
Bắc tuyết phạm Trường Sa
Hỗ vân lãnh vạn gia
Tùy phong thả nhàn diệp
Đới vũ bất thành hoa
Kim thác nang thùy chỉnh
Ngân hổ tửu dị xa
Vô nhân kiệt phù nghĩ
Hữu đãi chí hôn nha
Dịch nghĩa
Tuyết miền bắc đã đến
Trường Sa
Mây xứ Hồ gieo lạnh đến muôn nhà.
Lá rơi từ từ theo làn gió,
Hoa không nở được dưới cơn mưa.
Hễ tiền trong túi đã xóc xách,
Thì rượu dễ đầy bình bạc.
Không ai uống hết rượu phù nghị,
Xin cứ đợi đến lúc quạ chiều
Mây xứ Hồ gieo lạnh đến muôn nhà.
Lá rơi từ từ theo làn gió,
Hoa không nở được dưới cơn mưa.
Hễ tiền trong túi đã xóc xách,
Thì rượu dễ đầy bình bạc.
Không ai uống hết rượu phù nghị,
Xin cứ đợi đến lúc quạ chiều
Bản dịch
(Trận Tế Xương)
Tuyết mây dan díu một phương trời
Gặp cơn ghen gió màu tha thiết
Sáu cánh trêu mưa dáng tả tơi
Một túi càn khôn dầu nhẹ nhẹ
Lưng bầu phong nguyệt chẳng vơi vơi
Biết ai cạn chén tri âm tá
Thơ thẩn chiều hôm những đứng ngồi
Bài Đối tuyêt của Đỗ Phủ nhằm
cái ý trước cảnh tuyết rơi, khắp nơi giá lạnh lá cây rơi rụng, hoa không nở
được vì mưa, có tiền trong túi không lo hết rượu. Cứ uống đợi đến lúc chiều về
Còn với Trần Tế Xương thì bài thơ có sự thay đổi đáng kể. Ông nói về sự
phôi pha giữa nơi xa vắng. Mây tuyết mưa gió tàn phá gợi bao nỗi niềm. Túi càn
khôn kia dù nhẹ bớt, cái bầu phong nguyệt vẫn không vơi. Chẳng biết ai sẽ là
bạn tri âm, nên lòng mãi bồn chồn đứng ngồi không yên.
Về nghệ thuật ông phối hợp ước lệ theo lối cổ của Đường luật Trung Hoa “Một
túi càn khôn” hay “Lưng bầu phong nguyệt” và trộn vào đó vốn ngôn
ngữ thuần Việt “dầu nhè nhẹ” hay “chẳng vơi vơi” một cách tài
tình. Vì thế nên nhiều học giả đương thời và cả những người đời sau đã nhận xét
nhà thơ là “thần thơ thánh chữ”.
Điều cần nhấn mạnh là hầu như bài thơ dịch nào của ông cũng đều dùng
ngôn ngữ tiếng Việt hiện đại. Nghĩa là từ ngày đó (một trăm năm trước)
thơ Đường luật đã được Việt hóa đến độ sâu sắc trong bút pháp của Tú Xương.
Thêm một lần nữa ghi nhận công lao của ông trong văn học Việt Nam nói chung và
trong Việt hóa thơ Đường luật nói riêng.
2. Một số
bài thơ dịch
Dưới đây là một số bản dịch thơ Đường luật của nhà thơ Trần Tế Xương
trích từ tác phẩm Tú Xương toàn tập
do Nhà xuất bản Văn học xuất bản năm 2010 (các bản dịch không có đầu đề nên
viết theo đề của nguyên tác - sách đã dẫn)
Mừng mưa đêm xuân
(Đỗ Phủ)
Khen thay con tạo khéo chia mùa
Hoa sớm mưa xuân những hẹn hò
Đưa nhẹ một cơn bừng giấc thắm
Rơi ra từng sợi thấm cành khô
Đồng không lối tắt mây nghi ngút
Sông vắng thuyền ai lửa thập thò
Phơi phới thành xuân ban sáng tạo
Chồi sương nặng trĩu mặt hoa đưa.
Hoa sớm mưa xuân những hẹn hò
Đưa nhẹ một cơn bừng giấc thắm
Rơi ra từng sợi thấm cành khô
Đồng không lối tắt mây nghi ngút
Sông vắng thuyền ai lửa thập thò
Phơi phới thành xuân ban sáng tạo
Chồi sương nặng trĩu mặt hoa đưa.
Dã vọng
(Vương Tích)
Bóng lộn ngàn cao buổi tối mòng
Một mình chưa dễ đứng ngồi xong
Cây lồng sắc chiếu màu thu tía
Non ánh tà dương lộng vẻ hồng
Trẻ mục giục trâu lùa cái nghé
Người săn cưỡi ngựa xách con hồng
Cùng trông lại biết ai hay tá?
Tưởng hái rau vi những ngại ngùng
Sơ nguyệt
(Đỗ
Phủ)
Nửa vành
vừa hé mái cung lên
Một bánh
xe trông chửa vẹn tuyền
Thấp
thoáng đầu cành trên bể ló
Lô nhô ban
tối áng mây ken
Chắn ngang
luống để sông Ngân trắng
Hiu hắt vì
ai mặt ải đen
Trăm mối
bên lòng càng áy náy
Dãy thềm
chòm cúc giọt sương hoen
Đăng Nhạc Dương lâu
Đỗ
Phủ
Mấy cảnh
Tiêu Tương vẫn tiếng đồn
Lầu đây hồ
đấy trải bao còn
Chia ra
Ngô Sở chiều ngang dọc
Chốt lại
càn khôn thỏa nước non
Một chữ
thân bằng tin nhạn vắng
Nghìn
trùng quan tái chiếc thuyền con
Xa xa cõi
bắc lầm phong hỏa
Thăm thẳm
Trường An mắt đã mòn
Thánh Tuyền yến
(Vương Bột)
Phất phơ tràng áo bước lên non
Ngoảnh lại bên đình lạch suối con
Bầu sánh cúc pha ba chén cạn
Vần lơi tùng thét mấy cung dồn
Lơ thơ bóng rủ ngoài cành lọn
Ngào ngạt hoa bay trước gió tuôn
Rừng vắng
tà tà say ngắm cảnh
Lô xô len
đá khói đùn đùn
III. THƠ CÁCH LUẬT
VIỆT NAM
Cũng như các nhà thơ Hàn Thuyên, Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương,
Nguyễn Khuyến, nhà thơ Trần Tế Xương đã góp công lao to lớn hơn hết cho việc
hình thành thơ Đường luật theo phong cách Việt, Chúng ta có thể khảng định toàn
diện về một thể thơ khác đó là “Thơ cách luật Việt Nam” trong quá trình tiếp
thu tinh hoa văn hóa của thế giới. Về ý kiến này chúng tôi còn muốn có nhiều ý
kiến của các học giả có kiến thức sâu rộng hơn cùng góp sức như đã làm với “Thơ
mới” vốn cũng có sự kết hơp giữa thi ca Việt Nam với thơ Nga, thơ Pháp và thơ
của nhiều nước khác. Cho đến nay chỉ còn lại với cái tên: “Thơ tự do”; “Thơ
Mới” hoàn toàn của Việt Nam
ta vậy.
Lê Trọng Hồng
Bút danh Lê Hoa
Chi hội thơ Đường luật Lục Đầu Giang tỉnh Hải Dương
Số điện thoại: 0987133083
Địa chỉ: Thạch Thủy, Phả Lại, Chí Linh, Hải Dương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét