Tổng số lượt xem trang

26/05/2019

VIẾT NĂM 2019

THẾ SỰ 
(Họa thơ Tạ Anh Ngôi)
Trời cao dìu dịu bóng mây phơi
Thả bước bên sông nghĩ sự đời
Khó đợi vườn quang cho nắng đổ
Khôn chờ ngõ sạch để mưa rơi
Lũ tràn chẳng thể chằng cho đất
Bão khắp làm sao buộc được trời
Đâu chỉ mình ta riêng một cõi
Phong trần ai đó luống đầy vơi

NHỚ THỜI ĐÃ QUA
(Họa thơ Tạ Anh Ngôi)
Vừa mới bình minh đã xế tà
Bao nhiêu ngày tháng đã đi qua
Nhớ khi loạn lạc ra tiền tuyến
Nhớ lúc bình yên trở lại nhà
Nhớ buổi tiễn đưa mời chén rượu
Nhớ hôm hội ngộ tiếp chung trà
Đêm nay trăng sáng nơi quê cũ
Cầm bút gieo thơ tả cảnh già

CẢM XUÂN
(Họa thơ Trần Phao thuận thể)
Nàng xuân vừa dạo gót qua nhà
Rét mướt mùa đông đã vội qua
Đỉnh núi sau lưng xanh tán vải
Dòng sông trước mặt đỏ phù sa
Ra đi ngày ấy bao đàn trẻ
Trở lại hôm nay một lớp già
Ký ức năm nao vừa chợt thức
Mênh mang trước mặt ráng chiều pha

CẢM THU
(Họa thơ Trần Phao nghịch thể)
Mới thấy hương thu tỏa khắp nhà
Nắng hè ngột ngạt đã đi qua
Mấy chòm Ngũ Nhạc sương còn ủ
Một dải Kinh Thầy nước mới sa
Viết tiếp sử xanh nhờ sức trẻ
Giữ gìn truyền thống cậy tâm già
Nhớ sao ngày ấy ra tiền tuyến
Mái tóc giờ đây đã tuyết pha

CHÚC XUÂN
(Ngẫu hứng thơ Hoài Linh)
Mở cửa tao đàn để đón xuân
Nhớ bao công đức của tiền nhân
Đào hồng khoe sắc chờ gieo tứ
Cúc tím tỏa hương đợi ghép vần
Đỉnh núi nắng vàng cao tít tắp
Dòng sông mây trắng rộng vô ngần
Nhẹ nhàng mở quyển tay nâng bút
Nghe tiếng chim cu gáy rất gần

QUÊ SINH
(Kỉ niệm ngày về Quan Đình)
Mẹ sinh ta ở Bắc Ninh
Nên câu quan họ cố tình bám theo
Đi qua trăm núi ngàn đèo
Vẫn không quên được quê nghèo Bắc Ninh.

NGẪU HỨNG MÙA THU
(Thu 2018)
Mới đó hôm qua
Lá vàng đã rụng
Hình như thu đến
Lòng cứ chông chênh.

Thu ơi năm nào
Mình xa nơi ấy
Bóng mẹ thân yêu
Bóng em dịu dàng.

Bầu trời xanh biếc
Đầm nước trong xanh
Cổng làng tươi nắng
Vàng hoe cúc vàng.

Một mình em tôi
Mái tóc buông rơi
Nhìn về xa lắc
Đường cây khô khốc
Lòng càng chơi vơi.

Thu ơi thu ơi
Giờ không ai đến
Lòng ta thương mến
Gửi buồn cho thu.

THƠ EM
(Tặng thơ Hương Thơm)
Em gặp anh khi đã có đôi
Sao vẫn bâng khuâng xao xuyến
Thơ em viết, bao lời thương mến
Chỉ dành riêng cho một anh thôi.
Đoạn đường sang đâu có xa xôi
Em ước muốn cất lời hò hẹn
Bao câu chữ vẫn không trọn vẹn
Thương sao khó nói thành lời.
Ở nơi xa anh đã ngủ rồi
Người đâu biết em từng thức trắng
Để mơ đến một miền xa vắng
Em thành thơ kề cận ở bên anh.

HOA LÝ
(Tặng thơ Hoa Lý)
Thương cha thương mẹ cất công
Tìm nơi đất sạch để trồng giàn hoa
Chỉ mong đến lúc về già
Có hoa có trái để mà cậy trông.
Quý người cha mẹ cho không
Thế mà người bỏ chợ đông chẳng về
Giàn hoa vẫn nở bộn bề
Mà sao không được cận kề bón chăm.
Qua bao lần bóng trăng rằm
Vẫn nghe thấy tiếng thì thầm của hoa
Muốn cho làm của người ta
Lại lo giàn gẫy để hoa úa tàn.
Thương sao thương đến vô vàn
Chùm hoa nhỏ bé giữa ngàn mây xanh
Hương đưa vời vợi quẩn quanh
Từng đêm lan tỏa ru thành giấc mơ.
Bâng khuâng gieo một vần thơ
Cậy ai trao gửi bây giờ cho hoa.





HỘI THẢO KHOA HỌC

* NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH

QUA BÀI THƠ “BÁN LỘ THUẬN THỦY PHÓ UNG” VIẾT TRONG TÁC PHẨM NGỤC TRUNG NHẬT KÝ


                         Lê Trọng Hồng
(Chi hội thơ ĐL Lục Đầu Giang tỉnh Hải Dương)

 

Viết về thơ chữ Hán của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có hàng ngàn tác giả và hàng ngàn bài viết. Nhiều bài viết nhấn mạnh đến ý chí cách mạng của Người và càng nhiều bài viết về nghệ thuật làm thơ chữ Hán của Người. Trong bài viết ngắn này chỉ xin cảm nhận về nhân văn của Người qua một bài thơ trong  Ngục trung nhật ký.

Cũng như nhiều người đã nói nhật ký vốn là những ghi chép của tác giả và chỉ dành riêng cho tác giả có quyền đọc nó. Tuy nhiên Ngục trung nhật ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh lại được công bố rộng rãi trước tất cả mọi người trong và ngoài nước. Điều này lẽ ra là trái với quan niệm của cộng đồng, bởi một khi đã là nhật ký thì người viết có thể nói ra những điều tâm sự kín đáo hợp lẽ và sẽ có cả những tâm sự bức xúc đến mức cao độ dễ đưa đến những manh động về một khía cạnh nào đó làm cho hình ảnh của tác giả xấu đi trước những người được biết về nội dung của nhật ký. Phải nói rằng đây là một trường hợp khá đặc biêt. Nó đặc biệt ở chỗ không những đã được công bố rộng rãi, còn được nhiều người dịch giảng, coi như một ấn phẩm quý giá vừa có thể thưởng thức về mặt nghệ thuật vừa có thể học hỏi về mặt tư tưởng của tác giả.

Đánh giá về tập nhật ký ta đều nhận ra rằng toàn bộ các bài viết đều có một chủ đề riêng rẽ và càng nhiều hơn các bài đan xen quện chặt vào nhau giữa nội dung và nghệ thuật. Tuy nhiên chúng ta cũng rút ra được một số chủ đề chính đó là những bài tự nói với mình, những bài cảm thông cho một hoàn cảnh nào đó và khá nhiều bài phê phán, cáo buộc một hành vi nào đó của tầng lớp thống trị và sau hết là loạt bài thống kê lại được những gì mình đã trải qua cùng với những cảm nhận của riêng mình trong từng hoàn cảnh.

Một đặc điểm rất quen thuộc của tác giả đó là mượn cảnh để tỏ tình và phần nhiều các bài thơ chỉ toàn là cảnh và chẳng tỏ rõ bất kỳ một nhận định nào, nhưng khi đọc xong bài thơ người đọc tự thấy như mở ra trước mắt nhân văn cao đẹp của tác giả. Đây cũng chính là những gì tôi muốn được một lần bày tỏ cảm xúc trước một văn phong trác tuyệt của Người qua tác phẩm Bán lộ thuận thủy phó Ung viết trong Ngục trung nhật ký với nguyên văn chữ Hán và phần phiên âm dưới đây

 

 

 
 
 


Phiên âm
Bán lộ đáp thuyền phó Ung 
Thừa chu thuận thủy vãng Ung Ninh
Hĩnh điếu thuyền lan tự giảo hình
Lưỡng ngạn hương thôn trù mật thậm 
Giang tâm ngư phủ điếu thuyền khinh.

 

Dịch nghĩa 

Đáp thuyền xuôi dòng đi Ung Ninh, 
Chân bị treo lên giàn thuyền như tội hình treo cổ; 
Làng xóm hai bên sông thật là đông đúc, 
Giữa lòng sông, thuyền câu của ông chài lướt nhẹ.

Nguồn: 
Hồ Chí Minh toàn tập (T3) - NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000

Bản dịch của Nam Trân
Đáp thuyền thẳng xuống huyện Ung Ninh, 
Lủng lẳng chân treo tựa giảo hình; 
Làng xóm ven sông đông đúc thế, 
Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh.

