Tổng số lượt xem trang

22/03/2016

MỘT SỐ BÀI VỀ NAM ĐỊNH


LẠI VỀ SÔNG LẤP
Tháng 9/2010
Lại về sông Lấp[1] quê ta
Tìm câu thơ đã trôi xa thuở nào
Đâu rồi ngõ phố Hàng Thao
Xôn xao máy điện, ồn ào máy tơ.
Trống chầu ai để quay lơ
Mảnh trăng rơi giữa đôi bờ Đò Quan
Dốc cầu lên xuống ríu ran
Lỏng tay ga, ngắm cung đàn chăng dây[2]
Bâng khuâng gió cuốn, mây bay
Lối xưa sông Lấp ở đây đâu rồi.

CHIẾC XE CỦA VỢ
Vợ tôi, chỉ chiếc xe tàng
Là chân chạy, để cho nàng chợ thôi
Hôm qua lốp bị nổ rồi
Vợ tôi đi chợ bằng đôi chân trần.
Chợ quê thật chẳng có gần
Con đường đá hộc bao lần ướt khô.
Người ta mua sắm ô tô
Vợ tôi, chỉ chiếc xe thồ ngày xưa.
Thôi thì tiện cứ để bừa
Bỏ quên từ sáng đến trưa vẫn còn…
Chỉ mong có mớ rau non
Bữa trưa, bữa tối, chồng con mát lòng
Thơ tôi viết mãi chưa xong
Định đem tặng vợ, nói sòng mấy câu.
Tiếc rằng anh số không giầu
Thành ra em cũng dãi dầu nắng sương.
Ai về rút lại quãng đường
Để cho ta khỏi vấn vương lẽ đời


QUÊ HƯƠNG TÂY LẠC
(Qua hội chùa Như 25/1/Tân Mão)
Ta về với hội chùa Như
Đông như đã tạnh, xuân như ấm dần
Ta về đây với người thân
Quê cha còn đó, dấu chân chưa mờ
Xôn xao kỷ niệm tuổi thơ
Một thời cha mẹ...bây giờ đã xa
Ta về nhớ cửa, nhớ nhà
Nhớ từ đồng trũng, nhớ ra đồng màu
Thương quê để bạc mái đầu
Để mờ mắt lệ, để sầu giọt tim
Mấy mươi năm vẫn dõi tìm
Dù trong chiến trận muôn nghìn hy sinh.
Khi đang tiếp nối công trình
Công trường, nhà máy hết mình dựng xây
Khi trong giông bão bủa vây
Một thân lúa trổ thấm đầy mồ hôi
Một tầng cao sáng màu vôi
Phố phường, đồng ruộng khác hồi xa xưa.
Trách chi bao cuộc gió mưa
Miếng cơm Ất Dậu đẩy đưa rời làng
Mảnh gai đầu chợ bẽ bàng
Bâng khuâng chân bước đi sang quê người.
Bẩy mươi năm sắp qua rồi
Vẫn như đứa trẻ bồi hồi về quê.
Làng vui tình nghĩa tràn trề
Đồng Thông, Đồng Bái cận kề Đồng Huy
Qua Đồng Bình đến Đồng Chi
Quê hương Tây Lạc thầm thì trong ta
Tay đưa ấm ngọt hương trà
Người quê vẫn vậy thật thà hỏi han
Ai đi ra Bắc, vào Nam
Ai đang bận rộn, gian nan quê nhà.
Còn đây con, cháu, ông, bà
Nắm tay chào hỏi, trẻ già thân thương
Ngày mai, trên mọi ngả đường
Bờ tre, đồng lúa, quê hương xa dần
Bâng khuâng hơi ấm người thân
Quê hương Tây Lạc mãi gần bên ta.

