Lê Trọng Hồng
(Chi hội thơ ĐL Lục Đầu Giang tỉnh Hải Dương)
半 路 搭 船 赴 邕
Phiên âm
Bán lộ đáp thuyền phó
Ung
Thừa chu thuận thủy vãng Ung Ninh
Hĩnh điếu thuyền lan tự giảo hình
Lưỡng ngạn hương thôn trù mật thậm
Giang tâm ngư phủ điếu thuyền khinh.
Dịch nghĩa
Đáp thuyền xuôi dòng đi Ung Ninh,
Chân bị treo lên giàn thuyền như tội hình
treo cổ;
Làng xóm hai bên sông thật là đông đúc,
Giữa lòng sông, thuyền câu của ông chài
lướt nhẹ.
Nguồn:
Hồ Chí Minh toàn tập (T3) - NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000
Bản dịch của Nam Trân
Đáp
thuyền thẳng xuống huyện Ung Ninh,
Lủng
lẳng chân treo tựa giảo hình;
Làng
xóm ven sông đông đúc thế,
Thuyền
câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh.
Trước
hết bài thơ hoàn toàn nằm trong cách viết nhật ký đó là việc kể ra sự việc bị
nhà tù của chính quyền đương thời giải đi Ung Ninh bằng phương tiện giao thông
đường thủy thuận theo chiều dòng chảy.
Thừa chu thuận thủy vãng Ung Ninh
Trong
đó kể rõ bản thân bị buộc chân treo trên cao, còn đầu thì hướng xuống dưới tựa
như người thắt cổ.
Hĩnh điếu thuyền lan tự giảo hình
Một
chi tiết khác mà người viết nhật ký đã nhìn thấy từ phía xa hai bên bờ sông,
nơi con thuyền đi qua thật là đông đúc và trù phú.
Lưỡng ngạn hương thôn trù mật thậm
Gần
hơn nữa là từ giữa dòng sông có một ngư phủ ngồi trên chiếc thuyền câu nhỏ nhẹ.
Giang tâm ngư phủ điếu thuyền khinh.
Phía
sau của lối kể chuyện ta nhận thấy tác giả dùng phép tả chân để thâu tóm toàn
bộ cảnh vật. Về cách tả cảnh tác giả đã rất tinh tế nhìn từ xa đến gần. Đây
chính là cách nhìn phù hợp của người đang di chuyển đối với những hình ảnh cố
định, vì cho dù tốc độ trôi thuận dòng có nhanh đến mấy thì quang cảnh làng xóm
vẫn dường như đứng nguyên tại chố.
Tuy
nhiên toàn cảnh dòng sông với đôi bờ vốn chưa đủ để có một bức tranh hoàn chỉnh
và khéo thay với một chiếc thuyền câu cùng với sự chuyển động đã tạo ra bóng
dáng sự hoạt động của con người, điểm thêm trong bức tranh thủy mạc mà tác giả
đã phác họa trong thơ.
Những
cái gửi gấm trong thơ lại dần được mở ra qua từng chi tiết đó chính là những
điều không xuất hiện mà rất có thể có trong thực tế của hoàn cảnh. Đó chính là
sự đau đớn của những vòng dây trói ngày càng thít lại do trọng lượng của cơ thể
cứ ghì xuống tạo ra những cơn đau về da thịt. Đó chính là trạng thái xuống máu
của cơ thể sống, trái ngược với cấu tạo vốn có của con người làm đầu óc càng
ngày càng trĩu xuống bắt ta phải phân tâm vì đau đớn, huống chi từng con sóng
vỗ nhao lên hạ xuống tạo ra những rung giật cơ học với gia tốc rơi mới được
hình thành. Ta hiểu vì sao không một tiếng kêu đau đớn, không một lời phẫn uất
mảy may xuất hiện trước sự đối xử vô nhân tính của các quan chức chính quyền mà
cụ thể là những cai tù của họ.
Ngoài
ý nghĩa tinh tế và toàn bích về văn học nghệ thuật của một tác phẩm ta như thấy
ở đâu đó một nhân sinh quan khác thường của tác giả. Với một tâm niệm nào đó
(mà ta chưa biết) đã làm cho tác giả quên đi hoặc nữa là không quan tâm đến nỗi
đau xác thịt mà người đó đang phải gánh chịu.
Một
lối viết pha trò hài hước mà ta quen gặp trong nhiều bài thơ khác cũng đã được
phát hiện trong tác phẩm với một từ “vãng” (được dịch là đi) hoàn toàn không
nói gì đến sự ép buộc mà chính nhà thơ đang phải chịu đựng. Có cái gì đó tỏ ra
rằng đây chỉ như một cuộc đi lại thông thường, hoàn toàn khác với sự thật đó là
một cuộc dẫn giải tù nhân cùng với mọi sự khắc nghiệt thường thấy.
Điều
gì đã tạo ra cho Hồ Chí Minh một thói quen hài hước trước mọi bạo ngược, từng
xuất hiện trong nhiều bài thơ viết trong Ngục trung nhật ký nếu không phải là
biểu hiện của sự lạc quan, sự tự tin vào mục đích chân chính mà bản thân hướng
tới và sau cùng là một ý chí vĩ đại vốn đã được thấy trong những tấm gương lãnh
tụ của nhiều cuộc cách mạng từng được khắc họa trong văn chương trong nước và
trên thế giới từ trước đến nay.
Trong
một luận điểm khác ta có thể nghĩ đến đó là cái gì đã làm cho con người ấy có
một tâm hồn lạc quan và một ý chí gang thép đến vậy. Đây chính là việc mà chúng
ta phải tìm thấy trong bài thơ. Sự chịu đựng vì không có cách nào khác? Đây
cũng là một cái lý, tuy nhiên nếu chúng ta lại đọc ở trong đó được những chi
tiết mà nhà thơ nói đến đó là: làng xóm
ven sông đông đúc thế (viết theo ý của người dịch khá sát với nội dung). Bằng
một câu hỏi đầy sự ngỡ ngàng, ta ngộ ra rằng tác giả đã vui vì sự tốt lành của
một miền quê mà dường như trên đường đời tác giả ít có dịp được thấy sau bao
năm bôn ba khắp thế giới. Cái mừng vui của một vĩ nhân khi nhận thấy ở đây
những người dân, dường như có được một chút yên bình, không có sự tàn phá của
chiến tranh tàn khốc.
Chúng
ta biết hai bên bờ sông ở đây là của Trung Quốc. Nhưng với Hồ Chí Minh thì
người Trung Quốc hay người Việt Nam và tất cả các dân tộc trên thế giới đều là
những con người và đều cần được sống cho ra sống. Có lẽ chính vì thế mà nhiều
năm sau, trong Tuyên ngôn độc lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, ngày 2 tháng
9 năm 1945, Người đã vận dụng lời lẽ đúng đắn trong bản tuyên ngôn của các nước
khác mà khảng định: mọi người sinh ra đều
có quyền bình đẳng…
Cũng
trong bức tranh mà nhà thơ đã cấu tạo nên còn có thêm một chi tiết khác hẳn với
quang cảnh hai bờ sông, đó là một chiếc thuyền câu với người ngư phủ đang ở
giữa dòng sông. Đây cũng chính là sự hoạt động đặc trưng cho sự tự do của một
cá thể trong sinh cơ lập nghiệp. Có gì đó gợi cho người đọc nghĩ đến mục đích
mà người làm thơ hướng đến đã từng lúc chi phối toàn bộ tâm hồn và thể xác,
khiến cho mọi sự đau đớn mọi sự bó buộc dường như không tồn tại.
Những
điều vừa nhận định trên đây sẽ có thể chỉ là sự võ đoán vô căn cứ nếu như bài
thơ chỉ là của một nhà thơ bình thường khác. Tuy nhiên chúng ta lại hoàn toàn
có thể nghĩ tới vì nhiều năm qua đi, nhà thơ, nhà cách mạng Hô Chí Minh đã toàn
tâm, toàn ý và biểu lộ qua những trang di chúc với một câu nói hết sức cảm
động: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn đến tột bậc đó là đồng bào ta, ai
cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành…” Đây cũng chính là sự lôi
cuốn của bậc vĩ nhân khi nghĩ đến khát vọng của mình là làm sao để giải phóng
cho họ, làm sao để họ có cuộc sống yên vui và cao hơn nữa là tự do cho con
người, tự do cho các dân tộc và tự do cho toàn nhân loại.
Cũng
xin mạnh dạn đề cập thêm về sự xuất hiện của con thuyền câu giữa dòng sông khi
ấy với một ý tưởng khác dường như tác giả đã ngụ vào đó và tự ví mình với con
thuyền câu đó luôn ở giữa dòng và luôn được tự do. Những gì mà thể xác trải qua
vốn chẳng là gì cả và không cần phải nói đến trong sự cảm nhận của tác giả
trước hoàn cảnh hiện tại. Từ đó bài thơ có cái tự nhiên của một bức tranh phong
cảnh vốn được cho là đẹp trên một vùng quê và cảnh đó không có sự bó buộc nào
về những nhận định vốn không cần bày tỏ. Điều này cho thấy ý thơ (có thể khác
với nhận định của người viết) hoàn toàn nằm ngoài văn bản phù hợp với những gì
là tinh tế của thơ chữ Hán đó là Ý tại ngôn ngoại, được sử dụng nhiều hơn so
với thể thơ khác.
Điều
mà chúng ta nhận ra văn chương của Chủ tịch Hồ Chí Minh đích thực là văn chương
tuyệt phẩm mang tính nghệ thuật cao và nhất là không thiếu tích cách mạng mà
Người luôn gửi gấm trong mỗi câu mỗi chữ trong thơ chữ Hán nói chung và trong
Ngục trung nhật ký nói riêng. Thêm một lần khảng định những bài thơ chữ Hán của
Hồ Chí Minh trước hết là thơ của một nhà thơ uyên bác cùng với sự khảng định
đồng nhất về một nhà cách mạng Hồ Chí Minh với ý chí kiên định cách mạng vĩ đại
nhất trong mọi thời đại. Đây cũng chính là nhân văn của nhà thơ, nhà cách mạng
Hồ Chí Minh mà người viết mong muốn tìm được trong Ngục trung nhật ký.
Từ xưa đến giờ những người làm văn, làm thơ không ai là không có những
phản ảnh về bản thân và xã hội đương thời qua tác phẩm. Trong nhiều bài viết về
Trần Tế Xương cũng đã từng nói về điều đó. Đây chính là những nhân định ban đầu
chứng minh cho quan điểm coi tác phẩm của ông như một Thông điệp văn học sử,
phản ảnh về con người và xã hội trong giai đoạn Thực dân nửa phong kiến cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trên đất nước ta.
Nhà thơ Trần Tế Xương, tên khai sinh là Trần Duy Uyên, sinh năm 1870 tại Nam Định và mất năm 1907.
Cuộc đời ông nằm gọn trong bước đầu cuộc xâm lược của thực dân Pháp và quá
trình thực dân hóa của người Pháp trong nhiều năm sau đó. Đây là giai đoạn xã
hội vô cùng bế tắc và nghiệt ngã trong thiết lập độc quyền của chế độ thực dân
và cuộc vật lộn của chế độ phong kiến cố vớt vát chút quyền lợi trong sự tan rã
tuyệt vọng.
