Tổng số lượt xem trang

22/11/2015

QUA NHỮNG MIỀN QUÊ

THƯ
(Họa thơ Nguyễn Thị Kim Tuyên)
Bất chợt nao lòng nhớ mẹ cha
Anh em cách trở bạn bè xa
Tàn đêm mòn mỏi chờ sao rụng
Trọn sáng âm thầm đợi nắng pha
Bến giác chập chờn trăng hạ sáng
Đường thơ khấp khểnh gió thu lòa
Cù lao chín chữ sao quên được
Ai đó vương tình trong mắt ta.

CHÍ LINH MÃI NGUYÊN XANH
Một vùng đồi núi đẹp như tranh
Tụ hội bao nhiêu chuyện tốt lành
Phả Lại, Lục Đầu từng nức tiếng
Côn Sơn, Kiếp Bạc đã vang danh
Muôn nơi tụ hội gom công đức
Khắp xứ chia nhau sức tạo thành
Nhân kiệt địa linh chừng đã mở
Chí Linh muôn thuở mãi nguyên xanh

KINH BẮC
Qua phà Đồng Việt một chiều xuân
Kinh Bắc thì ra cũng rất gần
Ruộng lúa trải dài liền một thửa
Vườn hoa san sát nối chung sân
Nhà xưa vời vợi vươn cao nữa
Ngõ cũ thênh thang mở rộng dần
Chắc hẳn mai đây còn đổi khác
Hơn nhau gấp đến bốn năm phần

BẮC GIANG
Trở lại Bắc Giang buổi sáng nay
Đất xưa có dịp được phô bày
Vành đai Như Nguyệt ngăn quân Bắc
Đồn cứ Phồn Xương chặn lính Tây
Tiếng súng Quan Đề rung chuyển núi
Bài thơ Thái Uý xé tan mây
Mới hay muôn ngả đường ta đến
Lịch sử cha ông rạng rỡ thay

TRỞ LẠI VĂN AN
Vui chân trở lại với Văn An
Đồi núi chen nhau nắng ngập tràn
Trên đỉnh thông tơ xanh biếc biếc
Dưới khe vải chín đỏ chan chan
Suối rêu cuồn cuộn sôi màu bạc
Cầu đá chon von hắt ánh vàng
Muôn cảnh hiện ra ngay trước mắt
Đền thầy giờ cũng đã khang trang

THĂM ĐỀN KHÚC THỪA DỤ
Nước non Đại Việt bốn ngàn năm
Ngoại thuộc đan xen với nội xâm
Mấy cuộc tồn vong chưa hết giận
Bao lần thành bại vẫn còn căm
Vua Bà quyết chí đòi trả hận
Khúc Chủ kiên gan gắng lập thân
Quyết nắm trong tay nền tự chủ
Quang vinh cho nước phúc cho dân

CẢM XÚC ĐỀN THIÊNG
Phượng Sơn xanh biếc ngất trời mây
Núi vẫn còn in bóng dáng thầy
Son Giếng lờ mờ sương phủ kín
Miết Trì rậm rạp cỏ giăng đầy
Bia xưa bày tỏ câu trung liệt
Đền mới suy tôn đạo nghĩa dày
Thất trảm sớ văn trùm khí phách
Tưởng như còn vọng mãi nơi này

ĐỔI THAY
Trở lại Quất Lâm buổi sáng nay
Tưởng đâu xa cách mấy ngàn ngày
Sau lưng đồng ruộng vừa gieo cấy
Trước mặt phố phường mới dựng xây
Mặt biển bao la vàng dưới cát
Bầu trời bát ngát biếc trong mây
Quê ta phấn khởi theo lời Đảng
Cảnh sắc giờ đây đã đổi thay.

THĂM LẠI THĂNG LONG
Đã lâu mới lại đến Thăng Long
Một chút thăm chơi chẳng thoả lòng
Tĩnh lặng đền xưa trong lá biếc
Bồng bềnh cầu cũ dưới gương trong
Hình rùa gửi lại gò thần tích
Kiếm báu gieo vào nước trắng bong
Đất thánh ngàn năm đang đổi mới
Đợi người về với hội non sông.