Trước hết bài thơ hoàn toàn nằm trong cách viết nhật ký đó là việc kể ra sự việc bị nhà tù của chính quyền đương thời giải đi Ung Ninh bằng phương tiện giao thông đường thủy thuận theo chiều dòng chảy.
Thừa chu thuận thủy vãng Ung Ninh 
Trong đó kể rõ bản thân bị buộc chân treo trên cao, còn đầu thì hướng xuống dưới tựa như người thắt cổ.
Hĩnh điếu thuyền lan tự giảo hình
Một chi tiết khác mà người viết nhật ký đã nhìn thấy từ phía xa hai bên bờ sông, nơi con thuyền đi qua thật là đông đúc và trù phú.
Lưỡng ngạn hương thôn trù mật thậm 
Gần hơn nữa là từ giữa dòng sông có một ngư phủ ngồi trên chiếc thuyền câu nhỏ nhẹ.
Giang tâm ngư phủ điếu thuyền khinh.
Phía sau của lối kể chuyện ta nhận thấy tác giả dùng phép tả chân để thâu tóm toàn bộ cảnh vật. Về cách tả cảnh tác giả đã rất tinh tế nhìn từ xa đến gần. Đây chính là cách nhìn phù hợp của người đang di chuyển đối với những hình ảnh cố định, vì cho dù tốc độ trôi thuận dòng có nhanh đến mấy thì quang cảnh làng xóm vẫn dường như đứng nguyên tại chố.
Tuy nhiên toàn cảnh dòng sông với đôi bờ vốn chưa đủ để có một bức tranh hoàn chỉnh và khéo thay với một chiếc thuyền câu cùng với sự chuyển động đã tạo ra bóng dáng sự hoạt động của con người, điểm thêm trong bức tranh thủy mạc mà tác giả đã phác họa trong thơ.
Những cái gửi gấm trong thơ lại dần được mở ra qua từng chi tiết đó chính là những điều không xuất hiện mà rất có thể có trong thực tế của hoàn cảnh. Đó chính là sự đau đớn của những vòng dây trói ngày càng thít lại do trọng lượng của cơ thể cứ ghì xuống tạo ra những cơn đau về da thịt. Đó chính là trạng thái xuống máu của cơ thể sống, trái ngược với cấu tạo vốn có của con người làm đầu óc càng ngày càng trĩu xuống bắt ta phải phân tâm vì đau đớn, huống chi từng con sóng vỗ nhao lên hạ xuống tạo ra những rung giật cơ học với gia tốc rơi mới được hình thành. Ta hiểu vì sao không một tiếng kêu đau đớn, không một lời phẫn uất mảy may xuất hiện trước sự đối xử vô nhân tính của các quan chức chính quyền mà cụ thể là những cai tù của họ.
Ngoài ý nghĩa tinh tế và toàn bích về văn học nghệ thuật của một tác phẩm ta như thấy ở đâu đó một nhân sinh quan khác thường của tác giả. Với một tâm niệm nào đó (mà ta chưa biết) đã làm cho tác giả quên đi hoặc nữa là không quan tâm đến nỗi đau xác thịt mà người đó đang phải gánh chịu. 
Một lối viết pha trò hài hước mà ta quen gặp trong nhiều bài thơ khác cũng đã được phát hiện trong tác phẩm với một từ “vãng” (được dịch là đi) hoàn toàn không nói gì đến sự ép buộc mà chính nhà thơ đang phải chịu đựng. Có cái gì đó tỏ ra rằng đây chỉ như một cuộc đi lại thông thường, hoàn toàn khác với sự thật đó là một cuộc dẫn giải tù nhân cùng với mọi sự khắc nghiệt thường thấy.
Điều gì đã tạo ra cho Hồ Chí Minh một thói quen hài hước trước mọi bạo ngược, từng xuất hiện trong nhiều bài thơ viết trong Ngục trung nhật ký nếu không phải là biểu hiện của sự lạc quan, sự tự tin vào mục đích chân chính mà bản thân hướng tới và sau cùng là một ý chí vĩ đại vốn đã được thấy trong những tấm gương lãnh tụ của nhiều cuộc cách mạng từng được khắc họa trong văn chương trong nước và trên thế giới từ trước đến nay.
Trong một luận điểm khác ta có thể nghĩ đến đó là cái gì đã làm cho con người ấy có một tâm hồn lạc quan và một ý chí gang thép đến vậy. Đây chính là việc mà chúng ta phải tìm thấy trong bài thơ. Sự chịu đựng vì không có cách nào khác? Đây cũng là một cái lý, tuy nhiên nếu chúng ta lại đọc ở trong đó được những chi tiết mà nhà thơ nói đến đó là: làng xóm ven sông đông đúc thế (viết theo ý của người dịch khá sát với nội dung). Bằng một câu hỏi đầy sự ngỡ ngàng, ta ngộ ra rằng tác giả đã vui vì sự tốt lành của một miền quê mà dường như trên đường đời tác giả ít có dịp được thấy sau bao năm bôn ba khắp thế giới. Cái mừng vui của một vĩ nhân khi nhận thấy ở đây những người dân, dường như có được một chút yên bình, không có sự tàn phá của chiến tranh tàn khốc.
Chúng ta biết hai bên bờ sông ở đây là của Trung Quốc. Nhưng với Hồ Chí Minh thì người Trung Quốc hay người Việt Nam và tất cả các dân tộc trên thế giới đều là những con người và đều cần được sống cho ra sống. Có lẽ chính vì thế mà nhiều năm sau, trong Tuyên ngôn độc lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, ngày 2 tháng 9 năm 1945, Người đã vận dụng lời lẽ đúng đắn trong bản tuyên ngôn của các nước khác mà khảng định: mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng
Cũng trong bức tranh mà nhà thơ đã cấu tạo nên còn có thêm một chi tiết khác hẳn với quang cảnh hai bờ sông, đó là một chiếc thuyền câu với người ngư phủ đang ở giữa dòng sông. Đây cũng chính là sự hoạt động đặc trưng cho sự tự do của một cá thể trong sinh cơ lập nghiệp. Có gì đó gợi cho người đọc nghĩ đến mục đích mà người làm thơ hướng đến đã từng lúc chi phối toàn bộ tâm hồn và thể xác, khiến cho mọi sự đau đớn mọi sự bó buộc dường như không tồn tại.
Những điều vừa nhận định trên đây sẽ có thể chỉ là sự võ đoán vô căn cứ nếu như bài thơ chỉ là của một nhà thơ bình thường khác. Tuy nhiên chúng ta lại hoàn toàn có thể nghĩ tới vì nhiều năm qua đi, nhà thơ, nhà cách mạng Hô Chí Minh đã toàn tâm, toàn ý và biểu lộ qua những trang di chúc với một câu nói hết sức cảm động:  “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn đến tột bậc đó là đồng bào ta, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành…” Đây cũng chính là sự lôi cuốn của bậc vĩ nhân khi nghĩ đến khát vọng của mình là làm sao để giải phóng cho họ, làm sao để họ có cuộc sống yên vui và cao hơn nữa là tự do cho con người, tự do cho các dân tộc và tự do cho toàn nhân loại.
Cũng xin mạnh dạn đề cập thêm về sự xuất hiện của con thuyền câu giữa dòng sông khi ấy với một ý tưởng khác dường như tác giả đã ngụ vào đó và tự ví mình với con thuyền câu đó luôn ở giữa dòng và luôn được tự do. Những gì mà thể xác trải qua vốn chẳng là gì cả và không cần phải nói đến trong sự cảm nhận của tác giả trước hoàn cảnh hiện tại. Từ đó bài thơ có cái tự nhiên của một bức tranh phong cảnh vốn được cho là đẹp trên một vùng quê và cảnh đó không có sự bó buộc nào về những nhận định vốn không cần bày tỏ. Điều này cho thấy ý thơ (có thể khác với nhận định của người viết) hoàn toàn nằm ngoài văn bản phù hợp với những gì là tinh tế của thơ chữ Hán đó là Ý tại ngôn ngoại, được sử dụng nhiều hơn so với thể thơ khác.
Điều mà chúng ta nhận ra văn chương của Chủ tịch Hồ Chí Minh đích thực là văn chương tuyệt phẩm mang tính nghệ thuật cao và nhất là không thiếu tích cách mạng mà Người luôn gửi gấm trong mỗi câu mỗi chữ trong thơ chữ Hán nói chung và trong Ngục trung nhật ký nói riêng. Thêm một lần khảng định những bài thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh trước hết là thơ của một nhà thơ uyên bác cùng với sự khảng định đồng nhất về một nhà cách mạng Hồ Chí Minh với ý chí kiên định cách mạng vĩ đại nhất trong mọi thời đại. Đây cũng chính là nhân văn của nhà thơ, nhà cách mạng Hồ Chí Minh mà người viết mong muốn tìm được trong Ngục trung nhật ký.





Từ xưa đến giờ những người làm văn, làm thơ không ai là không có những phản ảnh về bản thân và xã hội đương thời qua tác phẩm. Trong nhiều bài viết về Trần Tế Xương cũng đã từng nói về điều đó. Đây chính là những nhân định ban đầu chứng minh cho quan điểm coi tác phẩm của ông như một Thông điệp văn học sử, phản ảnh về con người và xã hội trong giai đoạn Thực dân nửa phong kiến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trên đất nước ta.
Nhà thơ Trần Tế Xương, tên khai sinh là Trần Duy Uyên,  sinh năm 1870 tại Nam Định và mất năm 1907. Cuộc đời ông nằm gọn trong bước đầu cuộc xâm lược của thực dân Pháp và quá trình thực dân hóa của người Pháp trong nhiều năm sau đó. Đây là giai đoạn xã hội vô cùng bế tắc và nghiệt ngã trong thiết lập độc quyền của chế độ thực dân và cuộc vật lộn của chế độ phong kiến cố vớt vát chút quyền lợi trong sự tan rã tuyệt vọng.
Chứng minh cho điều này dường như chúng ta đã tìm thấy trong Trần Tế Xương tác phẩm. Chỉ cần mảng thơ luật Đường viết bằng chữ nôm của ông đã có thể dẫn ta đi tới sự tận cùng mọi tầng lớp con người và xã hội thời đó. Điều đặc biệt hơn đó là mỗi tác phẩm của ông đều chứa đựng sự phán xét cùng những kết luận sai, đúng giúp ta có những khái niệm đầu tiên về con người và xã hội đương thời. Những gì mà ông đề cập đến chính là sự thay đổi ghê gớm của các tầng lớp quan lại, thị dân đầu tiên dưới chế độ thực dân hóa ở chính nơi ông sinh ra và lớn lên. Bên cạnh đó là phản ảnh về sự dãy dụa của chế độ phong kiến thông qua hệ thống trường thi và tầng lớp sĩ tử trong đó có chính nhà thơ.
Cũng từ các nghiên cứu về Trần Tế Xương, đa số các tác giả đều cho rằng ông có trên 170 tác phẩm văn chương với nhiều thể loại. Trong đó có 123 bài thơ theo thể luật Đường viết bằng chữ nôm cùng với  83 bài dịch thơ Đường của các nhà thơ hàng đầu của Trung Quốc qua các thời kỳ. Trong số 123 bài thơ viết theo thể luật Đường, phần lớn các bài thơ đều là thơ trào phúng với giọng điệu phê phán đến nghiệt ngã nhưng vẫn luôn mang chất trữ tình trong thơ. Về nghệ thuật làm thơ của ông thật là điêu luyện trong cách dùng ngôn ngữ thơ và hình ảnh thơ cùng với sự chọn lọc đặc trưng của văn hóa dân tộc Việt Nam cách xa lối thơ Đường luật từ các thời đại trước đó.
Về phía tác phẩm, cũng như đã nói trên đây, Trần Tế Xương là người có chính kiến rõ rệt trong nhận định tốt và xấu. Ông thẳng tay phê phán bất kể là ai cùng với những trò hề thay đen đổi trắng mong cầu lợi cho mình, cho dù là vài đồng tiền phân bạc, đến chức vị quan lại béo bở với các thủ đoạn bòn rút bóc lột dân lành. Ông đã trào lộng đến tầng lớp cao nhất trong bộ máy cai trị thực dân như Quan sứ và mụ đầm, vợ ông ta cho đến tầng lớp thị dân vừa xuất hiện từ khi Pháp đến xâm lược nước ta.

Cùng với bút pháp điêu luyện của mình ông đã vẽ nên những hình ảnh vênh vang trơ tráo và lạc lõng của các quan thực dân

Cờ kéo rợp trời, quan sứ đến 
Váy lê quét đất, mụ đầm ra. 

Chẳng những thế, đến cả lính thực dân cũng ra oai người nhà nước hạch sách và làm tình, làm tội người dân đến mức quái dị và đê tiện:

Hà Nam danh giá nhất ông cò 
Trông thấy ai ai chẳng dám ho 
Hai mái trống toang đành chịu dột 
Tám giờ chuông đánh phải nằm co 
Người quên mất thẻ âu trời cãi 
Chó chạy ra đường có chủ lo 
Ngớ ngẩn đi xia may vớ được 
Phen này ắt hẳn kiếm ăn to

Bên cạnh các thế lực ngoại bang là bè lũ quan lại người Nam vừa đớn hèn vửa trơ tráo giương mắt lên nhìn nỗi nhục mất nước. Đây cũng chính là cái tròng thứ hai thít chặt vào cổ người dân bằng mọi thủ đoạn thâm hiểm và ác độc.

Tơ tóc nỗi riêng thì xét nét 
Giang sơn nghĩa cả nỡ mần thinh 
Cổ cong mặt lệnh, người đâu thế  
Cái cóc bôi vôi khéo dại hình

Nhà thơ cũng kể ra cho ta thấy bộ mặt thật của bọn quan lại thời đó cùng với tệ nạn bài bạc, ăn chơi trụy lạc:

Ông về đốc học đã bao lâu, 
Cờ bạc rong chơi rặt một màu 

Ông kể rõ những hình ảnh về bè lũ quan lại phong kiến tham lam tàn ác luôn bày đặt mưu sâu, kế hiểm, đưa người dân vào cái bẫy của chúng để rồi tha hồ vơ vét bóp nặn:

An Sơn tông giống người keo thực 
Bồ Thủy xưa nay của kiết à 
Đất nhị dễ thường lươn rúc ở 
Lửa nồng nên phải chuột đùn ra. 

Càng nhiều những bọn quan tham bỏ mặc chức phận miễn là có tiền vào túi:

Tri phủ Xuân Trường được mấy niên
Nhờ trời hạt ấy cũng bình yên
Chữ "thôi" chữ "cứu" không phê đến
Ông chỉ quen phê một chữ "tiền"

Điều mà chúng ta thấy được càng tệ hại hơn đó là một nhà nước vô trách nhiệm trước các thiên tai lụt lội, hạn hán hết năm này qua năm khác. Ta những tưởng trong tình cảnh ấy có ai đó sẽ hợp mọi người lại để chung lo chống hạn. Nhưng rồi cũng chỉ có người dân hai tay trắng đứng ra lo cái không thể làm nổi.

Dạo này đá chảy với vàng trôi 
Thiên hạ mong mưa đứng lại ngồi 
Ngày trước biết gì, ăn với ngủ 
Bây giờ lo cả nước cùng nôi 

Cùng với hạn hán là lụt lội mất mùa đói kém và rồi ốm đau, chết chóc, cũng từ đó là làm ghê sợ bao người:

Thử xem một tháng mấy lần mưa
Ruộng hoá ra sông cỏ vật vờ
Bát gạo Đồng Nai kinh chuyện cũ
Con thuyền Quý Tỵ nhớ năm xưa

Có lẽ ông mong lắm cái sự thay đổi của trời đất, nhưng trời đất nào có thể giúp được ông. Có chăng chỉ có thể là chính quyền nhà nước có can thiệp hay không mà thôi. Có một nghịch lý đó là cá kia cũng biết cách trốn chạy hạn hán “Cá sợ ao khô vượt cả rồi” và trâu kia cũng buồn vì lụt lội “Trâu bò buộc cẳng coi buồn nhỉ” còn con người lại chẳng thể tự liệu được cho mình. Thật là chua chát cho con người phải sống trong xã hội đầy đau khổ mà không thể thoát ra được.