Chứng minh cho điều này dường như chúng ta đã tìm thấy trong Trần Tế
Xương tác phẩm. Chỉ cần mảng thơ luật Đường viết bằng chữ nôm của ông đã có thể
dẫn ta đi tới sự tận cùng mọi tầng lớp con người và xã hội thời đó. Điều đặc
biệt hơn đó là mỗi tác phẩm của ông đều chứa đựng sự phán xét cùng những kết
luận sai, đúng giúp ta có những khái niệm đầu tiên về con người và xã hội đương
thời. Những gì mà ông đề cập đến chính là sự thay đổi ghê gớm của các tầng lớp
quan lại, thị dân đầu tiên dưới chế độ thực dân hóa ở chính nơi ông sinh ra và
lớn lên. Bên cạnh đó là phản ảnh về sự dãy dụa của chế độ phong kiến thông qua
hệ thống trường thi và tầng lớp sĩ tử trong đó có chính nhà thơ.
Cũng từ các nghiên cứu về Trần Tế Xương, đa số các tác giả đều cho
rằng ông có trên 170 tác phẩm văn chương với nhiều thể loại. Trong đó có 123
bài thơ theo thể luật Đường viết bằng chữ nôm cùng với 83 bài dịch thơ Đường của các nhà thơ hàng
đầu của Trung Quốc qua các thời kỳ. Trong số 123 bài thơ viết theo thể luật
Đường, phần lớn các bài thơ đều là thơ trào phúng với giọng điệu phê phán đến
nghiệt ngã nhưng vẫn luôn mang chất trữ tình trong thơ. Về nghệ thuật làm thơ
của ông thật là điêu luyện trong cách dùng ngôn ngữ thơ và hình ảnh thơ cùng
với sự chọn lọc đặc trưng của văn hóa dân tộc Việt Nam cách xa lối thơ Đường
luật từ các thời đại trước đó.
Về phía tác phẩm, cũng như đã nói trên đây, Trần Tế Xương là người có
chính kiến rõ rệt trong nhận định tốt và xấu. Ông thẳng tay phê phán bất kể là
ai cùng với những trò hề thay đen đổi trắng mong cầu lợi cho mình, cho dù là
vài đồng tiền phân bạc, đến chức vị quan lại béo bở với các thủ đoạn bòn rút
bóc lột dân lành. Ông đã trào lộng đến tầng lớp cao nhất trong bộ máy cai trị
thực dân như Quan sứ và mụ đầm, vợ ông ta cho đến tầng lớp thị dân vừa xuất
hiện từ khi Pháp đến xâm lược nước ta.
Cùng với bút pháp điêu luyện của mình ông đã vẽ nên những hình ảnh
vênh vang trơ tráo và lạc lõng của các quan thực dân
Cờ kéo rợp trời, quan sứ đến
Váy lê quét đất, mụ đầm ra.
Chẳng những thế, đến cả lính thực dân cũng ra
oai người nhà nước hạch sách và làm tình, làm tội người dân đến mức quái dị và
đê tiện:
Hà Nam danh giá nhất
Trông thấy ai ai chẳng dám ho
Hai mái trống toang đành
Người quên mất âu trời cãi
có chủ lo
Ngớ ngẩn may
vớ được
Phen này ắt hẳn kiếm ăn to
Bên cạnh các thế lực ngoại bang là bè lũ quan lại người Nam vừa đớn
hèn vửa trơ tráo giương mắt lên nhìn nỗi nhục mất nước. Đây cũng chính là cái
tròng thứ hai thít chặt vào cổ người dân bằng mọi thủ đoạn thâm hiểm và ác độc.
Tơ tóc nỗi riêng thì xét nét
Cái cóc bôi vôi khéo dại hình
Nhà thơ cũng kể ra cho ta thấy bộ mặt thật của bọn quan lại thời đó
cùng với tệ nạn bài bạc, ăn chơi trụy lạc:
Ông về đốc học đã bao lâu,
Cờ bạc rong chơi rặt một màu
Ông kể rõ những hình ảnh về
bè lũ quan lại phong kiến tham lam tàn ác luôn bày đặt mưu sâu, kế hiểm, đưa
người dân vào cái bẫy của chúng để rồi tha hồ vơ vét bóp nặn:
An Sơn tông giống người keo
thực
Bồ Thủy xưa nay của kiết à
Đất nhị dễ thường lươn rúc ở
Lửa nồng nên phải chuột đùn ra.
Càng nhiều những bọn quan tham bỏ mặc chức phận miễn là có tiền vào
túi:
Tri phủ Xuân
Trường được mấy niên
Nhờ trời hạt ấy cũng bình yên
Chữ "thôi" chữ "cứu" không phê đến
Ông chỉ quen phê một chữ "tiền"
Điều mà chúng ta thấy được càng tệ hại hơn đó là một nhà nước vô trách
nhiệm trước các thiên tai lụt lội, hạn hán hết năm này qua năm khác. Ta những tưởng
trong tình cảnh ấy có ai đó sẽ hợp mọi người lại để chung lo chống hạn. Nhưng
rồi cũng chỉ có người dân hai tay trắng đứng ra lo cái không thể làm nổi.
Dạo này
Thiên hạ mong mưa đứng lại ngồi
Ngày trước biết gì, ăn với ngủ
Bây giờ lo cả nước cùng nôi
Cùng với hạn hán là lụt lội mất mùa đói kém và rồi ốm đau, chết chóc,
cũng từ đó là làm ghê sợ bao người:
Thử xem một tháng mấy lần mưa
Ruộng hoá ra sông cỏ vật vờ
Bát gạo Đồng Nai kinh chuyện cũ
Con thuyền Quý Tỵ nhớ năm xưa
Có lẽ ông mong lắm cái sự thay đổi của trời đất, nhưng trời đất nào
có thể giúp được ông. Có chăng chỉ có thể là chính quyền nhà nước có can thiệp
hay không mà thôi. Có một nghịch lý đó là cá
kia cũng biết cách trốn chạy hạn hán “Cá
sợ ao khô vượt cả rồi” và trâu kia cũng buồn vì lụt lội “Trâu bò buộc cẳng coi buồn nhỉ” còn con người lại chẳng thể tự liệu được cho mình.
Thật là chua chát cho con người phải sống trong xã hội đầy đau khổ mà không thể
thoát ra được.
Cùng với những phản ảnh của nhà thơ về tầng lớp lãnh đạo xã hội bảo
thủ và vô trách nhiệm. Bức thông điệp cũng cho ta thấy đây cũng chính là nguồn
gốc sinh ra mọi băng hoại về đạo đức và lối sống của chế độ thực dân, nửa phong
kiến lúc bấy giờ. Đây cũng chính là nguồn gốc đẩy tầng lớp thị dân đến chỗ sa
đọa về đạo đức và lối sông mà nhà thơ đã điểm qua khắp lượt trong tác phẩm của
ông. Đó là những người dân không còn vườn ruộng, cố gắng bám vào xã hội bằng
cách mở nghiệp bán buôn và làm các dịch vụ phát sinh trong quá trình thực dân
hóa. Cũng từ đây, tầng lớp những người sống bằng nghề buôn bán bắt đầu với
những trò gian giảo, lừa đảo và giả dối:
Ai đấy ai ơi khéo hợm mình
Giàu thì ai trọng, khó ai khinh
Thằng Ngô mất gánh, say câu chuyện
Cùng với những mánh lới ma mãnh sành sỏi nhằm tranh cướp khách hàng
thu lợi cho mình bất chấp mọi thủ đoạn
Nước buôn như chị mới ăn người
Chị thấy ai đâu chị cũng cười
Chiều khách quá hơn nhà thổ ế
Đắt hàng như thể mớ tôm tươi
Đặc trưng của nghề buôn bán cùng với những
thủ đoạn đen tối dần hình thành để rồi mọi thứ đều được cân, đong, đo, đếm bằng
tiền và có phải vì thế mà xã hội đã dùng tiền mua mọi thứ và đồng tiền đã
khuynh đảo đến mức ghê gớm:
Giàu sang âu yếm tình quen
thuộc
Bần tiện thờ ơ dạ bạc đen
Ví khiến trong tay tiền bạc có
Nói dơi nói chuột chán người khen.
Đến cái kết quả cuối cùng chính là cái miền quê
thân mật ngày xưa không còn nữa. Những người cùng làng xóm, phố phường trở
thành xa lạ. Cả đến những người thân trong nhà cũng biến thành thù, mất hết giá
trị của nhân bản:
Nhà kia lỗi phép con khinh bố
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng
Keo cú người đâu như
Tham lam chuyện thở rặt
Cũng giống như những người dấn thân vào nghề buôn bán, những người làm
các công việc dịch vụ cũng buộc phải bước vào cõi sống nhơ nhớp, hy sinh nhân
phẩm để có một công việc làm kiếm sống. Họ cũng học thói giả dối, lừa lọc không
khác kẻ buôn bán:
Mình nghĩ cô mình thực gớm ghê,
Lòng son vẫn giữ nước non thề.
Ra tuồng gái hoá khi còn trẻ,
Như chuyện chồng xa lúc chửa về.
Cũng từ những bế tắc trong sinh kế, con người
rất dễ buông trôi trượt dài trên con đường trụy lạc. Ngoài nạn cô đầu, đĩ điếm,
buôn gian, bán lậu, tệ trộm cắp, lừa đảo đã trở thành phổ biến. Người ta luôn
thay đổi bộ mặt của mình để lợi dụng, lửa đảo để tồn tại. Có bao nhiêu người
đàn bà và cũng có bấy nhiêu người đàn ông
lấy lừa đảo làm nghề kiếm sống:
Nói nói cười cười theo giọng tỉnh,
Khăn khăn áo áo giữ màu quê.
Hoặc:
Khi thì thầy số, lúc thầy lang.
Công nợ bớp bơ hình chúa Chổm,
Ngay cả trong các gia đình, người đàn
bà xưa từng được dạy dỗ “công dung ngôn
hạnh” luôn thuộc lòng câu “tam tòng
tứ đức” giờ đây cũng giả dối trác táng đâu còn hai chữ “chính chuyên":
Ra đường đáng giá người trinh thục
Trong dạ sao mà những gió trăng
Mới biết hồng nhan là thế thế
Trăm năm trăm tuổi lại trăm thằng
Những bài thơ
viết về trường thi và đạo học của nhà thơ Trần Tế Xương còn để lại đến nay đã
cho chúng ta thấy được toàn cảnh chế độ thi cử
đương thời và chỉ rõ sự bế tắc của tầng
lớp nho sĩ lúc bấy giờ. Với một bên là chế độ thực dân, cố gắng tiến hành thực
dân hóa, một bên là chế độ phong kiến cố níu kéo lại phần quyền lợi của mình
nên chế độ khoa cử cũng rối ren kéo theo nhiều hệ lụy. Họ làm sao biết mình sẽ
phải học từ đâu và thi như thế nào mới đạt kết quả, trong khi:
Nghe nói khoa này sắp đổi thi
Các thầy đồ cổ đỗ mau đi
Dẫu không bia đá còn bia miệng
Vứt bút lông đi, giắt bút chì
Bên cạnh cái nền nếp thi nay
thay, mai đổi, nhà thơ cũng chỉ ra sự hủ bại của chế độ thi cử đương thời. cùng
với các hiện tượng tiêu cực trong dạy và học. Thật đáng ngại khi thầy chẳng ra
thầy:
Hỏi thăm quê quán ở nơi mô
Không học mà sao cũng gọi đồ
....