QUA ĐỀN LIỆT SĨ
(Qua đền liệt sĩ Nam Trực 23/2/2011)
Gió mang cơn rét về đâu
Để chiều xuân mãi cuộn sâu sóng ngầm
Cổng đền khép chặt lặng câm
Để ai đứng dưới mưa dầm lê thê
Tưởng đâu quên hết lối về
Tuần hương còn đỏ bên lề cỏ non.
Dẫu rằng ngực đỏ như son
Vẫn thương bao mảnh trăng tròn rụng rơi.
Mỗi người chỉ một cuộc đời
Dám quên đi để bao người tiếc thương.
Chờ mưa ghé lại bên đường
Đọc bao tên tuổi để vương lệ già
Thương bao nhiêu những mái nhà
Cô đơn vắng bóng...người xa không về.

TẾ NỮ QUAN
(Hội làng Tây Lạc 26/1/Tân Mão)
Áo khăn đỏ thắm sân chùa
Làng vui vào hội giữa mùa cấy chiêm
Nhẹ nhàng chân bước hai bên
Áo choàng kim tuyến tươi trên nắng hồng
Cổ, chinh, bầu, trúc hoà đồng
Hài hoa, khăn đóng, áo rồng nhẹ bay
Mắt ngời lóng lánh hương say
Nửa đông xướng để nửa tây đợi chờ
Khói hương lan toả xanh mờ
Giọng văn thánh thót, đèn thờ lung linh
Tam tuần bái tạ phân minh
Càng sâu, càng nặng ân tình tổ tiên.

AO THƠ
(Ao đình làng Tây Lạc)
Ao xưa bèo đặc mấy tầng
Những chùm hoa tím, chín dần hoàng hôn
Ánh sao sáng dọc đường thôn
Chông chênh bậc đá, gió nồm thổi qua
Mùi hoa khoai nước tan ra
Thoảng nghe tiếng cá ngoài xa đớp mồi
Mặt ao sóng sánh bồi hồi
Ngàn sao xích lại để rồi giãn ra
Bâng khuâng bến nước ao nhà
Tuổi thơ kỷ niệm nhạt nhoà trong đêm.

EM THEO VỀ HỘI
(Đồng làng Tây Lạc năm 2011)
Bao mùa mê mải nơi xa
Nghỉ hưu rồi mới về nhà quê xưa
Dạo qua Đồng Cửa, Vườn Rừa
Nắng xanh Đồng Xác, khói mờ Đồng Din.
Ai đang lạ lẫm đứng nhìn
Người làng ta cả, em tin vậy mà.
Mạ sân vừa đến độ già
Chỉ vài bữa nữa ruộng nhà cấy xong
Hội làng vừa đến độ đông
Theo ai về hội, bỏ không người chờ.

THĂM MỘ MẸ GIÀ
(Qua khu mộ họ Lê ở Tây Lạc)
Con về thăm mẹ chiều nay
Bâng khuâng hoa nắng chất đầy nghĩa trang.
Tường vôi đọng dấu sơn vàng
Búp xanh cỏ mới đã đang nảy mầm.
Tấm bia đá vẫn yên nằm
Dấu tay xoa nhắn vết hằn thời gian
Sáu mươi năm, nắng mưa chan
Cô đơn một nắm xương tàn xa xôi.
Giờ đây mẹ đã về rồi
Quê hương thay đổi khác hồi ngày xưa
Bồi hồi thân quyến đón đưa
Làng trên, xóm dưới cũng vừa sang chơi.
Bát cơm, quả trứng rước mời
Hẳn rằng mẹ biết những người ngồi đây.
Nén vàng hoá giữa trưa nay
Gửi theo người những tháng ngày xa xăm.
Mỗi người rồi cũng trăm năm
Dù ai rồi cũng về nằm nơi đây
Nắng vàng thắp lửa lung lay
Phải chăng bóng mẹ đang bay về trời.
Nén hương cháy đã cạn rồi
Cháu con thành kính, bao lời tri ân.

TÌNH CÔ THỢ CẤY
(Vụ cấy đầu năm 2011)
Mạ sân ai cuộn từng phên
Để bao rảnh nhỏ thả trên ruộng bùn
Bàn tay con gái rét run
Lại chia đều những chấm tròn biếc xanh.
Tóc mây ai cuốn vòng quanh
Mắt đen ai thoáng long lanh rạng ngời
Môi hồng ai chúm chím cười
Bâng khuâng mặt ruộng một trời xuân quê
Sao em chưa chịu ra về
Bóng chiều đã xuống bên đê đầu làng.