Cùng với những phản ảnh của nhà thơ về tầng lớp lãnh đạo xã hội bảo thủ và vô trách nhiệm. Bức thông điệp cũng cho ta thấy đây cũng chính là nguồn gốc sinh ra mọi băng hoại về đạo đức và lối sống của chế độ thực dân, nửa phong kiến lúc bấy giờ. Đây cũng chính là nguồn gốc đẩy tầng lớp thị dân đến chỗ sa đọa về đạo đức và lối sông mà nhà thơ đã điểm qua khắp lượt trong tác phẩm của ông. Đó là những người dân không còn vườn ruộng, cố gắng bám vào xã hội bằng cách mở nghiệp bán buôn và làm các dịch vụ phát sinh trong quá trình thực dân hóa. Cũng từ đây, tầng lớp những người sống bằng nghề buôn bán bắt đầu với những trò gian giảo, lừa đảo và giả dối:

Ai đấy ai ơi khéo hợm mình 
Giàu thì ai trọng, khó ai khinh 
Thằng Ngô mất gánh, say câu chuyện 
Chú lái nghiêng thoi mắc giọng tình 

Cùng với những mánh lới ma mãnh sành sỏi nhằm tranh cướp khách hàng thu lợi cho mình bất chấp mọi thủ đoạn
 
Nước buôn như chị mới ăn người 
Chị thấy ai đâu chị cũng cười 
Chiều khách quá hơn nhà thổ ế 
Đắt hàng như thể mớ tôm tươi 

             Đặc trưng của nghề buôn bán cùng với những thủ đoạn đen tối dần hình thành để rồi mọi thứ đều được cân, đong, đo, đếm bằng tiền và có phải vì thế mà xã hội đã dùng tiền mua mọi thứ và đồng tiền đã khuynh đảo đến mức ghê gớm:

Giàu sang âu yếm tình quen thuộc 
Bần tiện thờ ơ dạ bạc đen 
Ví khiến trong tay tiền bạc có 
Nói dơi nói chuột chán người khen.

Đến cái kết quả cuối cùng chính là cái miền quê thân mật ngày xưa không còn nữa. Những người cùng làng xóm, phố phường trở thành xa lạ. Cả đến những người thân trong nhà cũng biến thành thù, mất hết giá trị của nhân bản:

Nhà kia lỗi phép con khinh bố 
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng 
Keo cú người đâu như cứt sắt 
Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng 

Cũng giống như những người dấn thân vào nghề buôn bán, những người làm các công việc dịch vụ cũng buộc phải bước vào cõi sống nhơ nhớp, hy sinh nhân phẩm để có một công việc làm kiếm sống. Họ cũng học thói giả dối, lừa lọc không khác kẻ buôn bán:

Mình nghĩ cô mình thực gớm ghê, 
Lòng son vẫn giữ nước non thề. 
Ra tuồng gái hoá khi còn trẻ, 
Như chuyện chồng xa lúc chửa về.

Cũng từ những bế tắc trong sinh kế, con người rất dễ buông trôi trượt dài trên con đường trụy lạc. Ngoài nạn cô đầu, đĩ điếm, buôn gian, bán lậu, tệ trộm cắp, lừa đảo đã trở thành phổ biến. Người ta luôn thay đổi bộ mặt của mình để lợi dụng, lửa đảo để tồn tại. Có bao nhiêu người đàn bà và cũng có bấy nhiêu người đàn ông  lấy lừa đảo làm nghề kiếm sống:

Nói nói cười cười theo giọng tỉnh, 
Khăn khăn áo áo giữ màu quê. 

Hoặc:

Khi thì thầy số, lúc thầy lang. 
Công nợ bớp bơ hình chúa Chổm, 

              Ngay cả trong các gia đình, người đàn bà xưa từng được dạy dỗ “công dung ngôn hạnh” luôn thuộc lòng câu “tam tòng tứ đức” giờ đây cũng giả dối trác táng đâu còn hai chữ “chính chuyên":

Ra đường đáng giá người trinh thục 
Trong dạ sao mà những gió trăng 
Mới biết hồng nhan là thế thế 
Trăm năm trăm tuổi lại trăm thằng

 Những bài thơ viết về trường thi và đạo học của nhà thơ Trần Tế Xương còn để lại đến nay đã cho chúng ta thấy được toàn cảnh chế độ thi cử đương thời  và chỉ rõ sự bế tắc của tầng lớp nho sĩ lúc bấy giờ. Với một bên là chế độ thực dân, cố gắng tiến hành thực dân hóa, một bên là chế độ phong kiến cố níu kéo lại phần quyền lợi của mình nên chế độ khoa cử cũng rối ren kéo theo nhiều hệ lụy. Họ làm sao biết mình sẽ phải học từ đâu và thi như thế nào mới đạt kết quả, trong khi:

Nghe nói khoa này sắp đổi thi 
Các thầy đồ cổ đỗ mau đi 
Dẫu không bia đá còn bia miệng 
Vứt bút lông đi, giắt bút chì

 Bên cạnh cái nền nếp thi nay thay, mai đổi, nhà thơ cũng chỉ ra sự hủ bại của chế độ thi cử đương thời. cùng với các hiện tượng tiêu cực trong dạy và học. Thật đáng ngại khi thầy chẳng ra thầy:

Hỏi thăm quê quán ở nơi mô  
Không học mà sao cũng gọi đồ  
....
Hỏi mãi mới ra thằng bán sắt 

Còn các quan lại có phận sự cai quản việc thi cử thì ngu dốt đến mức (sách như hũ nút chữ như mù) lại làm việc sơ khảo thử hỏi hay, dở rồi sẽ ra sao

Sơ khảo khoa này bác cử Nhu
Sách như hũ nút chữ như mù

Và thật là không đáng khi những người coi sóc chốn trường qui lại là kẻ không có học, không biết chữ gì:

Thánh cắt ông vào chủ việc thi 
Đêm ngày coi sóc chốn trường qui. 
Chẳng hay gian dối vì đâu vậy
Bá ngọ thằng ông biết chữ gì

Còn các sĩ tử thì lười học, dốt nát, lấy tiêu khiển ăn chơi là chính. Đây cũng chính là tệ nạn trong thi cử trong buổi nho học đang tàn tạ. Trách chi bao kẻ sĩ tử giả danh, chỉ là thi cơm rượu:
          
Kể tuổi nhà min ngoại bốn mươi 
Văn min khấp khểnh, học min lười
Ba năm một hội thi cơm rượu 
Bốn bể nhiều anh góp nói cười 

Cũng chính từ điều này mà những người đỗ đạt thường chỉ là cậy có người thân giúp, hoặc do mua được bằng tiền:

Ông cử thứ năm, con cái ai  
Học trò quan đốc Tả Thanh Oai
Thứ năm, ông cử ai làm nổi, 
Học trò quan đốc tỉnh Hà Nội
 
Càng tệ hại hơn với bao kẻ đỗ đạt trong sự khuất tất khác trong cái sự tiêu cực nơi trường ốc rồi ra làm một thứ quan nấu rượu:

Hàn lâm tu soạn kém gì ai
Đủ cả vung nồi cả cóng chai

Ví thử quyển thi ông được chấm
Đù cha đù mẹ đứa riêng ai

Và trớ trêu thay với những người chưa thi đã biết đỗ, họ đâu có phải thi chữ nghĩa văn chương:

Người ta thi chữ ông thi phúc
Dù dở dù hay ông cũng vào

  Từ những tiêu cực trong dạy, học và thi cử, nhà thơ Trần Tế Xương đã nhận định về sự chán chường của mọi người về đạo học mà từ bao lâu nay dân ta luôn coi trọng:             

Đạo học ngày nay đã chán rồi 
Mười người đi học chín người thôi 
Cô hàng bán sách lim dim ngủ 
Thầy khoá tư lương nhấp nhổm ngồi 
Sĩ khí rụt rè gà phải cáo 
Văn trường liều lĩnh đấm ăn xôi 

Nhiều người cho rằng ông Tú nhiều khi cũng tự mâu thuẫn với chính mình, bởi những điều ông viết ra chứng tỏ là ông đã thấy rõ sự hủ bại của trường thi thời đó, vậy mà sao ông vẫn cố đi thi. Cái mà ta nhận thấy đây chính là cái bế tắc của tầng lớp sĩ phu thời đó. Đôi người có thể giả câm, giả điếc lựa theo chiều gió chấp nhận mất dần bản chất để đi theo. Số người có tài năng trí tuệ thực thụ thường khó chấp nhận sự đánh mất mình nên rất dễ bị đè nén bởi nguyên lý tự nhiên của thời đại. Điều này đã tác động vào chính nhà thơ Trần Tế Xương và rồi có lúc ông cũng muốn phó mặc:
Thôi có làm chi cái chữ nho
Ông nghè ông cống cúng nằm co
Chi bằng đi học làm thầy phán
Tối rượu sâm banh sáng sữa bò

Tuy nhiên ông vẫn day dứt để rồi tiếp tục theo lối cũ. Có lẽ ông không muốn theo đuôi kẻ khác chống lại dân mình. Thôi thì đành gắng gượng giữ nguyên cái nghiệp thi cử do nhiều nguyên cớ. Một trong những nguyên cớ đó là ông mong thỏa mãn sự mong muốn của gia đình mà từ lâu rồi vẫn không có kết quả.

Mở mặt quyết cho vua chúa biết
Đua danh kẻo nữa mẹ cha già 

Cũng còn một việc là làm thế nào để có một chức sắc, được hưởng lương bổng sau khi thi đỗ để rồi có thêm những chi phí cho đời sống bản thân nhà thơ:

Cái khó theo nhau mãi thế thôi 
Có ai, hay chỉ một mình tôi
Bạc đâu ra miệng mà mong được 
Tiền chửa vào tay đã hết rồi

Và điều cơ bản là làm sao có công việc làm, có tiền giúp cho gia đình vượt qua những khó khăn đến (mướt mồ hôi)(tràn nước mắt):

Van nợ lắm khi tràn nước mắt 
Chạy ăn từng bữa mướt mồ hôi 

Cũng chính từ đây ta hiểu số phận của cả tầng lớp sĩ tử thời đó sống ra sao và họ sẽ làm được gì để tự cứu lấy đời họ trong khi các tổ chức cách mạng chống xâm lược đòi quyền sống dường như đã bị tan rã do sự đàn áp của thực dân Pháp. và chính quyền phong kiến tay sai.

Trên đây chỉ là một số dẫn chứng chọn lọc nhằm khảng định công lao to lớn của nhà thơ Trần Tế Xương trong bức tranh về con người và xã hội Việt Nam trong giai đoạn thực dân nửa phong kiến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX do Thực dân Pháp xâm lược và chính quyền tay sai bán nước gây ra. Người ta cũng có thể gửi lại lịch sử của một thời đại qua nhiều nguồn như nhiếp ảnh nhưng dù có nhiều hình ảnh đến đâu thì cũng chỉ cho những vẻ ngoài khô cứng, nói làm sao cho được tâm tư cảm xúc của cả một xã hội đang trong thời kỳ biến động cùng với những khủng hoảng tăm tối nhất, chơi vơi nhất mà mỗi con người phải chịu đựng. Điều muốn đề cập đến trong bài viết đó là thêm một lần khảng định các bài thơ luật Đường nằm trong tác phẩm văn học sử của nhà thơ Trần tế Xương chính là bản Thông điệp hiện thực và phong phú nhất về con người và xã hội đương thời gửi lại cho hậu thế.



Viết về Việt hóa thơ Đường luật đã có hàng ngàn người tham gia và có thể cũng có đến hàng ngàn tác phẩm với nhiều ý kiến khác nhau. Tuy nhiên trong hội thảo lần này của Hội Thơ Đường luật lại đặc biệt nhấn mạnh đến ảnh hưởng của nhà thơ Trần Tế Xương đối với thơ Đường luật Việt Nam. Đây là một chủ đề rất mới và có ý nghĩa vô cùng to lớn khi mà phong trào làm thơ Đường luật với phong cách Việt Nam đã thực sự trỗi dậy sau nhiều thập kỷ im hơi lặng tiếng trước các thể thơ khác đã và vẫn đang thịnh hành trên thi đàn Việt Nam.
Đặc biệt hơn là số lượng tác giả đã và đang sáng tác thơ “Đường luật” càng lúc càng đông. Chỉ cần thống kê 12 tập thơ của Hội thơ Đường luật thì đủ thấy điều đó. Chưa nói đến các thi đàn thơ Đường luật hiện đang thu hút khá nhiều tác giả trong các trang báo điện tử và trên các CLB của hàng vạn thôn bản trên đất nước này. Điều mà chúng ta cần nhắc lại đó là những lời ca thán đến mức ái ngại của nhiều nhà thơ về cái khó của thể thơ này từ nhiều năm trước. Điều này hoàn toàn không sai vì sự thực là thế, khi mà những niêm cùng luật, những vần với đối và nhất là khối lượng từ ngữ thật khó để chuyển tải các trạng thái nhân vật cùng với các hoạt động hết sức sôi động trong hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ.
Tuy nhiên nếu đặt vấn đề cho thật đầy đủ thì phải nói từ lâu rồi các nhà thơ thời trước đã cố gắng tìm ra phong cách mới nhằm Việt hóa thể thơ này.  Những gì văn học Việt Nam nhận được đó là sự cách tân của Hàn Thuyên và Nguyến Trãi trong khá nhiều sáng tác bằng chữ nôm của người Việt. Đặc biệt chúng ta còn có Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Khuyến và nhiều nhà thơ khác trong rải rác các tác phẩm thơ nôm luật Đường vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay. Để có thể đánh giá đúng và đầy đủ nhất phải nói đến Trần Tế Xương mới là người đưa thơ Đường luật chữ Hán thành thơ Đường luật theo phong cách Việt toàn diện và phong phú nhất trong mọi thời đại.