Hỏi mãi mới ra thằng bán sắt
Còn các quan lại có phận sự cai quản việc thi cử
thì ngu dốt đến mức (sách như hũ nút chữ
như mù) lại làm việc sơ khảo thử hỏi hay, dở rồi sẽ ra sao
Sơ khảo khoa này bác cử Nhu
Sách như hũ nút chữ như mù
Và thật là không đáng khi những người coi sóc chốn trường qui lại là
kẻ không có học, không biết chữ gì:
Đêm ngày coi sóc chốn trường qui.
Chẳng hay gian dối vì đâu vậy
thằng ông biết chữ gì
Còn các sĩ tử thì lười học, dốt nát, lấy tiêu khiển ăn chơi là chính.
Đây cũng chính là tệ nạn trong thi cử trong buổi nho học đang tàn tạ. Trách chi
bao kẻ sĩ tử giả danh, chỉ là thi cơm rượu:
Kể tuổi nhà min ngoại bốn mươi
Văn min khấp khểnh, học min lười
Ba năm một hội thi cơm rượu
Bốn bể nhiều anh góp nói cười
Cũng chính từ điều này mà những người đỗ đạt
thường chỉ là cậy có người thân giúp, hoặc do mua được bằng tiền:
Học trò quan đốc Tả Thanh Oai
…
Thứ năm, ông cử ai làm nổi,
Học trò quan đốc tỉnh Hà Nội
Càng tệ hại hơn với bao kẻ đỗ đạt trong sự khuất tất khác trong cái sự
tiêu cực nơi trường ốc rồi ra làm một thứ quan nấu rượu:
Hàn lâm tu soạn kém gì ai
Đủ cả vung nồi cả cóng chai
Ví thử quyển thi ông được chấm
Đù cha đù mẹ đứa riêng ai
Và trớ trêu thay với những người chưa thi đã biết đỗ, họ đâu có phải
thi chữ nghĩa văn chương:
Người ta thi chữ ông thi phúc
Dù dở dù hay ông cũng vào
Từ những tiêu cực trong dạy, học và thi cử, nhà
thơ Trần Tế Xương đã nhận định về sự chán chường của mọi người về đạo học mà từ
bao lâu nay dân ta luôn coi trọng:
ngày nay đã chán rồi
Mười người đi học chín người thôi
Cô hàng bán sách lim dim ngủ
Thầy khoá nhấp
nhổm ngồi
Sĩ khí rụt rè gà phải cáo
Văn trường liều lĩnh đấm ăn xôi
Nhiều người
cho rằng ông Tú nhiều khi cũng tự mâu thuẫn với chính mình, bởi những điều ông
viết ra chứng tỏ là ông đã thấy rõ sự hủ bại của trường thi thời đó, vậy mà sao
ông vẫn cố đi thi. Cái mà ta nhận thấy đây chính là cái bế tắc của tầng lớp sĩ
phu thời đó. Đôi người có thể giả câm, giả
điếc lựa theo chiều gió chấp nhận mất dần bản chất để đi theo. Số người có tài
năng trí tuệ thực thụ thường khó chấp nhận sự đánh mất mình nên rất dễ bị đè
nén bởi nguyên lý tự nhiên của thời đại. Điều này đã tác động vào chính nhà thơ
Trần Tế Xương và rồi có lúc ông cũng muốn phó mặc:
Thôi có làm chi cái chữ nho
Ông nghè ông cống cúng nằm co
Chi bằng đi học làm thầy phán
Tối rượu sâm banh sáng sữa bò
Tuy nhiên ông vẫn day dứt để rồi tiếp tục theo lối cũ. Có lẽ ông không
muốn theo đuôi kẻ khác chống lại dân mình. Thôi thì đành gắng gượng giữ nguyên
cái nghiệp thi cử do nhiều nguyên cớ. Một trong những nguyên cớ đó là ông mong
thỏa mãn sự mong muốn của gia đình mà từ lâu rồi vẫn không có kết quả.
Mở mặt quyết cho vua chúa biết
Đua danh kẻo nữa mẹ cha già
Cũng còn một việc là làm thế nào để có một chức sắc, được hưởng lương
bổng sau khi thi đỗ để rồi có thêm những chi phí cho đời sống bản thân nhà thơ:
Cái khó theo nhau mãi thế thôi
Có ai, hay chỉ một mình tôi
Bạc đâu ra miệng mà mong được
Tiền chửa vào tay đã hết rồi
Và điều cơ bản là làm sao có công việc làm, có
tiền giúp cho gia đình vượt qua những khó khăn đến (mướt mồ hôi) và (tràn nước
mắt):
Van nợ lắm khi tràn nước mắt
Chạy ăn từng bữa mướt mồ hôi
Cũng chính từ đây ta hiểu số phận của cả tầng
lớp sĩ tử thời đó sống ra sao và họ sẽ làm được gì để tự cứu lấy đời họ trong
khi các tổ chức cách mạng chống xâm lược đòi quyền sống dường như đã bị tan rã
do sự đàn áp của thực dân Pháp. và chính quyền phong kiến tay sai.
Trên đây chỉ là một số dẫn chứng chọn lọc nhằm
khảng định công lao to lớn của nhà thơ Trần Tế Xương trong bức tranh về con
người và xã hội Việt Nam trong giai đoạn thực dân nửa phong kiến cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX do Thực dân Pháp xâm lược và chính quyền tay sai bán nước gây
ra. Người ta cũng có thể gửi lại lịch sử của một thời đại qua nhiều
nguồn như nhiếp ảnh nhưng dù có nhiều hình ảnh đến đâu thì cũng chỉ cho những
vẻ ngoài khô cứng, nói làm sao cho được tâm tư cảm xúc của cả một xã hội đang
trong thời kỳ biến động cùng với những khủng hoảng tăm tối nhất, chơi vơi nhất
mà mỗi con người phải chịu đựng. Điều muốn đề cập đến trong bài viết đó là thêm một
lần khảng định các bài thơ luật Đường nằm trong tác phẩm văn học sử của nhà thơ
Trần tế Xương chính là bản Thông điệp hiện thực và phong phú nhất về con người
và xã hội đương thời gửi lại cho hậu thế.
Viết về Việt
hóa thơ Đường luật đã có hàng ngàn người tham gia và có thể cũng có đến hàng
ngàn tác phẩm với nhiều ý kiến khác nhau. Tuy nhiên trong hội thảo lần này của
Hội Thơ Đường luật lại đặc biệt nhấn mạnh đến ảnh hưởng của nhà thơ Trần Tế
Xương đối với thơ Đường luật Việt Nam. Đây là một chủ đề rất mới và có ý nghĩa
vô cùng to lớn khi mà phong trào làm thơ Đường luật với phong cách Việt Nam đã
thực sự trỗi dậy sau nhiều thập kỷ im hơi lặng tiếng trước các thể thơ khác đã
và vẫn đang thịnh hành trên thi đàn Việt Nam.
Đặc biệt hơn
là số lượng tác giả đã và đang sáng tác thơ “Đường luật” càng lúc càng đông.
Chỉ cần thống kê 12 tập thơ của Hội thơ Đường luật thì đủ thấy điều đó. Chưa
nói đến các thi đàn thơ Đường luật hiện đang thu hút khá nhiều tác giả trong
các trang báo điện tử và trên các CLB của hàng vạn thôn bản trên đất nước này.
Điều mà chúng ta cần nhắc lại đó là những lời ca thán đến mức ái ngại của nhiều
nhà thơ về cái khó của thể thơ này từ nhiều năm trước. Điều này hoàn toàn không
sai vì sự thực là thế, khi mà những niêm cùng luật, những vần với đối và nhất
là khối lượng từ ngữ thật khó để chuyển tải các trạng thái nhân vật cùng với
các hoạt động hết sức sôi động trong hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ.
Tuy nhiên nếu
đặt vấn đề cho thật đầy đủ thì phải nói từ lâu rồi các nhà thơ thời trước đã cố
gắng tìm ra phong cách mới nhằm Việt hóa thể thơ này. Những gì văn học Việt Nam nhận được đó là sự
cách tân của Hàn Thuyên và Nguyến Trãi trong khá nhiều sáng tác bằng chữ nôm
của người Việt. Đặc biệt chúng ta còn có Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn
Khuyến và nhiều nhà thơ khác trong rải rác các tác phẩm thơ nôm luật Đường vẫn
còn được lưu giữ cho đến ngày nay. Để có thể đánh giá đúng và đầy đủ nhất phải
nói đến Trần Tế Xương mới là người đưa thơ Đường luật chữ Hán thành thơ Đường
luật theo phong cách Việt toàn diện và phong phú nhất trong mọi thời đại.
Một
đặc điểm quan trọng đó là những câu thơ ông viết cứ như là kể chuyện thường
ngày giữa người này với người nọ; nôm na đấy nhưng không hề tầm thường, dễ dãi.
Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm ọe quan trường miệng thét loa
Học đã sôi
cơm, Thi không ăn ớt) hoặc các thành ngữ: thân cò,
Một duyên, hai nợ, Năm nắng, mười ) trong
bài Thương vợ.
thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước lúc đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười
dám quản công.
Ngao ngán, Nhạt nhèo, khăn
khăn áo áo, Bút bút nghiên nghiên) trong bài Đêm
buồn.
Ngao ngán tình chung cơn gió thoảng
Nhạt nhèo quang cảnh bóng trăng suông
Khăn khăn áo áo thêm rầy chuyện
Bút bút nghiên nghiên khéo giở tuồng
Cách ông dùng ẩn dụ thực sự đã đạt đến sự điêu luyện trong sử dụng ngữ
pháp tiếng Việt. Đương thời dường như có rất ít người làm được như ông. Như
hàng loạt các câu thơ trong bài Đạo đức
giả:
Lắng tai non nước
Chớp mắt trăng hoa
Lại còn tấp tểnh với đàn em
Nếu như thơ
Đường luật Trung Quốc vận dụng sự tích và điển cố để mở rộng các ý tứ trong
thơ, thì Trần Tế Xương lại dùng ca dao, tục ngữ và nhiều thành ngữ tiếng Việt
để mở rộng ý thơ. Đặc biệt là phép đối ông dùng càng nhuần nhuyễn. Chúng ta có
thể kể ra một số thành ngữ trong tiếng Việt mà ông đã sử dụng. Với cách dùng
thành ngữ như thế này dường như đã mở ra những mẫu câu cho những người làm thơ
thời nay vận dụng.
Chúng ta còn
tìm thấy ở ông cách dùng từ hết sức gợi cảm nhưng cũng thật gần gũi trong giao
tiếp hàng ngày như: (ngoi, ngỏng):
Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng
Những động từ
(ngoi) dường như gợi cho ta thấy cái động tác cố di chuyển bộ mông ngồn ngộn
của bà đầm. Hay như động từ (ngỏng) khéo nói về sự cố cất cao cái đầu của ông
cử đang phải cúi gục trước các quan lại bề trên. Chính cái sự đối chọi giữa cái
nơi khá “tục” của kẻ này với cái chỗ “thanh” của kẻ kia đã bật ra cái sự nhạo
báng sâu cay đến độ.