NHỚ LỜI HEO MAY
Chỉ còn có gió heo may
Thổi vào góc bếp làm cay mắt già
Chiều nào một cháu một bà
Nửa niêu cơm độn với cà kho tương
Tưởng đâu đời lắm sắc hương
Để quên đi cả góc giường chuối khô
Quên con đường nhỏ ngoại ô
Mái nhà tranh đứng bên hồ cạn khênh
Một đời bà mãi lênh đênh
Nuốt vào tim những chông chênh ở đời
Mai sau cháu có nên người
Nhớ về quê để nghe lời heo may.

KHÓC ANH
Tây Lạc 15/3/2011
Thế là em chịu thua rồi
Bao nhiêu cầu khấn mà trời không cho
Đôi tay gầy guộc, héo khô
Anh đi như mặt nước hồ nhẹ tênh
Lá vàng rơi giữa mông mênh
Để bao lòng mãi chông chênh cõi buồn.
Giữa chiều gió thổi mưa tuôn
Bánh xe lăn giữa cội nguồn đắng cay.
Chưa ba vạn sáu ngàn ngày
Đã đau đớn đã đoạ đầy bao cơn.
Chẳng so bì chuyện thiệt hơn
Chẳng chê bai chẳng oán hờn chi ai
Một mình vượt những chặng dài
Đói cơm, rách áo theo hoài khắp nơi.
Miếng cơm cha mẹ đã vơi
Miếng cơm chú thím cũng rơi rụng dần
Vui buồn theo bạn đầu quân
Đạn bom, giặc giã bao lần xông pha.
Rời quân binh trở về nhà
Gian nan đời thợ để mà nuôi con
Nợ nần thiếu, đủ hao mòn
Sớm khuya lưu động chẳng còn là bao
Lương ba cọc mấy đồng hào
Tháng chưa hết đã sờ vào túi không.
Quê xa, vợ yếu, con đông
Thắt lưng, buộc bụng vẫn không đủ đầy.
Một căn nhà nhỏ vừa xây
Ăn dè hạt tiện bao ngày mới nên
Các con từng đứa có duyên
Đã thành gia thất ổn yên cửa nhà.
Đến ngày vợ phải đi xa
Một mình còn lại mái nhà cô đơn
Đau đời càng lúc nhiều hơn
Bến xưa vắng khách trống trơn giữa đời.
Ngàn sao vằng vặc trên trời
Hiểu đâu cho hết cõi người đắng cay
Bệnh theo người nặng từng ngày
Mười năm gìn giữ hao gầy ăn kiêng.
Bảy mươi chín trái sầu riêng
Anh đi về với tổ tiên, ông bà
Anh đi về với mẹ cha
Để em ở lại xót xa ruột tằm.
Đêm đêm nhìn dấu anh nằm
Nắm xương khô héo lệ đầm trên mi...
Lặng im chờ phút chia ly
Ước như anh vắng những khi thường ngày
Ngó theo cột khói hương gầy
Giật mình chợt hiểu, từ rầy mất anh
Một vòng khăn trắng quấn quanh
Thêm bao sợi nữa bạc nhanh trên đầu
Mỗi dòng là một giọt sầu
Nhỏ trên mặt giấy đỏ ngầu khóc anh!

VỢ MỜI UỐNG RƯỢU
Em nào có nghiện rượu đâu
Chỉ mời anh một chén đầu bữa thôi.
Có say thì đã say rồi
Cần chi mượn rượu mà mời mọc nhau.
Theo từ mới nở hoa cau
Chẳng cần mặc cả trước sau thế nào.
Theo từ rời chỏm trái đào
Đến nay lấm tấm bước vào tuyết sương.
Tha lôi khắp các công trường
Bát cơm gạo sổ, cân đường cắt ô
Giường ghép ván, gạo đựng xô
Áo quần túi dết, ba lô nát nhàu
Mưa rơi chảy ướt trên đầu
Đành ngồi bó gối nhìn nhau mà cười.
Có say, lúc ấy say mười
Bữa nay chẳng biết uống rồi có say.
Rõ là những đắng cùng cay
Gian nan vất vả, trả vay hết rồi.
Uống cùng em…một chén thôi
Để quên, để nhớ, để ngồi rõ lâu
Nuốt vào hết mọi nỗi sầu
Để say như thuở ban đầu mới quen.