II. Giới thiệu chung về các bài thơ
Để có thể nói về công lao của Trần Tế Xương trong Việt hóa thơ Đường luật, không thể không nói đến việc sử dụng ngôn từ tiếng Việt trong thơ ông. Người ta có thể nói các nhà thơ đều ngại dùng các từ ngữ quá gợi hoặc tục. Đến như Hồ Xuân Hương cũng chỉ bóng gió hoặc nói lái là cùng. Tuy nhiên Trần Tế Xương đã có sử dụng mạnh bạo hơn nhiều. Bên cạnh cái (tôi) dám chịu trách nhiệm, ông dùng khá nhiều các câu từ nhiếc móc, thậm chí là chửi rủa nhưng đọc lên vẫn thấy không đáng ngại. Cho đến bây giờ nhiều người còn rất ngạc nhiên vì những câu chữ ông dùng trong thơ quả là một nghệ thuật cao siêu và hoàn toàn có mặt trong ngữ pháp tiếng Việt hiện đại.

1. Nghệ thuật dùng từ trong thơ
Một đặc điểm quan trọng đó là những câu thơ ông viết cứ như là kể chuyện thường ngày giữa người này với người nọ; nôm na đấy nhưng không hề tầm thường, dễ dãi.

Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm ọe quan trường miệng thét loa

Hầu hết các bài thơ của ông đều sử dụng rất nhiều các biện pháp tu từ. Nhiều nhất vẫn là các câu ca dao, tục ngữ và các thành ngữ như: (Học đã sôi cơm, Thi không ăn ớt) hoặc các thành ngữ: (Lặn lội thân cò, Một duyên, hai nợ, Năm nắng, mười mưa) trong bài Thương vợ. Đây cũng là những cụm từ quen thuộc trong giao tiếp của người Việt. Với cách này nhiều khi không cần chú thích người nghe, người đọc cũng đã hiểu ý tác giả:

Lặn lội thân cò khi quãng vắng, 
Eo sèo mặt nước lúc đò đông. 
Một duyên hai nợ âu đành phận, 
Năm nắng mười mưa dám quản công. 

Về nghệ thuật ngôn ngữ trong thơ Trần Tế Xương dường như được đi qua hầu hết các biện pháp tu từ. Trước tiên là cách sử dụng ca dao tục ngữ và các thành ngữ trong thơ ví dụ như cách sử dụng từ láy: (Ngao ngán, Nhạt nhèo, khăn khăn áo áo, Bút bút nghiên nghiên) trong bài Đêm buồn. Với cách sử dụng này quả thật đã phá vỡ Ngũ độ thanh trong thơ Đường luật thời trước. Điều này cũng cắt nghĩa cho việc Việt hóa thơ Đường luật của ông.

Ngao ngán tình chung cơn gió thoảng 
Nhạt nhèo quang cảnh bóng trăng suông 
Khăn khăn áo áo thêm rầy chuyện 
Bút bút nghiên nghiên khéo giở tuồng 

Cách ông dùng ẩn dụ thực sự đã đạt đến sự điêu luyện trong sử dụng ngữ pháp tiếng Việt. Đương thời dường như có rất ít người làm được như ông. Như hàng loạt các câu thơ trong bài Đạo đức giả:
Lắng tai non nước nghe chừng nặng
Chớp mắt trăng hoa giả cách nhèm
Cũng đã sư mô cùng đứa trẻ
Lại còn tấp tểnh với đàn em

Nếu như thơ Đường luật Trung Quốc vận dụng sự tích và điển cố để mở rộng các ý tứ trong thơ, thì Trần Tế Xương lại dùng ca dao, tục ngữ và nhiều thành ngữ tiếng Việt để mở rộng ý thơ. Đặc biệt là phép đối ông dùng càng nhuần nhuyễn. Chúng ta có thể kể ra một số thành ngữ trong tiếng Việt mà ông đã sử dụng. Với cách dùng thành ngữ như thế này dường như đã mở ra những mẫu câu cho những người làm thơ thời nay vận dụng.
Chúng ta còn tìm thấy ở ông cách dùng từ hết sức gợi cảm nhưng cũng thật gần gũi trong giao tiếp hàng ngày như: (ngoi,  ngỏng):

Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng

Những động từ (ngoi) dường như gợi cho ta thấy cái động tác cố di chuyển bộ mông ngồn ngộn của bà đầm. Hay như động từ (ngỏng) khéo nói về sự cố cất cao cái đầu của ông cử đang phải cúi gục trước các quan lại bề trên. Chính cái sự đối chọi giữa cái nơi khá “tục” của kẻ này với cái chỗ “thanh” của kẻ kia đã bật ra cái sự nhạo báng sâu cay đến độ.

2. Kết cấu các bài thơ
Chúng ta có thể thấy thơ Trần Tế Xương có sự khai thác rất chặt chẽ về niêm, luật, vần, đối và nhất là kết cấu đề, thực, luận, kết theo quy định của trường thi trong thời phong kiến. Trong hơn một trăm bài thơ cũng có đôi chỗ trái luật (có thể do sao chép). Số các bài còn lại thực sự hoàn hảo với ba yếu tố vần, luật, đối. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn cả là các tác phẩm của ông hoàn toàn được viết bằng chữ nôm của người Việt phù hợp với tiếng Việt giầu hài âm, nhạc tính.

a. Luật thơ chuẩn mực
Về luật thơ ông luôn tôn trọng những quy tắc cơ bản của thể thơ với những bộ phận đề, thực, luận kết bao giờ cũng rõ ràng mạch lạc, không hề công thức và khiên cưỡng. Từng phần một chắp vào nhau mà không hề thấy có sự phân cách. Có thể lấy ví dụ qua bài Thiếu nữ đi tu để dẫn chứng cho kết cấu của luật.

Con gái nhà ai dáng thị thành 
Cớ chi nỡ phụ cái xuân xanh  
Nhạt màu son phấn, say màu đạ, 
Mở cánh từ bi khép cánh tình. 
Miệng đọc nam vô quên chín chữ 
Tay lần tràng hạt phụ ba sinh 
Tiếc thay thục nữ hồng nhan thế
Nỡ cạo đầu thề với quyển kinh

Ngay từ đầu đề bài (Thiếu nữ đi tu) đã rất ngắn gọn đủ khái quát chủ đề bài thơ. Các câu phá đề, thừa đề đã hoàn tất việc giới thiệu về nhân vật (con gái nhà ai) cả về hoàn cảnh (dáng thị thành) và sự việc muốn nói đến (nỡ phụ cái xuân xanh).
Với cặp thực: (Nhạt màu son phấn, say màu đạo, Mở cánh từ bi, khép cánh tình). Hoàn toàn đủ để xong phần thực, cùng với phép đối ngẫu chuẩn mực bao hàm cả thực và trạng (Nhạt màu son phấn/ Mở cánh từ bi); (say màu đạo/ khép cánh tình). Chỉ cần hai từ: (say và khép) đã nói lên tất cả.
Với cặp luận: (Miệng đọc nam vô quên chín chữ/ Tay lần tràng hạt phụ ba sinh) đã nói rõ những đúng, sai về hành vi của nhân vật trong thơ. Đây cũng là một cặp đối hết sức hoàn thiện tỏ hết được cái ý của tác giả. Cũng như cặp thực, ở cặp luận cũng chỉ với hai từ: (quên và phụ) đã đủ để kết tội người trong cuộc.
Đến với cặp kết: (Tiếc thay thục nữ hồng nhan thế, Nỡ cạo đầu thề với quyển kinh) thì bài thơ đã hoàn thiện với một cái kết rất rõ ràng mạch lạc, đủ làm mẫu mực cho thể thơ này.
b. Các bộ vần đẹp
Về các bộ vần nhà thơ Trần Tế Xương dường như chỉ dùng vần bằng mà ít dùng vần trắc. Đây là bộ vần truyền thống của thơ Đường luật viết bằng tiếng Việt. Điểm quan trọng thứ hai là các bộ vần thường là chính vận, có rất ít các bài dùng vần gần đúng (bàng vận) hoặc các vần thông. Chính vì thế mà cả trăm bài thơ của ông đọc lên đều thấy êm ái nhẹ nhàng, gợi cảm và rất dễ thuộc. Có thể lấy bộ vần trong bài Đau mắt làm ví dụ:
Bộ vần trong bài Đau mắt với các vần (inh) để có các từ: Mình, thinh, sinh, đinh, tình. Đây là bộ vần bằng truyền thống của thơ Đường luật. Kết cấu hài thanh với đầu và kết lấy thanh huyền (trầm bình thanh). Các vần của các câu giữa đều thanh không (phù bình thanh). Đây là bộ vần giúp cho hơi thơ dàn trải, man mác hợp với cách kể lể về nỗi buồn của con người

Vui chẳng riêng ai, ốm một mình 
Hỏi ai, ai cũng chỉ mần thinh 
Vừa đồng bạc lớn ông Lang Xán 
Lại mấy hào con chú Ích Sinh 
Hỏi vợ, vợ còn đi chạy gạo 
Gọi con, con mải đứng chơi đinh 
Muốn mù trời chẳng cho mù nhỉ 
Gương mắt trông chi buổi bạc tình

Có thể lấy thêm bộ vần nữa trong bài Thề với người ăn xin làm ví dụ:
Bộ vần trong bài Thề với người ăn xin với các vần (o) để có các từ: no, cho, trò, gio, vò. Đây cũng là bộ vần bằng truyền thống với kết cấu hài thanh: vần đầu là thanh không (phù bình thanh). Vần thư 3 và vần cuối là thanh huyền (trầm bình thanh). Đây là bộ vần có vần đầu tiên giúp cho hơi thơ ban dầu rất nhẹ, hợp với cách của người muốn thanh minh một điều gì đó. Sang phần cuối với các vần là thanh huyền (trầm bình thanh) tựa như nhấn xuống hợp với ý muốn khảng định những điều trước đó đã nói:

Người đói thì ta cũng chẳng no
Cha thằng nào có tiếc không cho
Họ đày đoạ mãi dân cày cuốc
Ai xét soi cho cảnh học trò
Mong được cơm no cùng áo ấm
Gặp toàn nắng lửa với mưa gio
Miếng ăn đến miệng là thưa kiện
Lúa rũ chân đê chửa được vò
 
c. Phép đối hoàn chỉnh
Tất cả những người làm thơ đều nhận rõ bản thân cặp đối đứng độc lập đã đủ để hoàn chỉnh chủ đề của nó. Nhưng với thơ Đường luật rất cần có nó bởi từ phép đối ngẫu bật ra câu thứ ba (do người viết đề xuất) để tả được nhiều hơn trong phần thực và tỏ nhiều hơn trong phần luận. Điều muốn nói là trong thơ Trần Tế Xương chưa bao giờ khoan đối và không đối. Đặc tưng của thơ Trần Tế Xương lại tập trung hầu hết là thơ trào phúng nên đối trong thơ ông quả là hữu dụng. Dưới đây là một số cặp đối trong thơ Trần Tế Xương.

Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng

Khăn khăn áo áo thêm rầy chuyện
Bút bút nghiên nghiên khéo giở tuồng

Vừa đồng bạc lớn ông Lang Xán
Lại mấy hào con chú Ích Sinh

Bánh chưng sắp gói e nồm chảy
Giò lụa toan làm sợ nắng thiu

III. Kết luận
Về phong cách thơ Trần Tế Xương có đủ ba yếu tố hiện thực, trào lộng và trữ tình. Toàn bộ tác phẩm là bức thông điệp đứng đầu hệ thống văn học sử của thời đại với bút pháp trữ tình và trào lộng có một không hai trong lịch sử. Tuy nhiên điều muốn nói đó là tác phẩm của ông được tạo ra chính bởi chữ viết và tiếng nói của dân tộc Việt. Đặc trưng trong đó là sự tiếp thu của thơ Đường luật Trung Hoa; một trong những tinh hoa văn hóa thế giới mà mỗi dân tộc nào trên thế giới cũng có thể tiếp nhận, biến cải thành văn hóa của chính dân tộc mình.
          