2. Kết cấu các bài thơ
Chúng ta có
thể thấy thơ Trần Tế Xương có sự khai thác rất chặt chẽ về niêm, luật, vần, đối
và nhất là kết cấu đề, thực, luận, kết theo quy định của trường thi trong thời
phong kiến. Trong hơn một trăm bài thơ cũng có đôi chỗ trái luật (có thể do sao
chép). Số các bài còn lại thực sự hoàn hảo với ba yếu tố vần, luật, đối. Tuy
nhiên, điều quan trọng hơn cả là các tác phẩm của ông hoàn toàn được viết bằng
chữ nôm của người Việt phù hợp với tiếng Việt giầu hài âm, nhạc tính.
a. Luật thơ chuẩn mực
Về luật thơ
ông luôn tôn trọng những quy tắc cơ bản của thể thơ với những bộ phận đề, thực,
luận kết bao giờ cũng rõ ràng mạch lạc, không hề công thức và khiên cưỡng. Từng
phần một chắp vào nhau mà không hề thấy có sự phân cách. Có thể lấy ví dụ qua
bài Thiếu
nữ đi tu để dẫn chứng cho kết cấu của luật.
Con gái nhà ai dáng thị thành
Cớ chi nỡ phụ cái xuân xanh
Nhạt màu son phấn, say màu đạ,
Mở cánh từ bi khép cánh tình.
Miệng đọc nam vô quên
Tay lần tràng hạt phụ
Tiếc thay thục nữ hồng nhan thế
Thiếu
nữ đi tu)
Nhạt màu son phấn, say màu
đạo, Mở cánh từ bi, khép cánh
tình). Hoàn toàn đủ để xong phần thực, cùng với phép đối ngẫu chuẩn mực bao hàm cả thực và trạng (Nhạt màu
son phấn/ Mở cánh từ bi); (say màu đạo/ khép cánh tình). Chỉ cần hai từ: (say và khép) đã nói lên tất cả.
Với cặp luận: (Miệng đọc nam vô quên / Tay
lần tràng hạt phụ
Tiếc thay thục nữ hồng nhan
thế,
b. Các bộ vần đẹp
Về các bộ vần
nhà thơ Trần Tế Xương dường như chỉ dùng vần bằng mà ít dùng vần trắc. Đây là
bộ vần truyền thống của thơ Đường luật viết bằng tiếng Việt. Điểm quan trọng
thứ hai là các bộ vần thường là chính vận, có rất ít các bài dùng vần gần đúng
(bàng vận) hoặc các vần thông. Chính vì thế mà cả trăm bài thơ của ông đọc lên
đều thấy êm ái nhẹ nhàng, gợi cảm và rất dễ thuộc. Có thể lấy bộ vần trong bài Đau mắt làm ví dụ:
Bộ vần trong
bài Đau mắt với các vần (inh) để có
các từ: Mình, thinh, sinh, đinh, tình. Đây là bộ vần bằng truyền thống của thơ
Đường luật. Kết cấu hài thanh với đầu và kết lấy thanh huyền (trầm bình thanh).
Các vần của các câu giữa đều thanh không (phù bình thanh). Đây là bộ vần giúp
cho hơi thơ dàn trải, man mác hợp với cách kể lể về nỗi buồn của con người
Vui chẳng riêng ai, ốm một mình
Hỏi ai, ai cũng chỉ mần thinh
Vừa đồng bạc lớn
Lại mấy hào con
Hỏi vợ, vợ còn đi chạy gạo
Gọi con, con mải đứng
Muốn mù trời chẳng cho mù nhỉ
Gương mắt trông chi buổi bạc tình
Có thể lấy
thêm bộ vần nữa trong bài Thề với người
ăn xin làm ví dụ:
Bộ vần trong
bài Thề với người ăn xin với các vần
(o) để có các từ: no, cho, trò, gio, vò. Đây cũng là bộ vần bằng truyền thống
với kết cấu hài thanh: vần đầu là thanh không (phù bình thanh). Vần thư 3 và
vần cuối là thanh huyền (trầm bình thanh). Đây là bộ vần có vần đầu tiên giúp
cho hơi thơ ban dầu rất nhẹ, hợp với cách của người muốn thanh minh một điều gì
đó. Sang phần cuối với các vần là thanh huyền (trầm bình thanh) tựa như nhấn
xuống hợp với ý muốn khảng định những điều trước đó đã nói:
Người
đói thì ta cũng chẳng no
Cha thằng nào có tiếc không cho
Họ đày đoạ mãi dân cày cuốc
Ai xét soi cho cảnh học trò
Mong được cơm no cùng áo ấm
Gặp toàn nắng lửa với mưa gio
Miếng ăn đến miệng là thưa kiện
Lúa rũ chân đê chửa được vò
Ngoài các tác phẩm thơ nôm của nhà thơ Trần Tế Xương mà chúng ta đã xác
định đó là thể thơ Đường luật theo phong cách Việt, chúng ta còn có một kho
tàng thơ dịch của ông cũng mang âm hưởng và ngôn ngữ Việt. Trong số tám mươi ba
bài thơ dịch, tương truyền là của ông đã được các học giả giới thiệu khá kỹ
trong “Tú Xương toàn tập”.
Điều mà ta nhận thấy là đa số các bài thơ ngũ ngôn đã được ông dịch thành thất
ngôn, chính từ đó mà độc giả dễ hiểu và dễ cảm. Nhưng đáng kể nhất phải nói đến
là đó là phương pháp dịch thơ của ông có nhiều nét cách tân khác với nhiều
người dịch trong thời điểm đó.
Cho dù phải tôn trọng nội dung của bài thơ gốc nhưng nhiều bản dịch ông
đã bỏ qua “hình thức ước lệ, tượng trưng, công thức, quy phạm” trong phản
ảnh con người và xã hội vốn đã ngự trị trong thơ Đường luật Trung Hoa bằng cách
sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt hết sức phong phú và đa dạng giống như cách sáng
tác thơ nôm luật Đường của ông. Đây cũng là những nét chính trong Việt hóa thơ
Đường luật.
1.
Trích dẫn tóm tắt một số bản dịch
Để nói rõ hơn về quá trình Việt hóa thơ Đường luật của nhà thơ Trần Tế
Xương trong dịch thuật thơ Đường luật chúng ta không thể không nhắc đến tám
mươi ba bài thơ dịch trong:“Đường
thi hợp tuyển ngũ ngôn luật giải âm”.
Trong mảng thơ dịch của ông đều giữ nguyên đầu đề của nguyên tác (nghĩa là các
bản dịch của ông không có đầu đề). Nhiều nghiên cứu của các học giả đã nói về
phương pháp dịch thơ của ông khác hẳn với nhiều người. Điều đáng nói là những
cảnh, những tình trong nguyên tác đã được khắc họa sâu sắc hơn, rõ nét hơn về
mọi mặt. Riêng về nghệ thuật các bản dịch luôn sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt cùng
với nghệ thuật tu từ, đặt câu của văn hóa Việt. Từ đó cho thấy những bài thơ
dịch có một sắc thái riêng mang đậm nét văn hóa của dân tộc Việt Nam. Đây cũng
chính là đóng góp đặc sắc của ông trong dịch thuật thi ca và trong Việt hóa thơ
Đường luật qua các tác phẩm gốc thơ Đường. Dưới đây xin trích dẫn một số bản
dịch thơ của ông:
Thất thập dạ đối nguyệt
(Đỗ Phủ)
Thu nguyệt nhưng viên dạ
Giang thôn độc lão thân
Quyển liêm hoàn chiếu khách
Ỷ trượng cách tùy nhân
Quang xạ tiềm cầu động
Minh phiên túc điểu tần
Mao trai y quất dữu
Thanh thiết lộ hoa tân
Dịch nghĩa:
Ngắm trăng đêm mười bẩy
Trăng thu đêm nay vẫn tròn
Chỉ có một mình lão già ở thôn bên sông
Cuốn rèm lên trăng đã chiếu vào ta
Chống gậy đi đâu trăng cũng theo
Ánh sáng rọi làm con cầu long cựa mình
Bóng sáng soi vào khiến con chim ngủ xoay mình
Lều tranh dựa bên cây quýt, cây bưởi
Hạt móc đọng như hoa mới nở
Bản dịch
(Trần Tế
Xương)
Vành vạnh đêm rằm chút chửa sai
Giang thôn lụ khụ một mình ai
Mở rèm trông thấy như chào tớ
Chống gậy ra chơi lại đón người
Trong suốt rồng nằm dòng nước chảy
Sáng choang chim ngủ bóng cành phơi
Nhà tranh ngồi tựa bên chồi quýt
Móc trắng lòng ta cũng trắng ngời.
Bài thơ của Đỗ Phủ tỏ rằng chỉ có một mình lão già này ở xóm bên sông
với trăng làm bạn. Hình như trăng vẫn
tròn mà chưa tàn khuyết. Chỉ mới mở rèm ra trăng đã soi vào người. Ta chống gậy
đi đâu trăng cũng theo đi cùng, trăng soi xuống nước làm rồng thức, soi vào
chim trên cây làm cho nó phải xoay mình.
Dưới trăng cả ngôi nhà bên cây quýt cũng lay động, giọt sương cũng ánh
lên trên cánh hoa mới nở.
Với ông Tú thì ngoài việc giữ cái ý của nguyên tác còn có thêm những nét
tinh tế khác. Đó chính là ông coi trăng thực sự là người bạn. Vửa mở rèm trăng
đã “chào tớ” và rồi khi ông đi trăng
lại cùng đi “ra chơi lại đón” chứ
không phải đi theo như nguyên tác. Điều thú vị là ông Tú nói không cần úp mở
rằng có trăng mà ta không cô đơn, có trăng mà ta hòa đồng được với cảnh vật tới
mức “Móc trắng lòng ta cũng trắng ngời”
Về nghệ thuật rõ ràng bản dịch theo thể thất ngôn, âm điệu dịu dàng và có
tính nhạc hơn. Tuy nhiên điều chúng ta muốn tìm là phong cách Việt trong thơ
dịch của ông. Điều đó rất rõ trong cách dùng ngôn từ của bài thơ dịch với hàng
loạt các từ láy.
Chỉ là “vành vạnh” thôi
đã đủ để nói cái sự tròn, chỉ với “lụ khụ” đã rõ cái sự già nua tuổi tác. Hoặc với các từ ghép “trong suốt,
sáng choang” đã đủ nói về hình ảnh một không gian sống động. Cùng
với việc sử dụng các từ ngữ điêu luyện là các cấu trúc ngữ pháp trong các câu
thơ chỉ có trong tiếng Việt hiện đại. Ngày nay các tác phẩm vận dụng
theo nghệ thuật dùng từ đặt câu của ông Tú thật là đắc dụng.
Một ví dụ khác nữa là bài thơ “Đối tuyết” thể ngũ ngôn của Đỗ
Phủ cũng được dịch theo thể thất ngôn.
Đối tuyết
(Đỗ Phủ)
Bắc tuyết phạm Trường Sa
Hỗ vân lãnh vạn gia
Tùy phong thả nhàn diệp
Đới vũ bất thành hoa
Kim thác nang thùy chỉnh
Ngân hổ tửu dị xa
Vô nhân kiệt phù nghĩ
Hữu đãi chí hôn nha
Dịch nghĩa
Tuyết miền bắc đã
đến Trường Sa
Mây xứ Hồ gieo lạnh đến muôn nhà.
Lá rơi từ từ theo làn gió,
Hoa không nở được dưới cơn mưa.