VỀ VỚI CHỢ VIỀNG
Qua tết về quê xuống chợ Viềng
Vui xuân cầu lộc chẳng cần kiêng
Cháu đòi kiếm hộ đôi con sáo
Vợ dặn tìm cho một cái kiềng
Mê ngắm đào hoa rơi nhẵn túi
Thèm say rượu cẩm đổ lăn chiêng
Cả năm mới có ngày thư giãn
Cũng phải khao mình tí cái riêng

CÁO LỖI VỚI QUÊ HƯƠNG
(Kính tặng quê hương Nam Trực)
Bươn trải bao năm ở chốn xa             
Về hưu mới nhớ tới quê nhà
Chưa cho Đồng Quỹ chuông rền tiếng
Chửa để Nam Giang thép trổ hoa
Đất Trạng thanh liêm còn nhắc trẻ
Quê Vua uy dũng vẫn khuyên già
Làm con xứ ấy nhiều danh giá
Càng phải vươn lên mới xứng là...

MONG ĐÔI CÁNH

(Gửi về Nam Định quê nhà)
Vừa mới nghe tin gió bấc về
Lúa xuân gặp giá chết nhiều ghê
Đầu Din mới giặm loi thoi mọc
Cuối Cửa vừa gieo lốm đốm huê
Gội gió mặt cha thường vẫn tái
Dầm mưa chân mẹ lắm khi tê
Chỉ mong ai đó cho đôi cánh
Bay vút lên trời trở lại quê

(Kính tặng quê hương Nam Định)
Nghe vỡ bao đê ở tỉnh nhà
Bão liền mấy trận thảy đều qua
Vuông tôm mới đắp không còn vết
Chạt muối chưa thu đã chảy xoà
Công lênh ngần ấy cũng thôi hoà
Đành rằng hoạn nạn đâu không thế
Vẫn cứ đau riêng nỗi tỉnh nhà

(Nam Định 6/2007)
Bến cũ làng xưa chẳng thấy đâu
Đoàn xe cuồn cuộn lướt qua cầu
Ra đi mười tám xanh con mắt
Trở lại năm mươi bạc mái đầu
Đất mẹ quanh năm hồn gọi nhớ  
Quê cha suốt tháng dạ kêu sầu 
Giận người đi mãi nơi xa vắng
Mê mải bên trong vạn sắc màu.

Tìm về với những ngày thơ
Lá mùa thu rụng kín bờ ao xanh
Con chim chích nhỏ trên cành
Chợt bay lên lượn vòng quanh mé đồi.
Chiếc cầu tre cũ đâu rồi
Để đôi cọc gẫy một thời đứng trơ
Vòm trời sâu thẳm mộng mơ
Mỏng manh một tiếng cá trưa đớp mồi
Mặt ao loang sóng bồi hồi
Nhoà đi khuôn mặt những người ngày xưa.
Nhẹ tênh cái bấc thân dừa
Bờ tre trước mặt gió lùa lao sao
Ngày xưa cất ở nơi nào
Để bâng khuâng giữa mặt ao lặng tờ (!)

Mẹ ra đi giữa nắng trưa
Để lời ru, tiếng võng đưa lại nhà
     Để đàn cháu nhỏ lệ nhoà
Cả cơ quan xuống đồng xa tiễn người.
     Bát cơm, quả trứng ngậm ngùi
Mảnh khăn xô trắng sụt sùi, héo hon
     Tháng năm xưa đã mỏi mòn
Con mơ mẹ, mẹ mơ con cả đời.
     Đơn côi giữa đất giữa trời
Bâng khuâng tiếng võng với lời mẹ ru.








[1] SôngVị Hoàng trong thơ Trần Tế Xương
[2] Cáp cầu Đò Quan Nam Định