Ngoài các tác phẩm thơ nôm của nhà thơ Trần Tế Xương mà chúng ta đã xác định đó là thể thơ Đường luật theo phong cách Việt, chúng ta còn có một kho tàng thơ dịch của ông cũng mang âm hưởng và ngôn ngữ Việt. Trong số tám mươi ba bài thơ dịch, tương truyền là của ông đã được các học giả giới thiệu khá kỹ trong Tú Xương toàn tập”. Điều mà ta nhận thấy là đa số các bài thơ ngũ ngôn đã được ông dịch thành thất ngôn, chính từ đó mà độc giả dễ hiểu và dễ cảm. Nhưng đáng kể nhất phải nói đến là đó là phương pháp dịch thơ của ông có nhiều nét cách tân khác với nhiều người dịch trong thời điểm đó.
Cho dù phải tôn trọng nội dung của bài thơ gốc nhưng nhiều bản dịch ông đã bỏ qua “hình thức ước lệ, tượng trưng, công thức, quy phạm” trong phản ảnh con người và xã hội vốn đã ngự trị trong thơ Đường luật Trung Hoa bằng cách sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt hết sức phong phú và đa dạng giống như cách sáng tác thơ nôm luật Đường của ông. Đây cũng là những nét chính trong Việt hóa thơ Đường luật.

1. Trích dẫn tóm tắt một số bản dịch
Để nói rõ hơn về quá trình Việt hóa thơ Đường luật của nhà thơ Trần Tế Xương trong dịch thuật thơ Đường luật chúng ta không thể không nhắc đến tám mươi ba bài thơ dịch trong:Đường thi hợp tuyển ngũ ngôn luật giải âm. Trong mảng thơ dịch của ông đều giữ nguyên đầu đề của nguyên tác (nghĩa là các bản dịch của ông không có đầu đề). Nhiều nghiên cứu của các học giả đã nói về phương pháp dịch thơ của ông khác hẳn với nhiều người. Điều đáng nói là những cảnh, những tình trong nguyên tác đã được khắc họa sâu sắc hơn, rõ nét hơn về mọi mặt. Riêng về nghệ thuật các bản dịch luôn sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt cùng với nghệ thuật tu từ, đặt câu của văn hóa Việt. Từ đó cho thấy những bài thơ dịch có một sắc thái riêng mang đậm nét văn hóa của dân tộc Việt Nam. Đây cũng chính là đóng góp đặc sắc của ông trong dịch thuật thi ca và trong Việt hóa thơ Đường luật qua các tác phẩm gốc thơ Đường. Dưới đây xin trích dẫn một số bản dịch thơ của ông:

Thất thập dạ đối nguyệt
(Đỗ Phủ)
Thu nguyệt nhưng viên dạ
Giang thôn độc lão thân
Quyển liêm hoàn chiếu khách
Ỷ trượng cách tùy nhân
Quang xạ tiềm cầu động
Minh phiên túc điểu tần
Mao trai y quất dữu
Thanh thiết lộ hoa tân


Dịch nghĩa:
Ngắm trăng đêm mười bẩy
Trăng thu đêm nay vẫn tròn
Chỉ có một mình lão già ở thôn bên sông
Cuốn rèm lên trăng đã chiếu vào ta
Chống gậy đi đâu trăng cũng theo
Ánh sáng rọi làm con cầu long cựa mình
Bóng sáng soi vào khiến con chim ngủ xoay mình
Lều tranh dựa bên cây quýt, cây bưởi
Hạt móc đọng như hoa mới nở


Bản dịch
(Trần Tế Xương)
Vành vạnh đêm rằm chút chửa sai
Giang thôn lụ khụ một mình ai
Mở rèm trông thấy như chào tớ
Chống gậy ra chơi lại đón người
Trong suốt rồng nằm dòng nước chảy
Sáng choang chim ngủ bóng cành phơi
Nhà tranh ngồi tựa bên chồi quýt
Móc trắng lòng ta cũng trắng ngời.
          
Bài thơ của Đỗ Phủ tỏ rằng chỉ có một mình lão già này ở xóm bên sông với  trăng làm bạn. Hình như trăng vẫn tròn mà chưa tàn khuyết. Chỉ mới mở rèm ra trăng đã soi vào người. Ta chống gậy đi đâu trăng cũng theo đi cùng, trăng soi xuống nước làm rồng thức, soi vào chim trên cây làm cho nó phải xoay mình.  Dưới trăng cả ngôi nhà bên cây quýt cũng lay động, giọt sương cũng ánh lên trên cánh hoa mới nở.
Với ông Tú thì ngoài việc giữ cái ý của nguyên tác còn có thêm những nét tinh tế khác. Đó chính là ông coi trăng thực sự là người bạn. Vửa mở rèm trăng đã “chào tớ” và rồi khi ông đi trăng lại cùng đi “ra chơi lại đón” chứ không phải đi theo như nguyên tác. Điều thú vị là ông Tú nói không cần úp mở rằng có trăng mà ta không cô đơn, có trăng mà ta hòa đồng được với cảnh vật tới mức “Móc trắng lòng ta cũng trắng ngời”
Về nghệ thuật rõ ràng bản dịch theo thể thất ngôn, âm điệu dịu dàng và có tính nhạc hơn. Tuy nhiên điều chúng ta muốn tìm là phong cách Việt trong thơ dịch của ông. Điều đó rất rõ trong cách dùng ngôn từ của bài thơ dịch với hàng loạt các từ láy.
Chỉ là “vành vạnhthôi đã đủ để nói cái sự tròn, chỉ với “lụ khụ” đã rõ cái sự già nua tuổi tác. Hoặc với các từ ghép “trong suốt, sáng choang” đã đủ nói về hình ảnh một không gian sống động. Cùng với việc sử dụng các từ ngữ điêu luyện là các cấu trúc ngữ pháp trong các câu thơ chỉ có trong tiếng Việt hiện đại. Ngày nay các tác phẩm vận dụng theo nghệ thuật dùng từ đặt câu của ông Tú thật là đắc dụng.
Một ví dụ khác nữa là bài thơ “Đối tuyết” thể ngũ ngôn của Đỗ Phủ cũng được dịch theo thể thất ngôn.

Đối tuyết
(Đỗ Phủ)
Bắc tuyết phạm Trường Sa
Hỗ vân lãnh vạn gia
Tùy phong thả nhàn diệp
Đới vũ bất thành hoa
Kim thác nang thùy chỉnh
Ngân hổ tửu dị xa
Vô nhân kiệt phù nghĩ
Hữu đãi chí hôn nha

Dịch nghĩa
Tuyết miền bắc đã đến Trường Sa 
Mây xứ Hồ gieo lạnh đến muôn nhà. 
Lá rơi từ từ theo làn gió, 
Hoa không nở được dưới cơn mưa. 
Hễ tiền trong túi đã xóc xách, 
Thì rượu dễ đầy bình bạc. 
Không ai uống hết rượu phù nghị, 
Xin cứ đợi đến lúc quạ chiều
Bản dịch
(Trận Tế Xương)
Nam bắc phôi pha mấy dặm khơi
Tuyết mây dan díu một phương trời
Gặp cơn ghen gió màu tha thiết
Sáu cánh trêu mưa dáng tả tơi
Một túi càn khôn dầu nhẹ nhẹ
Lưng bầu phong nguyệt chẳng vơi vơi
Biết ai cạn chén tri âm tá
Thơ thẩn chiều hôm những đứng ngồi

Bài Đối tuyêt của Đỗ Phủ nhằm cái ý trước cảnh tuyết rơi, khắp nơi giá lạnh lá cây rơi rụng, hoa không nở được vì mưa, có tiền trong túi không lo hết rượu. Cứ uống đợi đến lúc chiều về
Còn với Trần Tế Xương thì bài thơ có sự thay đổi đáng kể. Ông nói về sự phôi pha giữa nơi xa vắng. Mây tuyết mưa gió tàn phá gợi bao nỗi niềm. Túi càn khôn kia dù nhẹ bớt, cái bầu phong nguyệt vẫn không vơi. Chẳng biết ai sẽ là bạn tri âm, nên lòng mãi bồn chồn đứng ngồi không yên.
Về nghệ thuật ông phối hợp ước lệ theo lối cổ của Đường luật Trung Hoa “Một túi càn khôn” hay “Lưng bầu phong nguyệt” và trộn vào đó vốn ngôn ngữ thuần Việt “dầu nhè nhẹ” hay “chẳng vơi vơi” một cách tài tình. Vì thế nên nhiều học giả đương thời và cả những người đời sau đã nhận xét nhà thơ là “thần thơ thánh chữ”.
Điều cần nhấn mạnh là hầu như bài thơ dịch nào của ông cũng đều dùng ngôn ngữ tiếng Việt hiện đại. Nghĩa là từ ngày đó (một trăm năm trước) thơ Đường luật đã được Việt hóa đến độ sâu sắc trong bút pháp của Tú Xương. Thêm một lần nữa ghi nhận công lao của ông trong văn học Việt Nam nói chung và trong Việt hóa thơ Đường luật nói riêng.
2. Một số bài thơ dịch
Dưới đây là một số bản dịch thơ Đường luật của nhà thơ Trần Tế Xương trích từ tác phẩm Tú Xương toàn tập do Nhà xuất bản Văn học xuất bản năm 2010 (các bản dịch không có đầu đề nên viết theo đề của nguyên tác - sách đã dẫn)
Mừng mưa đêm xuân
(Đỗ Phủ)
Khen thay con tạo khéo chia mùa
Hoa sớm mưa xuân những hẹn hò
Đưa nhẹ một cơn bừng giấc thắm 
Rơi ra từng sợi thấm cành khô
Đồng không lối tắt mây nghi ngút
Sông vắng thuyền ai lửa thập thò
Phơi phới thành xuân ban sáng tạo
Chồi sương nặng trĩu mặt hoa đưa.

Dã vọng 
(Vương Tích)
Bóng lộn ngàn cao buổi tối mòng
Một mình chưa dễ đứng ngồi xong
Cây lồng sắc chiếu màu thu tía
Non ánh tà dương lộng vẻ hồng
Trẻ mục giục trâu lùa cái nghé
Người săn cưỡi ngựa xách con hồng
Cùng trông lại biết ai hay tá?
Tưởng hái rau vi những ngại ngùng

Sơ nguyệt 
(Đỗ Phủ)
Nửa vành vừa hé mái cung lên
Một bánh xe trông chửa vẹn tuyền
Thấp thoáng đầu cành trên bể ló
Lô nhô ban tối áng mây ken
Chắn ngang luống để sông Ngân trắng
Hiu hắt vì ai mặt ải đen
Trăm mối bên lòng càng áy náy
Dãy thềm chòm cúc giọt sương hoen

Đăng Nhạc Dương lâu 
Đỗ Phủ
Mấy cảnh Tiêu Tương vẫn tiếng đồn
Lầu đây hồ đấy trải bao còn
Chia ra Ngô Sở chiều ngang dọc
Chốt lại càn khôn thỏa nước non
Một chữ thân bằng tin nhạn vắng
Nghìn trùng quan tái chiếc thuyền con
Xa xa cõi bắc lầm phong hỏa
Thăm thẳm Trường An mắt đã mòn

Thánh Tuyền yến 
(Vương Bột)
Phất phơ tràng áo bước lên non
Ngoảnh lại bên đình lạch suối con
Bầu sánh cúc pha ba chén cạn
Vần lơi tùng thét mấy cung dồn
Lơ thơ bóng rủ ngoài cành lọn
Ngào ngạt hoa bay trước gió tuôn
Rừng vắng tà tà say ngắm cảnh
Lô xô len đá khói đùn đùn

Cũng như các nhà thơ Hàn Thuyên, Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, nhà thơ Trần Tế Xương đã góp công lao to lớn hơn hết cho việc hình thành thơ Đường luật theo phong cách Việt, Chúng ta có thể khảng định toàn diện về một thể thơ khác đó là “Thơ luật Việt Nam” trong quá trình tiếp thu tinh hoa văn hóa của thế giới. Về ý kiến này chúng tôi còn muốn có nhiều ý kiến của các học giả có kiến thức sâu rộng hơn cùng góp sức như đã làm với “Thơ mới” vốn cũng có sự kết hơp giữa thi ca Việt Nam với thơ Nga, thơ Pháp và thơ của nhiều nước khác. Cho đến nay chỉ còn lại với cái tên: “Thơ tự do”; “Thơ Mới” hoàn toàn của Việt Nam ta vậy.
                                                                        (LTH)
                                                 