Hễ tiền trong túi đã xóc xách,
Thì rượu dễ đầy bình bạc.
Không ai uống hết rượu phù nghị,
Xin cứ đợi đến lúc quạ chiều
Bản dịch
(Trận Tế
Xương)
Nam bắc phôi pha mấy dặm khơi
Tuyết mây dan díu một phương trời
Gặp cơn ghen gió màu tha thiết
Sáu cánh trêu mưa dáng tả tơi
Một túi càn khôn dầu nhẹ nhẹ
Lưng bầu phong nguyệt chẳng vơi vơi
Biết ai cạn chén tri âm tá
Thơ thẩn chiều hôm những đứng ngồi
Bài Đối tuyêt của Đỗ Phủ
nhằm cái ý trước cảnh tuyết rơi, khắp nơi giá lạnh lá cây rơi rụng, hoa không
nở được vì mưa, có tiền trong túi không lo hết rượu. Cứ uống đợi đến lúc chiều
về
Còn với Trần Tế Xương thì bài thơ có sự thay đổi đáng kể. Ông nói về sự
phôi pha giữa nơi xa vắng. Mây tuyết mưa gió tàn phá gợi bao nỗi niềm. Túi càn
khôn kia dù nhẹ bớt, cái bầu phong nguyệt vẫn không vơi. Chẳng biết ai sẽ là
bạn tri âm, nên lòng mãi bồn chồn đứng ngồi không yên.
Về nghệ thuật ông phối hợp ước lệ theo lối cổ của Đường luật Trung Hoa “Một
túi càn khôn” hay “Lưng bầu phong nguyệt” và trộn vào đó vốn ngôn
ngữ thuần Việt “dầu nhè nhẹ” hay “chẳng vơi vơi” một cách tài
tình. Vì thế nên nhiều học giả đương thời và cả những người đời sau đã nhận xét
nhà thơ là “thần thơ thánh chữ”.
Điều cần nhấn mạnh là hầu như bài thơ dịch nào của ông cũng đều dùng
ngôn ngữ tiếng Việt hiện đại. Nghĩa là từ ngày đó (một trăm năm trước)
thơ Đường luật đã được Việt hóa đến độ sâu sắc trong bút pháp của Tú Xương.
Thêm một lần nữa ghi nhận công lao của ông trong văn học Việt Nam nói chung và
trong Việt hóa thơ Đường luật nói riêng.
2. Một số
bài thơ dịch
Dưới đây là một số bản dịch thơ Đường luật của nhà thơ Trần Tế Xương
trích từ tác phẩm Tú Xương toàn tập
do Nhà xuất bản Văn học xuất bản năm 2010 (các bản dịch không có đầu đề nên
viết theo đề của nguyên tác - sách đã dẫn)
Mừng mưa đêm xuân
(Đỗ Phủ)
Khen thay con tạo khéo chia mùa
Hoa sớm mưa xuân những hẹn hò
Đưa nhẹ một cơn bừng giấc thắm
Rơi ra từng sợi thấm cành khô
Đồng không lối tắt mây nghi ngút
Sông vắng thuyền ai lửa thập thò
Phơi phới thành xuân ban sáng tạo
Chồi sương nặng trĩu mặt hoa đưa.
Dã vọng
(Vương Tích)
Bóng lộn ngàn cao buổi tối mòng
Một mình chưa dễ đứng ngồi xong
Cây lồng sắc chiếu màu thu tía
Non ánh tà dương lộng vẻ hồng
Trẻ mục giục trâu lùa cái nghé
Người săn cưỡi ngựa xách con hồng
Cùng trông lại biết ai hay tá?
Tưởng hái rau vi những ngại ngùng
Sơ nguyệt
(Đỗ
Phủ)
Nửa vành
vừa hé mái cung lên
Một bánh
xe trông chửa vẹn tuyền
Thấp
thoáng đầu cành trên bể ló
Lô nhô ban
tối áng mây ken
Chắn ngang
luống để sông Ngân trắng
Hiu hắt vì
ai mặt ải đen
Trăm mối bên
lòng càng áy náy
Dãy thềm
chòm cúc giọt sương hoen
Đăng Nhạc Dương lâu
Đỗ
Phủ
Mấy cảnh
Tiêu Tương vẫn tiếng đồn
Lầu đây hồ
đấy trải bao còn
Chia ra
Ngô Sở chiều ngang dọc
Chốt lại
càn khôn thỏa nước non
Một chữ
thân bằng tin nhạn vắng
Nghìn
trùng quan tái chiếc thuyền con
Xa xa cõi
bắc lầm phong hỏa
Thăm thẳm
Trường An mắt đã mòn
Thánh Tuyền yến
(Vương Bột)
Phất phơ tràng áo bước lên non
Ngoảnh lại bên đình lạch suối con
Bầu sánh cúc pha ba chén cạn
Vần lơi tùng thét mấy cung dồn
Lơ thơ bóng rủ ngoài cành lọn
Ngào ngạt hoa bay trước gió tuôn
Rừng vắng
tà tà say ngắm cảnh
Lô xô len
đá khói đùn đùn
Cũng như các nhà thơ Hàn Thuyên, Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương,
Nguyễn Khuyến, nhà thơ Trần Tế Xương đã góp công lao to lớn hơn hết cho việc
hình thành thơ Đường luật theo phong cách Việt, Chúng ta có thể khảng định toàn
diện về một thể thơ khác đó là “Thơ luật Việt Nam” trong quá trình tiếp thu
tinh hoa văn hóa của thế giới. Về ý kiến này chúng tôi còn muốn có nhiều ý kiến
của các học giả có kiến thức sâu rộng hơn cùng góp sức như đã làm với “Thơ mới”
vốn cũng có sự kết hơp giữa thi ca Việt Nam với thơ Nga, thơ Pháp và thơ của
nhiều nước khác. Cho đến nay chỉ còn lại với cái tên: “Thơ tự do”; “Thơ Mới”
hoàn toàn của Việt Nam ta vậy.
(LTH)
Lê Trọng Hồng
CLB thơ ĐL Lục Đầu Giang tỉnh Hải Dương
Sau hàng ngàn năm
dân tộc Việt đương đầu với những cuộc xâm lược của các thế lực phong kiến
phương Bắc và lần nào cũng đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi. Tuy nhiên lần này
dân tộc ta gặp phải một kẻ thù xâm lược mạnh mẽ và nham hiểm hơn nhiều. Đó
chính là cuộc xâm lược của Thực dân Pháp cùng với vũ khí hiện đại và đầu óc
thực dân nhiều tham vọng tìm kiếm nguyên liệu và chiếm đoạt thị trường của giai
cấp tư sản ở châu Âu.
Giai đoạn đầu thế
kỷ XX cũng là giai đoạn Thực dân Pháp đã thôn tính xong đất nước ta, bắt đầu
cuộc thực dân hóa của chúng bằng mọi thủ đoạn, cùng với sự giúp sức của bè lũ
vua quan phong kiến, tay sai bán nước, đến các quan lại ở phủ huyện và các cấp
thấp hơn đó là các hào lý ở thôn xóm. Đây chính là giai đoạn những chính sách
độc quyền của thực dân Pháp trong cai trị và vơ vét kinh tế, tài nguyên đem về
chính quốc. Cùng với chính sách về kinh tế, chính quyền thực dân tiếp tục tổ
chức bộ máy quân đội đàn áp các phong trào cách mạng của các tầng lớp sĩ phu
yêu nước, đàn áp các cuộc khởi nghĩa binh biến của cai đội, binh lính cùng với
dân lao động. Cho đến khi chính quyền thực dân đè bẹp tất cả các phong trào Cần
vương, Duy tân, Đông Kinh Nghĩa Thục, các cuộc khởi nghĩa của Trương Định,
Hoàng Hoa Thám, Phan Đình Phùng, và nhiều phong trào khác. Tàn sát, bắt bớ,
giam cầm những người đứng đầu trong các nhà tù của chúng. Đất nước ta hoàn toàn
trong đau thương, chết chóc dường như bị tê liệt cho đến khi các phong trào vô
sản bắt đầu hoạt động.
Tuy nhiên với
những giai đoạn xã hội khi ở cao trào lúc lại thoái trào như vậy, nhưng từ bên
trong lòng của nó vẫn như được ủ nóng và sẵn sàng bốc cháy khi thời cơ đến.
Điều này được phát hiện chính là nhờ các ghi chép thông qua các tác phẩm văn
học thời đó và một trong những thể loại văn học đó là thơ Đường luật Việt Nam
Thơ Đường luật
trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX này hầu hết là của của các sĩ phu và và các
học giả biết chữ Hán, chữ Nôm và sau này là chữ quốc ngữ. Trong số này phần
đông lại đang sống trong sự kiềm tỏa của chính quyền thực dân và phong kiến tay
sai nên phần lớn những bài thơ đều luôn kín đáo gửi gấm nỗi niềm trong sự hoài
cổ về sự huy hoàng của lịch sử cha ông và non sông đất nước.
1. Thơ Đường luật diễn đạt nỗi niềm trong
hoài cổ
Những bài thơ
Đường luật hoài cổ xuất hiện trong thời gian này đa phần là nhắc đến truyền
thống yêu nước đánh giặc của cha ông, nhân đấy đánh thức ý chí vươn lên đấu
tranh giành lại non sông đất nước. Cũng trong
thời thơ ca hoài cổ này đã có đến hàng trăm tác giả với nhiều bài thơ viết bằng
chữ Nôm, chữ Hán của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý
Cáp, Nguyễn Thượng Hiền vv… Điển
hình trong sự hoài cổ ấy là bài thơ Thăng Long thành hoài cổ của
Phan Trọng Mưu xuất hiện trong khi Pháp tổ chức khánh thành cầu Long Biên năm
1902. Bài thơ nhắc về dấu ấn lịch sử quang vinh qua bao triều đại của miền đất
Thăng Long xưa. Cùng với những trận chiến oanh liệt “Cầm hồ đoạt sáo” vẻ vang một thời trong
truyền thống của người xưa giờ đâu không thấy nữa
dĩ
biến tam triều cuộc,
không
dư bách chiến thành
Cầm hồ đoạt sáo
nhân hà tại.
Ưng
vị giang sơn tẩy bất bình
Ngoài ra còn rất nhiều các bài thơ khác luôn nhắc nhớ đến lịch sử quang
vinh oanh liệt của cha ông, khêu gợi niềm trắc
ẩn trong lòng mọi người. Từ đó nêu cao lòng yêu nước và ý chí đấu tranh cách
mạng kêu gọi họp nhau lại đứng lên đánh đuổi quân xâm
lược. Trong số đó có khá nhiều các bài thơ như: Cổ Loa hoài cảm, Với sơn hà và Đề đền vua Hùng Vương của
nhà chí sĩ Á Nam Trần Tuấn Khải:
Cám cảnh cháu con hăm mấy triệu!
Tưởng công tôn tổ bốn nghìn năm.
Chắp tay vái lạy mây trời thẳm,
Phù hộ muôn dân buổi cát lầm...
(Đề đền vua Hùng Vương)
Hay như nhà chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng cũng gửi vào thơ Đường luật với nói
về một “Cành chim làm tổ. Ngờ đâu muôn dặm hạc xa vời...” giờ đây
tan tác và những lời nhắn gửi cần thiết về một sự trùng phùng đoàn kết lại.
Những câu hỏi người xưa và những câu trả lời về người nay. Sao không noi theo
đó mà lại để non sông chìm đắm, dân tộc lầm than.
Non sông trơ đó, Thầy đâu vắng?
Con cháu còn đây, giống vẫn cường
Công đức miệng người ghi tạc mãi
Ngàn thu mấy kẻ biết trông gương!
Nhớ lại trước đó nhiều nhà chí sĩ đã viết những bài thơ kể rõ sự hèn
hạ của triều đình phong kiến từng bước để đất nước ta rơi vào tay giặc như bài Nhượng
địa của Phan Văn Trị dưới đây:
Tò te kèn thổi tiếng
năm ba,
Nghe lọt vào tai dạ xót xa.
Uốn khúc sông Rồng mù mịt khói,
Vắng hoe thành Phụng ủ sầu hoa.(3)
Tan nhà căm nỗi câu li hận,
Cắt đất thương thay cuộc giảng hòa.
Gió bụi đòi cơn xiêu ngã cỏ,
Ngậm ngùi hết nói nỗi quan ta.
2. Thơ Đường luật làm vũ khí
châm biếm
Một trong những đặc điểm quan trọng nhất trong nửa đầu thế kỷ XX là việc
thơ Đường luật Việt Nam được viết với phong cách trào phúng. Đây là vũ khí sắc
bén châm biếm bọn thực dân xâm lược và bè lũ tay. Từ đó làm cho dân chúng thấy
rõ bộ mặt thật bọn xâm lược và bè lũ tay sai bán nước. Điển hình với thơ Đường luật trào phúng giai đoạn này là những bài
thơ của nhà thơ Nguyễn Khuyến và nhà thơ Trần Tế Xương. Thơ của hai nhà thơ này
đặc biệt nhằm vào bè lũ xâm lược và bọn tay sai bán nước.
Những nội dung chính trong các bài thơ trào phúng của các nhà thơ là
phơi bầy cái đời sống cực khổ của nhân dân. Trong đó có hàng trăm các bài thơ
của nhà thơ Nguyễn Khuyến viết về khu vực thôn quê ở Hà Nam trong cảnh nghèo
túng, cùng quẫn:
Năm nay cầy cấy gặp chân thua
Chiêm mất đàng chiêm mùa mất mùa
Phần thuế quan Tây phần trả nợ.
Nửa công đứa ở nửa công bò
Trong bài thơ Hội Tây của Nguyễn Khuyến viết về
cái chính sách ru ngủ người dân trong các trò hội hè để quên mất nỗi nhục mất
nước:
Kìa hội
thăng bình tiếng pháo reo
Bao nhiêu
cờ kéo với đèn treo.
…
Khen ai
khéo vẽ cho vui thế
Vui thế
bao nhiêu nhục bấy nhiêu
Cũng như Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương cũng đã viết hàng trăm bài thơ
trào phúng về tầng lớp thị dân ở vùng Nam Định với các tệ nạn xã hội buôn bán
bài bạc lừa đảo. Con người dở quê dở tỉnh, tha hóa đến mức chẳng còn coi lễ nghĩa
là gì nữa trong bài Đất Vị Hoàng:
Nhà kia lỗi phép
con khinh bố
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng
Keo cú người đâu như
Tham lam chuyện thở những
Đặc biệt hơn đó là các bài thơ trào phúng viết về trường thi và đạo học
thật sự chán chường với cảnh nay thay mai đổi, cùng với các trò gian lận nơi
trường ốc.
ngày nay đã chán rồi
Mười người đi học chín người thôi
Cô hàng bán sách lim dim ngủ
Thầy khoá nhấp nhổm ngồi
Sĩ khí rụt rè gà phải cáo
Văn trường liều lĩnh đấm ăn xôi
3. Thơ Đường luật tuyên
truyền vận động
Tiếp
theo thời gian của sự hoài cổ tác động một cách khiêm tốn đến phong trào yêu
nước và cách mạng đó là những bài thơ tuyên truyền và vận động đứng lên cứu
nước ngày càng sôi sục. Do tính chất vận động với nhiều nội dung cần nói tới mà
những bài thơ theo thể lục bát, song thất lục bát xuất hiện nhiều hơn như “Lưu cầu huyết lệ tâm thư”của Phan Bội
Châu. Nhưng cũng không thiều các bài thơ Đường luật vượt qua sự man mác buồn
thời trước để sang trang mới tố cáo bọn thực dân phong kiến và kêu gọi đứng lên
đánh đuổi giặc ngoại xâm.
Trước
hết là những bài thơ nói về cái chí của người cách mạng cả trong cách sống sao
cho xứng đáng đừng để:
Sống
tủi làm chi đứng chật trời
Sống
làm nô lệ cho người khiến.
(Sống - Phan Bội Châu)
Chẳng những là
cách sống mà ngay cả cái chết cũng phải chết sao cho
oanh liệt vì nước vì dân làm sao cho xứng đáng:
Chết
mà vì nước, chết vì dân,
Chết
đấng nam nhi trả nợ trần.
(Chết - Phan Bội Châu)
4. Thơ Đường luật
của nhà cách mạng trong lúc bị cầm tù
Bằng những cuộc đàn áp đẫm máu của chính quyền thực dân Pháp, đối với
các phong trào cách mạng, số đông các nhà cách mạng đều bị bắt giam trong các
nhà lao. Với hoàn cảnh eo hẹp và bức bối của nhà tù thực dân, người tù chỉ còn
biết giãi bầy lòng mình bằng cách sáng tác thơ. Chính trong lúc này thơ Đường
luật thực sự là công cụ có ích cho họ.
Không phải ngẫu nhiên mà sau những vần thơ bốc lửa của nhiều thể thơ
của người Việt, cụ Phan Sào Nam vẫn dành một phần cho thơ Đường luật, nhất là sau
khi cụ bị kẻ thù bắt bớ giam cầm. Chính trong lúc này cụ lại dùng những bài thơ
Đường luật với nhiều nội dung tranh đấu. Khi cụ ở nước người mà vẫn nghĩ về
nước mình và cái hận nước dường như lúc nào cũng nằm đâu đó trong tim trong óc
như những câu thơ trong bài Hữu cảm của cụ:
Tam niên Lĩnh Hải tác thi tù,
Thân thế gia bang lệ bính lưu.
Hay như bài thơ Cảm tác vào nhà ngục ở Quảng Đông
của cụ:
Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù
Một nhà chí sĩ nữa trong thời gian ấy là cụ Phan
Châu Trinh cũng từng viết thơ Đường luật trong khi ở tù. Một trong những bài
thơ nổi tiếng của cụ là bài thơ Đập đá ở Côn Lôn
Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,
Lừng lẫy làm cho lở núi non.
Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng càng bền dạ sắt son.
Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể sự con con.
5. Thơ Đường luật của nhà thơ
cách mạng vô sản
Trong dòng văn học yêu nước và cách mạng, thơ Đường luật của các nhà
thơ “cách mạng vô sản” đến có muộn
hơn, so với sự xuất hiện của các “phong
trào duy tân và bạo động” nhưng lại phong phú và rõ nét nhất. Cũng như đã
nói ở phần đầu về hoàn cảnh xã hội đã tạo nên những dòng văn học của dân tộc.
Trong tiến trình hình thành các tổ chức cách mạng vô sản thì cũng cũng hình
thành hệ thống văn học của cách mạng vô sản. Các nhà thơ cách mạng vô sản vào
giai đoạn ấy ngoài việc nhằm vào mục đích tuyên truyền, vận động còn có cả
những bài viết về những hành động đấu tranh cụ thể. Để tự nhắc nhở mình và nói
cùng đồng chí về niềm tin vào cách mạng. Nhà thơ Trường Chinh viết trong thời
gian ở Hỏa Lò bài thơ Niềm tin:
Bình minh bừng sáng ở phương đông
Xé toạc màn sương phủ cánh đồng
Đêm sẽ qua đi, ngày sẽ lại
Trời quang, mây tạnh, ánh dương hồng.
Nhà thơ cách mạng Trần Cung cũng đã viết bài thơ Đề
lao năm 1939 khi ông đang ở tù. Những câu thơ
phóng khoáng đến mức coi nhà tù thực dân chỉ như chỗ dừng chân trên đường tranh
đấu:
Cuộc đời chiến sĩ thật ba đào,
Thấm thoắt năm lần bị tống lao.
Nhốt chặt con người tầng cửa
sắt,
Vây riêng cõi đất bức tường
cao.
Cá mục, cơm hôi, xiềng xích
sắt,
"Văn minh khai hoá" gớm ghê sao?
Thậm chí trong
khi ở tù, các nhà thơ cách mạng cũng tìm cách liên hệ với nhau để tổ chức thi
thơ Đường luật và tặng giải cho thơ. Nhà thơ cách mạng Trần Cung đã được giải
nhất trong đợt thi thơ năm 1933 ở Hỏa Lò Hà Nội với bài Tết nhà pha
Năm mới sang rồi, năm cũ qua,
Đời tù mới, cũ khéo phôi pha.
Nghinh tân lễ mễ khiêng ,
Bái tuế lom khom bế .
Mặt trái đời kia toàn mặt quỷ,
Trò chơi xuân đó thiếu trò ma.
Mùi đời nếm trải ai sành sỏi?
Có biết mùi này... mặn nhạt a?
Thơ
Đường luật cũng là công cụ cho các nhà thơ cách mạng vô sản phản ảnh tình yêu
nước và ý chí cách mạng của bản thân và cả thế hệ của họ trong nhân sinh quan
mới của thời đại. Một trong những bài thơ đã phản ảnh đến cái sự hy sinh cao cả
của nhà thơ vô sản đó là bài “Thư cho vợ” của Trần Cung viết ở
Côn Đảo năm 1934:
Đồng chí của tôi, em của anh,
Hai ta cùng nhất trí hy sinh.
Ái ân đúc lại hồn non nước,
Hạnh phúc tìm trong cuộc đấu tranh.
Kiếm chốn nương thân nuôi lũ trẻ,
Cho anh yên dạ vượt xà lim.
Thuỷ chung theo nghĩa cao xa ấy,
Đó mới là chân chính tiết trinh.
Đặc biệt hơn cả
đó là những bài thơ Đường luật cũng trở thành công cụ cho nhà thơ cách mạng Hồ
Chí Minh viết tác phẩm Nhật ký trong tù
vào những năm 30 của thế kỷ XX, như một khúc tráng ca của các nhà thơ cách mạng
vô sản.
Thân
thể tại ngục trung
Tinh
thần tại ngục ngoại
Dục
thành đại sự nghiệp
Tinh
thần cánh yếu đại.
Để có thể kết luận bài viết cũng nên nói thêm một chút về hoàn cảnh của
thể thơ Đường luật Việt Nam vào những năm 20 của thế kỷ XX. Đây là khoảng
thời gian rộ lên một nhận định khá độc đoán (trong một chừng mực nào đó): Thơ
Đường luật bị coi là “cũ” là khó sáng tác, là bó buộc tâm hồn thơ.
Nhưng thực tế cho thấy thể loại thơ này đã qua nhiều lần Việt hóa và đã trở
thành thơ Đường luật Việt Nam như phần trên đã nói đến. Hầu hết các nhà thơ
thời đó đều đã từng làm thơ Đường luật và những bài thơ Đường luật đã chiếm
lĩnh tất cả các đề tài về cuộc sống và hơn hết đó là mảng đề tài về yêu nước và
cách mạng.