                                Lê Trọng Hồng
CLB thơ ĐL Lục Đầu Giang tỉnh Hải Dương


Sau hàng ngàn năm dân tộc Việt đương đầu với những cuộc xâm lược của các thế lực phong kiến phương Bắc và lần nào cũng đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi. Tuy nhiên lần này dân tộc ta gặp phải một kẻ thù xâm lược mạnh mẽ và nham hiểm hơn nhiều. Đó chính là cuộc xâm lược của Thực dân Pháp cùng với vũ khí hiện đại và đầu óc thực dân nhiều tham vọng tìm kiếm nguyên liệu và chiếm đoạt thị trường của giai cấp tư sản ở châu Âu.
Giai đoạn đầu thế kỷ XX cũng là giai đoạn Thực dân Pháp đã thôn tính xong đất nước ta, bắt đầu cuộc thực dân hóa của chúng bằng mọi thủ đoạn, cùng với sự giúp sức của bè lũ vua quan phong kiến, tay sai bán nước, đến các quan lại ở phủ huyện và các cấp thấp hơn đó là các hào lý ở thôn xóm. Đây chính là giai đoạn những chính sách độc quyền của thực dân Pháp trong cai trị và vơ vét kinh tế, tài nguyên đem về chính quốc. Cùng với chính sách về kinh tế, chính quyền thực dân tiếp tục tổ chức bộ máy quân đội đàn áp các phong trào cách mạng của các tầng lớp sĩ phu yêu nước, đàn áp các cuộc khởi nghĩa binh biến của cai đội, binh lính cùng với dân lao động. Cho đến khi chính quyền thực dân đè bẹp tất cả các phong trào Cần vương, Duy tân, Đông Kinh Nghĩa Thục, các cuộc khởi nghĩa của Trương Định, Hoàng Hoa Thám, Phan Đình Phùng, và nhiều phong trào khác. Tàn sát, bắt bớ, giam cầm những người đứng đầu trong các nhà tù của chúng. Đất nước ta hoàn toàn trong đau thương, chết chóc dường như bị tê liệt cho đến khi các phong trào vô sản bắt đầu hoạt động.
Tuy nhiên với những giai đoạn xã hội khi ở cao trào lúc lại thoái trào như vậy, nhưng từ bên trong lòng của nó vẫn như được ủ nóng và sẵn sàng bốc cháy khi thời cơ đến. Điều này được phát hiện chính là nhờ các ghi chép thông qua các tác phẩm văn học thời đó và một trong những thể loại văn học đó là thơ Đường luật Việt Nam

Thơ Đường luật trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX này hầu hết là của của các sĩ phu và và các học giả biết chữ Hán, chữ Nôm và sau này là chữ quốc ngữ. Trong số này phần đông lại đang sống trong sự kiềm tỏa của chính quyền thực dân và phong kiến tay sai nên phần lớn những bài thơ đều luôn kín đáo gửi gấm nỗi niềm trong sự hoài cổ về sự huy hoàng của lịch sử cha ông và non sông đất nước.

1. Thơ Đường luật diễn đạt nỗi niềm trong hoài cổ
Những bài thơ Đường luật hoài cổ xuất hiện trong thời gian này đa phần là nhắc đến truyền thống yêu nước đánh giặc của cha ông, nhân đấy đánh thức ý chí vươn lên đấu tranh giành lại non sông đất nước. Cũng trong thời thơ ca hoài cổ này đã có đến hàng trăm tác giả với nhiều bài thơ viết bằng chữ Nôm, chữ Hán của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Nguyễn Thượng Hiền vv…  Điển hình trong sự hoài cổ ấy là bài thơ Thăng Long thành hoài cổ của Phan Trọng Mưu xuất hiện trong khi Pháp tổ chức khánh thành cầu Long Biên năm 1902. Bài thơ nhắc về dấu ấn lịch sử quang vinh qua bao triều đại của miền đất Thăng Long xưa. Cùng với những trận chiến oanh liệt “Cầm hồ đoạt sáo” vẻ vang một thời trong truyền thống của người xưa giờ đâu không thấy nữa

Ngưu Hồ dĩ biến tam triều cuộc, 
Long, Đỗ không dư bách chiến thành
Cầm hồ đoạt sáo nhân hà tại.
Ưng vị giang sơn tẩy bất bình

Ngoài ra còn rất nhiều các bài thơ khác luôn nhắc nhớ đến lịch sử quang vinh oanh liệt của cha ông, khêu gợi niềm trắc ẩn trong lòng mọi người. Từ đó nêu cao lòng yêu nước và ý chí đấu tranh cách mạng kêu gọi họp nhau lại đứng lên đánh đuổi quân xâm lược. Trong số đó có khá nhiều các bài thơ như: Cổ Loa hoài cảm, Với sơn hàĐề đền vua Hùng Vương của nhà chí sĩ Á Nam Trần Tuấn Khải:

Cám cảnh cháu con hăm mấy triệu! 
Tưởng công tôn tổ bốn nghìn năm. 
Chắp tay vái lạy mây trời thẳm, 
Phù hộ muôn dân buổi cát lầm...
(Đề đền vua Hùng Vương) 

Hay như nhà chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng cũng gửi vào thơ Đường luật với nói về một “Cành chim làm tổ. Ngờ đâu muôn dặm hạc xa vời...” giờ đây tan tác và những lời nhắn gửi cần thiết về một sự trùng phùng đoàn kết lại. Những câu hỏi người xưa và những câu trả lời về người nay. Sao không noi theo đó mà lại để non sông chìm đắm, dân tộc lầm than.

Non sông trơ đó, Thầy đâu vắng? 
Con cháu còn đây, giống vẫn cường 
Công đức miệng người ghi tạc mãi 
Ngàn thu mấy kẻ biết trông gương!

Nhớ lại trước đó nhiều nhà chí sĩ đã viết những bài thơ kể rõ sự hèn hạ của triều đình phong kiến từng bước để đất nước ta rơi vào tay giặc như bài Nhượng địa của Phan Văn Trị dưới đây:

Tò te kèn thổi tiếng năm ba, 
Nghe lọt vào tai dạ xót xa. 
Uốn khúc sông Rồng mù mịt khói, 
Vắng hoe thành Phụng ủ sầu hoa.(3) 
Tan nhà căm nỗi câu li hận, 
Cắt đất thương thay cuộc giảng hòa. 
Gió bụi đòi cơn xiêu ngã cỏ, 
Ngậm ngùi hết nói nỗi quan ta.

2. Thơ Đường luật làm vũ khí châm biếm
Một trong những đặc điểm quan trọng nhất trong nửa đầu thế kỷ XX là việc thơ Đường luật Việt Nam được viết với phong cách trào phúng. Đây là vũ khí sắc bén châm biếm bọn thực dân xâm lược và bè lũ tay. Từ đó làm cho dân chúng thấy rõ bộ mặt thật bọn xâm lược và bè lũ tay sai bán nước. Điển hình với thơ Đường luật trào phúng giai đoạn này là những bài thơ của nhà thơ Nguyễn Khuyến và nhà thơ Trần Tế Xương. Thơ của hai nhà thơ này đặc biệt nhằm vào bè lũ xâm lược và bọn tay sai bán nước.
Những nội dung chính trong các bài thơ trào phúng của các nhà thơ là phơi bầy cái đời sống cực khổ của nhân dân. Trong đó có hàng trăm các bài thơ của nhà thơ Nguyễn Khuyến viết về khu vực thôn quê ở Hà Nam trong cảnh nghèo túng, cùng quẫn:
Năm nay cầy cấy gặp chân thua
Chiêm mất đàng chiêm mùa mất mùa
Phần thuế quan Tây phần trả nợ.
Nửa công đứa ở nửa công bò

Trong bài thơ Hội Tây của Nguyễn Khuyến viết về cái chính sách ru ngủ người dân trong các trò hội hè để quên mất nỗi nhục mất nước:

Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo
Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo.
     …
Khen ai khéo vẽ cho vui thế
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu

Cũng như Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương cũng đã viết hàng trăm bài thơ trào phúng về tầng lớp thị dân ở vùng Nam Định với các tệ nạn xã hội buôn bán bài bạc lừa đảo. Con người dở quê dở tỉnh, tha hóa đến mức chẳng còn coi lễ nghĩa là gì nữa trong bài Đất Vị Hoàng:

Nhà kia lỗi phép con khinh bố 
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng 
Keo cú người đâu như cứt sắt 
Tham lam chuyện thở những hơi đồng 

Đặc biệt hơn đó là các bài thơ trào phúng viết về trường thi và đạo học thật sự chán chường với cảnh nay thay mai đổi, cùng với các trò gian lận nơi trường ốc.

Đạo học ngày nay đã chán rồi 
Mười người đi học chín người thôi 
Cô hàng bán sách lim dim ngủ 
Thầy khoá tư lương nhấp nhổm ngồi 
Sĩ khí rụt rè gà phải cáo 
Văn trường liều lĩnh đấm ăn xôi 

3. Thơ Đường luật tuyên truyền vận động
Tiếp theo thời gian của sự hoài cổ tác động một cách khiêm tốn đến phong trào yêu nước và cách mạng đó là những bài thơ tuyên truyền và vận động đứng lên cứu nước ngày càng sôi sục. Do tính chất vận động với nhiều nội dung cần nói tới mà những bài thơ theo thể lục bát, song thất lục bát xuất hiện nhiều hơn như “Lưu cầu huyết lệ tâm thư”của Phan Bội Châu. Nhưng cũng không thiều các bài thơ Đường luật vượt qua sự man mác buồn thời trước để sang trang mới tố cáo bọn thực dân phong kiến và kêu gọi đứng lên đánh đuổi giặc ngoại xâm.
Trước hết là những bài thơ nói về cái chí của người cách mạng cả trong cách sống sao cho xứng đáng đừng để:

Sống tủi làm chi đứng chật trời
Sống làm nô lệ cho người khiến.
                          (Sống - Phan Bội Châu)

Chẳng những là cách sống mà ngay cả cái chết cũng phải chết sao cho oanh liệt vì nước vì dân làm sao cho xứng đáng:

Chết mà vì nước, chết vì dân,
Chết đấng nam nhi trả nợ trần.
                          (Chết - Phan Bội Châu)
4. Thơ Đường luật của nhà cách mạng trong lúc bị cầm tù
Bằng những cuộc đàn áp đẫm máu của chính quyền thực dân Pháp, đối với các phong trào cách mạng, số đông các nhà cách mạng đều bị bắt giam trong các nhà lao. Với hoàn cảnh eo hẹp và bức bối của nhà tù thực dân, người tù chỉ còn biết giãi bầy lòng mình bằng cách sáng tác thơ. Chính trong lúc này thơ Đường luật thực sự là công cụ có ích cho họ.
Không phải ngẫu nhiên mà sau những vần thơ bốc lửa của nhiều thể thơ của người Việt, cụ Phan Sào Nam vẫn dành một phần cho thơ Đường luật, nhất là sau khi cụ bị kẻ thù bắt bớ giam cầm. Chính trong lúc này cụ lại dùng những bài thơ Đường luật với nhiều nội dung tranh đấu. Khi cụ ở nước người mà vẫn nghĩ về nước mình và cái hận nước dường như lúc nào cũng nằm đâu đó trong tim trong óc như những câu thơ trong bài Hữu cảm của cụ:

Tam niên Lĩnh Hải tác thi tù, 
Thân thế gia bang lệ bính lưu.

Hay như bài thơ Cảm tác vào nhà ngục ở Quảng Đông của cụ:

Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu 
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù 

Một nhà chí sĩ nữa trong thời gian ấy là cụ Phan Châu Trinh cũng từng viết thơ Đường luật trong khi ở tù. Một trong những bài thơ nổi tiếng của cụ là bài thơ Đập đá ở Côn Lôn

Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn, 
Lừng lẫy làm cho lở núi non. 
Xách búa đánh tan năm bảy đống, 
Ra tay đập bể mấy trăm hòn. 
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi, 
Mưa nắng càng bền dạ sắt son. 
Những kẻ vá trời khi lỡ bước, 
Gian nan chi kể sự con con.

5. Thơ Đường luật của nhà thơ cách mạng vô sản
Trong dòng văn học yêu nước và cách mạng, thơ Đường luật của các nhà thơ “cách mạng vô sản” đến có muộn hơn, so với sự xuất hiện của các “phong trào duy tân và bạo động” nhưng lại phong phú và rõ nét nhất. Cũng như đã nói ở phần đầu về hoàn cảnh xã hội đã tạo nên những dòng văn học của dân tộc. Trong tiến trình hình thành các tổ chức cách mạng vô sản thì cũng cũng hình thành hệ thống văn học của cách mạng vô sản. Các nhà thơ cách mạng vô sản vào giai đoạn ấy ngoài việc nhằm vào mục đích tuyên truyền, vận động còn có cả những bài viết về những hành động đấu tranh cụ thể. Để tự nhắc nhở mình và nói cùng đồng chí về niềm tin vào cách mạng. Nhà thơ Trường Chinh viết trong thời gian ở Hỏa Lò bài thơ Niềm tin:

Bình minh bừng sáng ở phương đông
Xé toạc màn sương phủ cánh đồng
Đêm sẽ qua đi, ngày sẽ lại
Trời quang, mây tạnh, ánh dương hồng.

Nhà thơ cách mạng Trần Cung cũng đã viết bài thơ Đề lao năm 1939 khi ông đang ở tù. Những câu thơ phóng khoáng đến mức coi nhà tù thực dân chỉ như chỗ dừng chân trên đường tranh đấu:

Cuộc đời chiến sĩ thật ba đào, 
Thấm thoắt năm lần bị tống lao.
Nhốt chặt con người tầng cửa sắt, 
Vây riêng cõi đất bức tường cao. 
Cá mục, cơm hôi, xiềng xích sắt, 
"Văn minh khai hoá" gớm ghê sao?

Thậm chí trong khi ở tù, các nhà thơ cách mạng cũng tìm cách liên hệ với nhau để tổ chức thi thơ Đường luật và tặng giải cho thơ. Nhà thơ cách mạng Trần Cung đã được giải nhất trong đợt thi thơ năm 1933 ở Hỏa Lò Hà Nội với bài Tết nhà pha

Năm mới sang rồi, năm cũ qua, 
Đời tù mới, cũ khéo phôi pha. 
Nghinh tân lễ mễ khiêng ty nét, 
Bái tuế lom khom bế lập là. 
Mặt trái đời kia toàn mặt quỷ, 
Trò chơi xuân đó thiếu trò ma. 
Mùi đời nếm trải ai sành sỏi? 
Có biết mùi này... mặn nhạt a?

Thơ Đường luật cũng là công cụ cho các nhà thơ cách mạng vô sản phản ảnh tình yêu nước và ý chí cách mạng của bản thân và cả thế hệ của họ trong nhân sinh quan mới của thời đại. Một trong những bài thơ đã phản ảnh đến cái sự hy sinh cao cả của nhà thơ vô sản đó là bài “Thư cho vợ” của Trần Cung viết ở Côn Đảo năm 1934:

Đồng chí của tôi, em của anh, 
Hai ta cùng nhất trí hy sinh. 
Ái ân đúc lại hồn non nước, 
Hạnh phúc tìm trong cuộc đấu tranh. 
Kiếm chốn nương thân nuôi lũ trẻ, 
Cho anh yên dạ vượt xà lim. 
Thuỷ chung theo nghĩa cao xa ấy, 
Đó mới là chân chính tiết trinh.

Đặc biệt hơn cả đó là những bài thơ Đường luật cũng trở thành công cụ cho nhà thơ cách mạng Hồ Chí Minh viết tác phẩm Nhật ký trong tù vào những năm 30 của thế kỷ XX, như một khúc tráng ca của các nhà thơ cách mạng vô sản.

Thân thể tại ngục trung
Tinh thần tại ngục ngoại
Dục thành đại sự nghiệp
Tinh thần cánh yếu đại.
            
Để có thể kết luận bài viết cũng nên nói thêm một chút về hoàn cảnh của thể thơ Đường luật Việt Nam vào những năm 20 của thế kỷ XX. Đây là khoảng thời gian rộ lên một nhận định khá độc đoán (trong một chừng mực nào đó): Thơ Đường luật bị coi là “cũ” là khó sáng tác, là bó buộc tâm hồn thơ. Nhưng thực tế cho thấy thể loại thơ này đã qua nhiều lần Việt hóa và đã trở thành thơ Đường luật Việt Nam như phần trên đã nói đến. Hầu hết các nhà thơ thời đó đều đã từng làm thơ Đường luật và những bài thơ Đường luật đã chiếm lĩnh tất cả các đề tài về cuộc sống và hơn hết đó là mảng đề tài về yêu nước và cách mạng.
Với một số nét khái quát trên đây đã đánh dấu sự đóng góp to lớn của thơ Đường luật Việt Nam trong dòng văn học yêu nước và cách mạng nửa đầu thế kỷ XX như các thể loại văn học khác của Việt Nam
                                                                                                     (LTH)




VĂN HỌC CHỨC NĂNG
TRONG THƠ ĐƯỜNG LUẬT THỜI LÝ

                                 LÊ TRỌNG HỒNG
        Chi hội thơ Đường luật Lục Đầu Giang tỉnh Hải Dương

Lịch sử văn học viết của nước ta chính thức xuất hiện vào thế kỷ thứ X. Có nhiều giả thuyết cho rằng đây là thời kỳ văn học mở đầu, tuy nhiên cho đến những năm tám mươi của thế kỷ hai mươi chúng ta mới đặt tên thời đại văn học theo cách sắp xếp của thế giới. Từ đó chúng ta có hệ thống nghiên cứu các thời kỳ văn học đồng nhất với quốc tế. Đối chiếu với thời gian trên thì thời kỳ xuất hiện văn học viết của nước ta được xếp vào thời kỳ văn học trung đại. Đây cũng chính là thời kỳ hình thành và phát triển của Lý triều kéo dài 216 năm từ 1009 đến năm 1225. Những nét đặc trưng của văn học trung đại nước ta là loại hình văn học chức năng và loại hình văn học nghệ thuật. Tuy nhiên không loại trừ sự đan xen giữa hai loại hình văn học cùng xuất hiện trong từng tác phẩm.
Trong quá trình khảo sát văn học cũng có nhiều khái niệm khác nhau về các tác phầm thơ thời Lý. Nhiều người cho rằng những sáng tác của các nhà sư mang tính thiền nên thường cho đó là các bài thơ thiền. Một dạng sáng tác cô đọng hơn để truyền tải những triết lý nhà phật lại được gọi là kệ. Để giúp cho việc tìm hiểu chúng tôi xin được gọi chung các tác phẩm là thơ Đường luật thời Lý.

I. Những bài thơ Đường luật thời Lý thuộc thể loại văn học chức năng.
Nói đến loại hình văn học chức năng với cái đích chính là sự ảnh hưởng của văn học đến đời sống xã hội. Trên tinh thần đó chúng tôi xếp các bài thơ theo từng chức năng cụ thể. Đó là các bài thơ sấm có nội dung định hướng xã hội; các bài thơ truyền giảng về tôn giáo; các bài thơ vấn đáp về lẽ đời, lẽ đạo và cả các bài thơ cảm hứng, tự tình của các tác giả cũng hướng đến các hoạt động xã hội. Dưới đây là một số nét khái quát về văn học chức năng trong thơ Đường luật thời Lý.

a. Những bài thơ mang chức năng định hướng xã hội
Những bài thơ mang chức năng định hướng xã hội là những bài thơ sấm xuất hiện khá nhiều trong văn học thời Lý, thậm chí còn xuất hiện trước nữa vào thời Đinh, Lê. Đây chính là các bài thơ được viết ra với ý đồ hướng mọi người đến một mục đích nào đó. Cụ thể hơn đó là các bài thơ cổ súy cho việc đưa ai lên làm vua và từ đây có một dòng tộc thay nhau lãnh đạo đất nước. Trong Thơ văn Lý Trần thống kê nhiều lần xuất hiện thơ sấm, đó là giai đoạn nhà Lê thay nhà Đinh tiếp đến là nhà Lý thay nhà Lê. Những bài thơ dạng này thường là khuyết danh vì đây được ví với sự phán bảo của trời. Nếu nói về nguồn gốc thì có chăng là do người nào đó nghe được, nhìn thấy được ở một nơi nào đó. Về nội dung các bài thơ thường đượm màu huyền bí, mượn quang cảnh, hiện tượng tự nhiên mà diễn giải. Đó chính là những bài thơ sấm chuẩn bị cho sự ra đời triều Lê, triều Lý... Có thể lấy bài thơ sấm Quốc tự mà Vạn Hạnh đọc được ở cây gạo chỉ rõ Thân vệ (Lý Công Uẩn) sẽ lên ngôi trong ba tháng nữa.

Cái tam nguyệt chi nội
Thân vệ đăng trụ xã tắc
Lạc trà ấn quốc tự
Thập khẩu thủy thổ khứ
Ngộ thánh hiệu Thiên Đức

Hoặc bài Yết bảng thị chúng: nói về cây tật lê (ám chỉ triều đại Lê Hoàn) chìm sâu ở mạn Bắc và Lý tử (chỉ Lý Công Uẩn) ở Nam thiên sẽ thay thế. Tứ phương sẽ hết can qua và đất nước sẽ thanh bình

Tật lê trầm Bắc thủy
Lý tử thủ Nam thiên
Tứ phương qua can tĩnh
Bát biểu hạ bình yên

Đặc biệt hơn là bài thơ Đại Sơn khuyết danh, tiếp cái ý của bài thơ mà Từ Đạo Hạnh đọc được ở gốc gạo, nhưng lại nói rõ ràng rằng trong ba tháng thỏ, gà, chuột sự sẽ thành

Đại sơn long đầu khởi
Cù vĩ ẩn chu minh
Thập bát tử định thành
Miên thụ hiện long hình
Thố kê thử nguyệt nội
Định kiến nhất xuất thanh

Tước bỏ đi những khái niệm duy tâm trong các bài thơ, ta vẫn nhận ra rằng tầng lớp sĩ phu và các nhà sư quả đã nắm bắt đầy đủ các hoạt động xã hội đương thời và triệt để khai thác nó phục vụ cho các sách lược lớn lao của đất nước.

b. Những bài thơ truyền giảng về đời và đạo
Một dạng văn bản thi pháp ngắn gọn, hàm súc được gọi là kệ xuất hiện nhiều trong các tác phẩm thời Lý. Thường các bài kệ đã được nung nấu qua sự từng trải, chiêm nghiệm của tác giả, nó huyền bí và khó hiểu chỉ có thể suy ngẫm kỹ mới có thể ngộ được. Người ta cũng từng xếp thể loại văn học này với hình thức văn học “vô ngôn” nó có phần nào giống như khái niệm “Ý tại ngôn ngoại” mà nghệ thuật thơ Đường luật thường đề cập đến. Về thực chất kệ cũng là loại hình văn học chức năng nhằm chỉ bảo hoặc nhắn gửi một nội dung nào đó cho mọi người. Nó có thể viết với nhiều ẩn ý mang tính tôn giáo nhưng nó cũng bộc lộ rõ như những câu chữ thông thường trong giao tiếp hàng ngày. Có thể lấy bài nói về Sinh, lão, bệnh, tử của nhà thơ nữ Lý Ngọc Kiều làm ví dụ:

Sinh lão bệnh tử
Tự cổ thường nhiên
Dục cầu xuất ly
Giải phọc thiêm triền
Mê chi cầu phật
Hoặc chi cầu thiền
Thiền phật bất cầu
Đỗ khẩu vơ nghiên

Điều mà tác giả muốn nói: Sinh, lão, bệnh, tử vốn là tự nhiên, cái sự cầu siêu thoát thực chẳng hóa ra là cột chặt thêm và tỏ ra không hiểu biết. Tốt nhất là ngậm miệng lại, không nói gì cả.

Ở một số bài lại được viết ra với sự ẩn chữa những triết lý huyền bí, chỉ có thể hiểu sau nhiều suy ngẫm. Có thể lấy ví dụ qua bài Thị đệ tử bản tịch của Đào Thuần Chân:

Chân tính thường vô tính
Hà tằng hữu sinh diệt
Thân thị sinh diệt pháp
Pháp tính thị tằng diệt

Bài kệ nói về khái niệm chân tính thực chất chỉ là vô tính. Thân người luôn có sự sinh diệt, còn với pháp tính thì chưa bao giờ sinh và cũng chưa bao giờ diệt. Bài thơ chính là lời dặn học trò về cái sinh diệt của bản ngã nên đừng bao giờ chấp ngã.

Một bài kệ khác nữa mang chức năng truyền thụ đạo pháp cũng xuất hiện giữa những người đồng đạo ví như bài Đáp Từ Đạo Hạnh chân tâm chi vấn của Kiều Trí Huyền:

Ngọc lý bí thanh diễn diệu âm
Cá trung mãn mục lộ thiền tâm
Hà sa cảnh thị bồ đề đạo
Nghĩ hướng bồ đề cách vạn tầm

Bài viết mang tính trao đổi giữa hai người về một triết lý: phật ở khắp mọi nơi, vì thế chớ nên cho rằng phật ở quá xa không với được. Nói một cách khác đó là phật luôn ở cạnh ta, thậm chí là luôn ở trong ta vậy.