Với một số nét khái quát trên đây đã đánh dấu sự đóng góp to lớn của thơ
Đường luật Việt Nam trong dòng văn học yêu nước và cách mạng nửa đầu thế
kỷ XX như các thể loại văn học khác của Việt Nam
(LTH)
VĂN HỌC CHỨC NĂNG
TRONG THƠ ĐƯỜNG LUẬT THỜI LÝ
LÊ TRỌNG HỒNG
Chi
hội thơ Đường luật Lục Đầu Giang tỉnh Hải Dương
Lịch sử văn học viết của
nước ta chính thức xuất hiện vào thế kỷ thứ X. Có nhiều giả thuyết cho rằng đây
là thời kỳ văn học mở đầu, tuy nhiên cho đến những năm tám mươi của thế kỷ hai
mươi chúng ta mới đặt tên thời đại văn học theo cách sắp xếp của thế giới. Từ
đó chúng ta có hệ thống nghiên cứu các thời kỳ văn học đồng nhất với quốc tế.
Đối chiếu với thời gian trên thì thời kỳ xuất hiện văn học viết của nước ta được
xếp vào thời kỳ văn học trung đại. Đây cũng chính là thời kỳ hình thành và phát
triển của Lý triều kéo dài 216 năm từ 1009 đến năm 1225. Những nét đặc trưng
của văn học trung đại nước ta là loại hình văn học chức năng và loại hình văn
học nghệ thuật. Tuy nhiên không loại trừ sự đan xen giữa hai loại hình văn học
cùng xuất hiện trong từng tác phẩm.
Trong quá trình khảo sát
văn học cũng có nhiều khái niệm khác nhau về các tác phầm thơ thời Lý. Nhiều
người cho rằng những sáng tác của các nhà sư mang tính thiền nên thường cho đó
là các bài thơ thiền. Một dạng sáng tác cô đọng hơn để truyền tải những triết
lý nhà phật lại được gọi là kệ. Để giúp cho việc tìm hiểu chúng tôi xin được
gọi chung các tác phẩm là thơ Đường luật thời Lý.
I. Những bài
thơ Đường luật thời Lý thuộc thể loại văn học chức năng.
Nói đến loại hình văn học
chức năng với cái đích chính là sự ảnh hưởng của văn học đến đời sống xã hội.
Trên tinh thần đó chúng tôi xếp các bài thơ theo từng chức năng cụ thể. Đó là
các bài thơ sấm có nội dung định
hướng xã hội; các bài thơ truyền giảng về tôn giáo; các bài thơ vấn đáp về lẽ
đời, lẽ đạo và cả các bài thơ cảm hứng, tự tình của các tác giả cũng hướng đến
các hoạt động xã hội. Dưới đây là một số nét khái quát về văn học chức năng
trong thơ Đường luật thời Lý.
a. Những bài thơ mang chức năng định hướng xã hội
Những bài thơ mang chức
năng định hướng xã hội là những bài thơ sấm xuất hiện khá nhiều trong văn học
thời Lý, thậm chí còn xuất hiện trước nữa vào thời Đinh, Lê. Đây chính là các
bài thơ được viết ra với ý đồ hướng mọi người đến một mục đích nào đó. Cụ thể
hơn đó là các bài thơ cổ súy cho việc đưa ai lên làm vua và từ đây có một dòng
tộc thay nhau lãnh đạo đất nước. Trong Thơ
văn Lý Trần thống kê nhiều lần xuất hiện thơ sấm, đó là giai đoạn nhà Lê
thay nhà Đinh tiếp đến là nhà Lý thay nhà Lê. Những bài thơ dạng này thường là
khuyết danh vì đây được ví với sự phán bảo của trời. Nếu nói về nguồn gốc thì có
chăng là do người nào đó nghe được, nhìn thấy được ở một nơi nào đó. Về nội
dung các bài thơ thường đượm màu huyền bí, mượn quang cảnh, hiện tượng tự nhiên
mà diễn giải. Đó chính là những bài thơ sấm
chuẩn bị cho sự ra đời triều Lê, triều Lý... Có thể lấy bài thơ sấm Quốc tự mà Vạn Hạnh đọc được ở cây gạo
chỉ rõ Thân vệ (Lý Công Uẩn) sẽ lên ngôi trong ba tháng nữa.
Cái tam nguyệt chi nội
Thân vệ đăng trụ xã tắc
Lạc trà ấn quốc tự
Thập khẩu thủy thổ khứ
Ngộ thánh hiệu Thiên Đức
Hoặc bài
Yết bảng thị chúng: nói về cây tật
lê (ám chỉ triều đại Lê Hoàn) chìm sâu ở mạn Bắc và Lý tử (chỉ Lý Công Uẩn) ở Nam thiên sẽ
thay thế. Tứ phương sẽ hết can qua và đất nước sẽ thanh bình
Tật lê trầm Bắc thủy
Lý tử thủ Nam thiên
Tứ phương qua can tĩnh
Bát biểu hạ bình yên
Đặc biệt
hơn là bài thơ Đại Sơn khuyết danh,
tiếp cái ý của bài thơ mà Từ Đạo Hạnh đọc được ở gốc gạo, nhưng lại nói rõ ràng
rằng trong ba tháng thỏ, gà, chuột sự sẽ thành
Đại sơn long đầu khởi
Cù vĩ ẩn chu minh
Thập bát tử định thành
Miên thụ hiện long hình
Thố kê thử nguyệt nội
Định kiến nhất xuất thanh
Tước bỏ
đi những khái niệm duy tâm trong các bài thơ, ta vẫn nhận ra rằng tầng lớp sĩ
phu và các nhà sư quả đã nắm bắt đầy đủ các hoạt động xã hội đương thời và
triệt để khai thác nó phục vụ cho các sách lược lớn lao của đất nước.
b. Những bài thơ truyền giảng về đời và đạo
Một dạng văn bản thi pháp
ngắn gọn, hàm súc được gọi là kệ xuất hiện nhiều trong các tác phẩm thời Lý.
Thường các bài kệ đã được nung nấu qua sự từng trải, chiêm nghiệm của tác giả,
nó huyền bí và khó hiểu chỉ có thể suy ngẫm kỹ mới có thể ngộ được. Người ta
cũng từng xếp thể loại văn học này với hình thức văn học “vô ngôn” nó có phần nào giống như khái niệm “Ý tại ngôn ngoại” mà nghệ thuật thơ Đường luật thường đề cập đến.
Về thực chất kệ cũng là loại hình văn học chức năng nhằm chỉ bảo hoặc nhắn gửi
một nội dung nào đó cho mọi người. Nó có thể viết với nhiều ẩn ý mang tính tôn
giáo nhưng nó cũng bộc lộ rõ như những câu chữ thông thường trong giao tiếp
hàng ngày. Có thể lấy bài nói về Sinh, lão, bệnh, tử của nhà thơ nữ Lý Ngọc
Kiều làm ví dụ:
Sinh lão bệnh tử
Tự cổ thường nhiên
Dục cầu xuất ly
Giải phọc thiêm triền
Mê chi cầu phật
Hoặc chi cầu thiền
Thiền phật bất cầu
Đỗ khẩu vơ nghiên
Điều mà tác giả muốn nói:
Sinh, lão, bệnh, tử vốn là tự nhiên, cái sự cầu siêu thoát thực chẳng hóa ra là
cột chặt thêm và tỏ ra không hiểu biết. Tốt nhất là ngậm miệng lại, không nói
gì cả.
Ở một số bài lại được
viết ra với sự ẩn chữa những triết lý huyền bí, chỉ có thể hiểu sau nhiều suy
ngẫm. Có thể lấy ví dụ qua bài Thị đệ tử
bản tịch của Đào Thuần Chân:
Chân tính thường vô tính
Hà tằng hữu sinh diệt
Thân thị sinh diệt pháp
Pháp tính thị tằng diệt
Bài kệ nói về khái niệm
chân tính thực chất chỉ là vô tính. Thân người luôn có sự sinh diệt, còn với
pháp tính thì chưa bao giờ sinh và cũng chưa bao giờ diệt. Bài thơ chính là lời
dặn học trò về cái sinh diệt của bản ngã nên đừng bao giờ chấp ngã.
Một bài kệ khác nữa mang
chức năng truyền thụ đạo pháp cũng xuất hiện giữa những người đồng đạo ví như
bài Đáp Từ Đạo Hạnh chân tâm chi vấn của
Kiều Trí Huyền:
Ngọc lý bí thanh diễn diệu âm
Cá trung mãn mục lộ thiền tâm
Hà sa cảnh thị bồ đề đạo
Nghĩ hướng bồ đề cách vạn tầm
Bài viết mang tính trao
đổi giữa hai người về một triết lý: phật ở khắp mọi nơi, vì thế chớ nên cho
rằng phật ở quá xa không với được. Nói một cách khác đó là phật luôn ở cạnh ta,
thậm chí là luôn ở trong ta vậy.
Một trong những cao tăng
đắc đạo như Từ Đạo Hạnh với nhiều bài kệ, nhất là những triết lý mà ông thu
lượm được qua bài Hữu Không:
Tác hữu trần sa hữu
Vi không nhất thiết không
Hữu không như thủy nguyệt
Vật trước hữu không không
Một sự ví von khá hình
tượng về hiện trạng trăng soi đáy nước. Nhìn thấy đó mà không thể vớt được, nên
mọi thứ thấy có mà thực sự lại là không.
c. Những bài thơ vấn đáp về đời và đạo
Một phong cách thơ khác cũng
được xếp vào loại hình văn học chức năng đó là các bài thơ vấn đáp với các nội
dung hỏi và trả lời về một điều gì đó. Thơ Đường thời Lý trong Thơ văn Lý Trần tập 1 có đến 11 bài thơ
vấn đáp. Nội dung vấn đáp có thể là một triết lý về đời, về đạo, về xử thế, về
sách lược về thời vận của con người và của đất nước. Đây là những bài thơ vấn
đáp giữa vua tôi, thầy trò, phụ tử và cả những người đồng triều, đồng đạo. Hầu
hết nội dung đều rất cụ thể cho từng đề tài gắn bó chặt chẽ với sinh hoạt đời
sống của xã hội đương thời. Bài thơ vấn đáp điển hình chính là bài thơ Đáp Quốc
vương Quốc tộ chi vấn của Đỗ Pháp
Thuận:
Quốc tộ như đằng lạc
Nam thiên lý thái bình
Vô vi cư điện các
Xứ xứ tức đao binh
Đây là chính là tác phẩm
văn học viết xuất hiện đầu tiên trên đất nước Việt Nam với nội chính là một câu
hỏi của nhà vua về thế nước hiện nay đã được nhà sư thi sĩ trả lời mạch lạc tựa
như nung nấu trong lòng đã từ lâu. Thế nước ở đây được nói đến đó là lòng người
bám chặt vào nhau sống trong cảnh thái bình, ví như sự quấn quýt dây leo chằng
chịt. Chỉ cần làm cho triều chính bớt đi những mưu toan ích lợi nhỏ nhặt thì
chẳng còn “đao binh” loạn lạc.
Có thể
kể thêm bài: Thị chư thiền lão tham vấn
chỉ thiền của nhà vua Lý Phật Mã (Thái Tông).