Một trong những cao tăng đắc đạo như Từ Đạo Hạnh với nhiều bài kệ, nhất là những triết lý mà ông thu lượm được qua bài Hữu Không:

Tác hữu trần sa hữu
Vi không nhất thiết không
Hữu không như thủy nguyệt
Vật trước hữu không không

Một sự ví von khá hình tượng về hiện trạng trăng soi đáy nước. Nhìn thấy đó mà không thể vớt được, nên mọi thứ thấy có mà thực sự lại là không.

c. Những bài thơ vấn đáp về đời và đạo
Một phong cách thơ khác cũng được xếp vào loại hình văn học chức năng đó là các bài thơ vấn đáp với các nội dung hỏi và trả lời về một điều gì đó. Thơ Đường thời Lý trong Thơ văn Lý Trần tập 1 có đến 11 bài thơ vấn đáp. Nội dung vấn đáp có thể là một triết lý về đời, về đạo, về xử thế, về sách lược về thời vận của con người và của đất nước. Đây là những bài thơ vấn đáp giữa vua tôi, thầy trò, phụ tử và cả những người đồng triều, đồng đạo. Hầu hết nội dung đều rất cụ thể cho từng đề tài gắn bó chặt chẽ với sinh hoạt đời sống của xã hội đương thời. Bài thơ vấn đáp điển hình chính là bài thơ Đáp Quốc vương Quốc tộ chi vấn của Đỗ Pháp Thuận:

Quốc tộ như đằng lạc
Nam thiên lý thái bình
Vô vi cư điện các
Xứ xứ tức đao binh

Đây là chính là tác phẩm văn học viết xuất hiện đầu tiên trên đất nước Việt Nam với nội chính là một câu hỏi của nhà vua về thế nước hiện nay đã được nhà sư thi sĩ trả lời mạch lạc tựa như nung nấu trong lòng đã từ lâu. Thế nước ở đây được nói đến đó là lòng người bám chặt vào nhau sống trong cảnh thái bình, ví như sự quấn quýt dây leo chằng chịt. Chỉ cần làm cho triều chính bớt đi những mưu toan ích lợi nhỏ nhặt thì chẳng còn “đao binh” loạn lạc.

Có thể kể thêm bài: Thị chư thiền lão tham vấn chỉ thiền của nhà vua Lý Phật Mã (Thái Tông).

Bát nhã chân vô tông
Nhân không ngã diệc không
Quá hiện vị lai phật
Pháp tính bản tương đồng

Bài viết nói về cái gốc sắc không và nhấn mạnh bản ngã của ta, của người tất cả đều không vậy. Từ đó khảng định cho dù là quá khứ, hiện tại hay vị lai thì tính phật vẫn giống nhau.

Một ví dụ khác đó là bài: Đáp Lý Thái Tông tâm nguyện chi vấn của Lâm Khu. Đây là bài vấn đáp giữa vua tôi về một triết lý phật pháp:

Pháp bản như vô pháp
Phi hữu diệc phi không
Nhược nhân tri thử pháp
Chúng sinh dữ phật đồng

Nội dung căn bản đã chỉ ra rằng “bản pháp” thực ra cũng là “vô pháp”.  không phải có mà cũng chẳng phải là không. Nếu mà hiểu được điều đó thì chúng sinh cũng đồng nhất với phật.

Bên cạnh các bài vấn đáp về đời về đạo là loạt bài viết về quốc gia dân tộc được thể hiện bởi nhiều câu hỏi và những câu trả lời về đất nước. Những gì mà ta tiếp thu được đó là sự quan tâm thường trực của các vị quân chủ và các quan lại đồng thời là các nhà thơ về sự tồn vong của đất nước, cùng với cách làm thế nào để thế nước bền vững lâu dài, như bài Đáp Quốc vương quốc tộ chi vấn của Đỗ Pháp Thuận đã dẫn ở phần trên.

Một trong những bài thơ đặc biệt nhất vừa có chức năng tuyên cáo trước quốc gia dân tộc, vừa có chức năng phán bảo về sự sai trái của quân xâm lược được sử dụng trong thời Lý đó là bài Thơ Thần vang lên trên trận chiến sông Như Nguyệt.

Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lại xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư

 Bài thơ được cho là sáng tác của Lý Thường Kiệt. Mỗi câu, mỗi chữ làm sáng tỏ một chân lý, đó là khảng định sự tồn tại của đất nước, dân tộc và chủ nhân trên đất ấy. Đồng thời mỗi câu mỗi chữ cũng tỏ rõ khí phách oai hùng của một dân tộc đối diện với ngoại bang. Bài thơ được coi là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất của nước Việt. Rõ ràng bài thơ mang chức năng là vũ khí văn hóa trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc.
Về bài Thơ Thần, nhiều bài nghiên cứu cho rằng bài thơ có thể đã xuất hiện từ triều đại trước đó, và không có tác giả cụ thể, tuy nhiên ảnh hưởng của nó đặc biệt to lớn hơn khi sử dụng trong cuộc kháng chiến chống xâm lược của triều Lý. Đây cũng chính là dấu ấn rõ nét nhất trong công cuộc bảo vệ đất nước vô cùng vĩ đại của dân tộc.

d. Những bài thơ cảm hứng, tự tình
Những bài thơ cảm hứng, tự tình đa số cũng luôn hướng về đời về đạo và về quốc gia dân tộc. Mặc dù đó là cảm hứng của cá nhân các nhà thơ nhưng có lẽ bản thân nhà thơ mang nặng chức trách của mình trong guồng máy hoạt động của xã hội nên ngoài những thăng hoa trong sự giác ngộ về đạo vẫn bám chặt vào thời cuộc. Điển hình là hàng loạt các bài thơ vịnh cảnh hoặc ca tụng các nhân vật qua cảm tình của tác giả. Tuy nhiên cái sự ngỏ cái ý sau cùng cho học trò, cho bè bạn, cho dân chúng trước lúc rời xa cõi sống của các vị quân chủ, của các tăng lữ chính là cái cảm xúc lớn nhất của đời người. Điều mong muốn để lại những chứng nghiệm, cùng với sự giác ngộ cho đời sau chính là khái niệm văn học chức năng phổ biến giáo dục trong thơ Đường thời Lý.
Thống kê trong Thơ văn Lý Trần và cụ thể là thơ thời Lý có 9 bài kệ thị tịch và nhiều bài thơ dưới dạng thơ cảm hứng. Với dạng thơ cảm hứng xin dẫn bài Cáo tật thị chúng của Mãn Giác để luận về điều này.

Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

Đây là bài thơ cảm hứng trong lúc có bệnh. Ngoài sự đối vần đối ý của hai liên thơ trên với thể ngũ ngôn, bài thơ được tiếp nối với liên thơ dưới với thể thất ngôn, tựa như dòng chảy trong sông chợt òa ra biển. Sự phiền muộn bi quan, tiếc nuối đã mất đi để mở ra một niềm tin của sự sinh sôi nảy nở.

Có thể dẫn thêm bài thơ của Hoàng đế Lý Công Uẩn trong lúc thiếu thời:

Thiên vi khâm chẩm địa vi thiên
Nhật nguyệt đồng phong đối ngã miên
Dạ thâm bất cảm trường thân túc
Chỉ khủng sơn hà xã tắc điên

Bỏ qua những nhận định cho rằng ngài tự đánh giá quá cao về mình thì cái ý “duỗi thẳng thân thể ra mà lo đất nước nghiêng đổ” cho thấy cái nghệ thuật ví von phóng đại cũng chỉ có một ngài mà thôi. Điều quan trọng hơn muốn nói đến ở đây chính là dù là thơ cảm hứng nhưng vẫn hướng đến sơn hà xã tắc.

Cảm hứng dành cho một nhân vật cũng là đề tài của các nhà thơ. Có thể lấy bài thơ Truy tán Vạn Hạnh thiền sư của vua Lý Nhân Tông làm ví dụ:

Vạn Hạnh dung tam tế
Chân phù cổ sấm thi
Hương quan danh Cổ Pháp
Quải tích trấn vương kỳ

Nhà vua đã ca tụng Thiền sư Vạn hạnh là người thông hiểu ba cõi, thơ của ông là lời sấm khí. Từ quê nhà cổ Pháp, treo gậy trấn giữ kinh kỳ cho vua. Đây cũng là một cách khen tặng biểu dương những người có công với nước.

Cảm hứng trước cảnh thiên nhiên và con người tự do tự tại là những đề tài quen thuộc. Xin dẫn bài Ngư nhàn của Thiền sư Không Lộ làm ví dụ:

Vạn lý thanh giang vạn lý thiên
Nhất thôn tang giá nhất thôn yên
Ngư ông thụy trước vô nhân hoán
Quá Ngọ tinh lai tuyết mãn thuyền

Tuy nhiên nếu không có đời sống khoan hòa yên vui hạnh phúc mà xã hội đương thời tạo dựng, hẳn ông chài đâu có niềm sung sướng tự do tự tại đến thế. Điều nhấn mạnh ở đây vẫn là sự ca ngợi một xã hội tươi đẹp đương thời. 

Ngoài những bài thơ cảm hứng nêu trên có thể kể đến hàng loạt các bài thơ tự tình trong thơ Đường thời Lý, mà điển hình là 9 bài kệ viết trước khi mất của các nhà thơ. Xin dẫn bài Kệ thị tịch của Thiền sư Vạn Hạnh làm ví dụ:

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh  thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô

Bài thơ nói về sự biến động vô thường của mọi sự vật, bản thân con người cũng không nằm ngoài quy luật này. Một người khi đã tu hành hoà đồng được với tự nhiên sẽ không cần băn khoăn, buồn đau cho sự ra đi của kiếp người. Đây chính là triết lý nhân sinh gửi lại cho mọi người vậy.
Có thể dẫn thêm bài Thị tịch kệ của thiền sư Viên Chiếu:

Thân như tường bích di đồi thì
Cử thế thông thông thục bất bi
Nhược đạt tâm không, vô sắc tướng
Sắc không ẩn hiển nhậm suy di

Bài thơ nói về thân người già nua yếu ớt tựa bức tường long. Đây cũng là lẽ thường từ từ đến chẳng nên buồn khổ làm gì. Nếu đã nhận thức được tâm không, vô sắc tướng thì cứ mặc cho mọi sự xoay vòng.

2. Những yếu tố hình thành văn học chức năng của thơ Đường luật thời Lý
Thơ Đường luật thời Lý mang nặng hình thức văn học chức năng cũng thật dễ hiểu vì hầu hết các tác giả đều là người có chức trách trong xã hội. Ở nhóm thứ nhất là các quan lại trong hệ thống lãnh đạo của nhà nước phong kiến, thậm chí là cả các vị quân chủ và các quan đầu triều. Bài viết của họ thường chỉ ra những nội dung quan trọng của bộ máy nhà nước trước cộng đồng xã hội.
Nhóm tác giả thứ hai là các tăng lữ đã từng được tu học với sức hiểu biết phi thường, về chính trị, xã hội và triết lý tôn giáo. Họ từng là các cố vấn cho các vị vua trong quá trình chấp chính. Thậm chí chính họ cũng là bà đỡ cho các triều đại phong kiến ra đời. Bài viết của họ luôn thấm nhuần về đời, về đạo và nhiều nội dung bộc lộ chính kiến của họ trước những yêu cầu xã hội và cả những hoạch định quan trọng của nhà nước phong kiến lúc bấy giờ.
Nhóm tác giả thứ ba là các nhà quý tộc, các nhân sĩ có chung quyền lợi với bộ máy lãnh đạo xã hội. Bài viết của họ thường là ca ngợi chính trị xã hội và các vị vua chúa cùng với những gì tốt đẹp nhất. Đặc biệt là ca tụng những chiến tích đánh giặc giữ nước và quá trình dựng nghiệp của triều đại phong kiến đương thời.
Cũng từ các dẫn chứng trên đây ta nhận thấy hầu hết các bài thơ đều gắn bó với đời sống xã hội. Ngay cả những tăng lữ vốn được coi là những người “xuất thế” vậy mà thơ của họ cứ bám dính với mọi mặt đời sống. Từ đây ta có thể xác định Thơ Đường thời Lý về mặt nội dung thực sự là loại hình văn học chức năng gắn bó chặt chẽ với đời sống xã hội.

3. Kết luận
Trên đây là một số nét khái quát về văn học chức năng trong thơ Đường luật  thời Lý. Sự gắn bó của các tác giả và các tác phẩm trong chức năng xây dựng xã hội đương thời đưa đến một nhận định hết sức độc đáo đó là sự gắn bó sâu sắc của văn học với đời sống xã hội. Đây chính là thành công to lớn không gì sánh nổi của Lý triều cùng với 216 năm liên tục. Một chứng minh sâu sắc về ảnh hưởng văn học đối với một thời đại, làm tiền đề cho sự bền vững của một quốc gia dân tộc.
Ngày nay dưới ánh sáng của văn hóa thế giới và sự trưởng thành của văn học Việt Nam qua nhiều thời kỳ, chúng ta có thể rút ra những bài học sâu sắc về một nền văn hóa mới lấy sự tiến bộ của xã hội làm kim chỉ nam cho các sáng tác. Đồng thời cũng xác định chức trách của người sáng tác văn học trước nhiệm vụ xây dựng quốc gia dân tộc.


                                                                                 (LTH)