Bát nhã chân vô tông
Nhân không ngã diệc không
Quá hiện vị lai phật
Pháp tính bản tương đồng
Bài viết
nói về cái gốc sắc không và nhấn mạnh bản ngã của ta, của người tất cả đều
không vậy. Từ đó khảng định cho dù là quá khứ, hiện tại hay vị lai thì tính
phật vẫn giống nhau.
Một ví dụ khác đó là bài: Đáp Lý Thái Tông tâm nguyện chi vấn của Lâm Khu. Đây là bài vấn đáp
giữa vua tôi về một triết lý phật pháp:
Pháp bản như vô pháp
Phi hữu diệc phi không
Nhược nhân tri thử pháp
Chúng sinh dữ phật đồng
Nội dung
căn bản đã chỉ ra rằng “bản pháp” thực ra cũng là “vô pháp”. không phải có mà cũng chẳng phải là không.
Nếu mà hiểu được điều đó thì chúng sinh cũng đồng nhất với phật.
Bên cạnh các bài vấn đáp
về đời về đạo là loạt bài viết về quốc gia dân tộc được thể hiện bởi nhiều câu
hỏi và những câu trả lời về đất nước. Những gì mà ta tiếp thu được đó là sự
quan tâm thường trực của các vị quân chủ và các quan lại đồng thời là các nhà
thơ về sự tồn vong của đất nước, cùng với cách làm thế nào để thế nước bền vững
lâu dài, như bài Đáp Quốc vương quốc tộ chi vấn
của Đỗ Pháp Thuận đã dẫn ở phần trên.
Một trong những bài thơ
đặc biệt nhất vừa có chức năng tuyên cáo trước quốc gia dân tộc, vừa có chức
năng phán bảo về sự sai trái của quân xâm lược được sử dụng trong thời Lý đó là
bài Thơ Thần vang lên trên trận
chiến sông Như Nguyệt.
Nam quốc sơn hà Nam
đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lại xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Bài thơ được cho là sáng tác của Lý Thường
Kiệt. Mỗi câu, mỗi chữ làm sáng tỏ một chân lý, đó là khảng định sự tồn tại của
đất nước, dân tộc và chủ nhân trên đất ấy. Đồng thời mỗi câu mỗi chữ cũng tỏ rõ
khí phách oai hùng của một dân tộc đối diện với ngoại bang. Bài thơ được coi là
bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất của nước Việt. Rõ ràng bài thơ mang chức
năng là vũ khí văn hóa trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc.
Về bài Thơ Thần, nhiều bài nghiên cứu cho rằng
bài thơ có thể đã xuất hiện từ triều đại trước đó, và không có tác giả cụ thể, tuy
nhiên ảnh hưởng của nó đặc biệt to lớn hơn khi sử dụng trong cuộc kháng chiến
chống xâm lược của triều Lý. Đây cũng chính là dấu ấn rõ nét nhất trong công
cuộc bảo vệ đất nước vô cùng vĩ đại của dân tộc.
d. Những bài thơ cảm hứng, tự tình
Những bài thơ cảm hứng,
tự tình đa số cũng luôn hướng về đời về đạo và về quốc gia dân tộc. Mặc dù đó
là cảm hứng của cá nhân các nhà thơ nhưng có lẽ bản thân nhà thơ mang nặng chức
trách của mình trong guồng máy hoạt động của xã hội nên ngoài những thăng hoa
trong sự giác ngộ về đạo vẫn bám chặt vào thời cuộc. Điển hình là hàng loạt các
bài thơ vịnh cảnh hoặc ca tụng các nhân vật qua cảm tình của tác giả. Tuy nhiên
cái sự ngỏ cái ý sau cùng cho học trò, cho bè bạn, cho dân chúng trước lúc rời
xa cõi sống của các vị quân chủ, của các tăng lữ chính là cái cảm xúc lớn nhất
của đời người. Điều mong muốn để lại những chứng nghiệm, cùng với sự giác ngộ
cho đời sau chính là khái niệm văn học chức năng phổ biến giáo dục trong thơ Đường
thời Lý.
Thống kê trong Thơ văn Lý Trần và cụ thể là thơ thời
Lý có 9 bài kệ thị tịch và nhiều bài thơ dưới dạng thơ cảm hứng. Với dạng thơ
cảm hứng xin dẫn bài Cáo tật thị chúng của Mãn Giác để luận về điều này.
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc
tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi
mai.
Đây
là bài thơ cảm hứng trong lúc có bệnh. Ngoài sự đối vần đối ý của hai liên thơ
trên với thể ngũ ngôn, bài thơ được tiếp nối với liên thơ dưới với thể thất
ngôn, tựa như dòng chảy trong sông chợt òa ra biển. Sự phiền muộn bi quan, tiếc
nuối đã mất đi để mở ra một niềm tin của sự sinh sôi nảy nở.
Có
thể dẫn thêm bài thơ của Hoàng đế Lý Công Uẩn trong lúc thiếu thời:
Thiên vi khâm chẩm địa vi thiên
Nhật
nguyệt đồng phong đối ngã miên
Dạ
thâm bất cảm trường thân túc
Chỉ khủng sơn hà xã tắc điên
Bỏ qua
những nhận định cho rằng ngài tự đánh giá quá cao về mình thì cái ý “duỗi thẳng
thân thể ra mà lo đất nước nghiêng đổ” cho thấy cái nghệ thuật ví von phóng đại
cũng chỉ có một ngài mà thôi. Điều quan trọng hơn muốn nói đến ở đây chính là
dù là thơ cảm hứng nhưng vẫn hướng đến sơn hà xã tắc.
Cảm hứng
dành cho một nhân vật cũng là đề tài của các nhà thơ. Có thể lấy bài thơ Truy tán Vạn Hạnh thiền sư của vua Lý
Nhân Tông làm ví dụ:
Vạn Hạnh dung tam tế
Chân phù cổ sấm thi
Hương quan danh Cổ Pháp
Quải tích trấn vương kỳ
Nhà vua đã ca tụng Thiền
sư Vạn hạnh là người thông hiểu ba cõi, thơ của ông là lời sấm khí. Từ quê nhà
cổ Pháp, treo gậy trấn giữ kinh kỳ cho vua. Đây cũng là một cách khen tặng biểu
dương những người có công với nước.
Cảm hứng trước cảnh thiên
nhiên và con người tự do tự tại là những đề tài quen thuộc. Xin dẫn bài Ngư nhàn của Thiền sư Không Lộ làm ví
dụ:
Vạn lý thanh giang vạn lý
thiên
Nhất thôn tang giá nhất thôn yên
Ngư ông thụy trước vô nhân hoán
Quá Ngọ tinh lai tuyết mãn thuyền
Tuy nhiên nếu không có
đời sống khoan hòa yên vui hạnh phúc mà xã hội đương thời tạo dựng, hẳn ông
chài đâu có niềm sung sướng tự do tự tại đến thế. Điều nhấn mạnh ở đây vẫn là
sự ca ngợi một xã hội tươi đẹp đương thời.
Ngoài những
bài thơ cảm hứng nêu trên có thể kể đến hàng loạt các bài thơ tự tình trong thơ Đường thời Lý, mà
điển hình là 9 bài kệ viết trước khi mất của các nhà thơ. Xin dẫn bài Kệ thị
tịch của Thiền sư Vạn Hạnh làm ví dụ:
Thân như điện ảnh hữu
hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô
Bài thơ
nói về sự biến động vô thường của mọi sự vật, bản thân con người cũng không nằm
ngoài quy luật này. Một người khi đã tu hành hoà đồng được với tự nhiên sẽ không
cần băn khoăn, buồn đau cho sự ra đi của kiếp người. Đây chính là triết lý nhân
sinh gửi lại cho mọi người vậy.
Có thể dẫn thêm bài Thị tịch kệ của thiền sư Viên Chiếu:
Thân như tường bích di
đồi thì
Cử thế thông thông thục bất bi
Nhược đạt tâm không, vô sắc tướng
Sắc không ẩn hiển nhậm suy di
Bài
thơ nói về thân người già nua yếu ớt tựa bức tường long. Đây cũng là lẽ thường
từ từ đến chẳng nên buồn khổ làm gì. Nếu đã nhận thức được tâm không, vô sắc
tướng thì cứ mặc cho mọi sự xoay vòng.
2. Những yếu
tố hình thành văn học chức năng của thơ Đường luật thời Lý
Thơ Đường luật thời Lý mang
nặng hình thức văn học chức năng cũng thật dễ hiểu vì hầu hết các tác giả đều là
người có chức trách trong xã hội. Ở nhóm thứ nhất là các quan lại trong hệ
thống lãnh đạo của nhà nước phong kiến, thậm chí là cả các vị quân chủ và các
quan đầu triều. Bài viết của họ thường chỉ ra những nội dung quan trọng của bộ
máy nhà nước trước cộng đồng xã hội.
Nhóm tác giả thứ hai là
các tăng lữ đã từng được tu học với sức hiểu biết phi thường, về chính trị, xã
hội và triết lý tôn giáo. Họ từng là các cố vấn cho các vị vua trong quá trình
chấp chính. Thậm chí chính họ cũng là bà đỡ cho các triều đại phong kiến ra đời.
Bài viết của họ luôn thấm nhuần về đời, về đạo và nhiều nội dung bộc lộ chính
kiến của họ trước những yêu cầu xã hội và cả những hoạch định quan trọng của
nhà nước phong kiến lúc bấy giờ.
Nhóm tác giả thứ ba là
các nhà quý tộc, các nhân sĩ có chung quyền lợi với bộ máy lãnh đạo xã hội. Bài
viết của họ thường là ca ngợi chính trị xã hội và các vị vua chúa cùng với
những gì tốt đẹp nhất. Đặc biệt là ca tụng những chiến tích đánh giặc giữ nước
và quá trình dựng nghiệp của triều đại phong kiến đương thời.
Cũng từ các dẫn chứng
trên đây ta nhận thấy hầu hết các bài thơ đều gắn bó với đời sống xã hội. Ngay
cả những tăng lữ vốn được coi là những người “xuất thế” vậy mà thơ của họ cứ
bám dính với mọi mặt đời sống. Từ đây ta có thể xác định Thơ Đường thời Lý về
mặt nội dung thực sự là loại hình văn học chức năng gắn bó chặt chẽ với đời
sống xã hội.
3. Kết luận
Trên đây là một số nét
khái quát về văn học chức năng trong thơ Đường luật thời Lý. Sự gắn bó của các tác giả và các tác
phẩm trong chức năng xây dựng xã hội đương thời đưa đến một nhận định hết sức
độc đáo đó là sự gắn bó sâu sắc của văn học với đời sống xã hội. Đây chính là
thành công to lớn không gì sánh nổi của Lý triều cùng với 216 năm liên tục. Một
chứng minh sâu sắc về ảnh hưởng văn học đối với một thời đại, làm tiền đề cho
sự bền vững của một quốc gia dân tộc.
Ngày nay dưới ánh sáng
của văn hóa thế giới và sự trưởng thành của văn học Việt Nam qua nhiều thời kỳ,
chúng ta có thể rút ra những bài học sâu sắc về một nền văn hóa mới lấy sự tiến
bộ của xã hội làm kim chỉ nam cho các sáng tác. Đồng thời cũng xác định chức
trách của người sáng tác văn học trước nhiệm vụ xây dựng quốc gia dân tộc.
(LTH)