HỒ GƯƠM TỨC SỰ
Sợi liễu bên hồ lãng đãng rơi
Nền gương phẳng lặng nước chơi vơi
Trên gò tháp cũ thong dong đứng
Dưới nước thần quy lặng lẽ bơi
Ngọn bút giương lên nền tím biếc
Chân nghiên trụ lại giữa mặt đồi
Ngàn xưa muốn gửi vào thiên cổ
Khí phách cha ông động đất trời

TRỞ LẠI CỔ LOA
Mấy chục năm rồi mải đó đây
Xuân nay về lại với nơi này
Thành x­ưa chặn giặc đang còn dấu
Giếng cũ gieo châu nước vẫn đầy
Chợ chẳng vơi đi mùa trám chín
Đền càng đầy chặt khói hương bay
Nỏ thần ngày ấy đi đâu mất
Mặc những hòn tên cắm tại đây

THĂNG LONG NGÀN TUỔI
 (Hoạ bài Dấu ấn thời gian)
Khởi nghiệp Lý triều cũng đã an
Dời đô thảo chiếu gắng chu toàn
Nhờ sông nối mạch xây giang trấn  
Cậy núi khơi nguồn dựng ải quan   
Lập trận luỹ thành nhanh chốt chặt
Bán buôn đường xá dễ tuần hoàn
Thăng Long ngàn tuổi đang dần tới
Rực rỡ huy hoàng khắp thế gian.

TÌNH THƠ
Thăng Long rực rỡ dưới vầng dương
Nối mạch thi thư mở luật Đường
Người mến núi Nùng tâm rực sáng
Ta yêu sông Nhị chí ngoan cường
Khơi nguồn trí tuệ từ muôn hướng
Dẫn lối nhân văn đến bốn phương
Hà Nội ngàn năm hùng khí vượng
Tình thơ lai láng sáng như gương.

SÔNG CÁI NƯỚC CẠN
(Năm 2010 sông cạn còn 0,5m)
Sông Cái năm nay đã cạn rồi
Sắn quần nhón gót lội qua thôi
Dưới sâu mới biết nhiều bùn vữa
Trên mặt thì hay lắm cát bồi
Nước ít cá tôm càng khó ở
Dòng đầy rác rưởi dễ dàng trôi
Bao giờ mưa xuống qua cơn hạn
Bốn phía dâng tràn sóng cuộn sôi.

CHÍ LINH SÔNG ĐUỐNG
(Nhân về dự hội thơ Sông Đuống)
Lại nghe Sông Đuống sóng trào sôi
Khắp chốn quê hương đổi mới rồi
Đường phố xôn xao xe trẩy ngược
Dòng sông rộn rã chuyến tầu xuôi
Miền quê thanh lịch vươn tầm mới
Muôn khúc Đường thi lại nảy chồi
Một áng thơ vui mừng chúc bạn
Chí Linh Sông Đuống mãi chung đôi

NGÃ BA DÂU
Lại về ngắm cảnh ngã ba Dâu
Sông Đuống mênh mang sóng bạc đầu
Không dễ tìm ra miền rộng hẹp
Chẳng sao dò nổi chỗ nông sâu
Phù sa bồi đắp tươi cây trái
Nước mát tưới tiêu đẹp lúa mầu
Vườn ruộng được mùa vui mở hội
Quê hương từ khó đã nên giầu

TÌM DẤU NHẠN LOAN
(Nhân Huệ mùa nước mới)
Tìm dấu Nhạn Loan dưới nắng hè
Dòng sông mùa lũ nước vàng hoe
Ruộng ngô cao sản chen trên bãi
Đàn cá mè hoa lượn dưới khe
Nhà cửa mới làm vôi trắng toát
Vườn cây vừa tạo quả xanh lè
Bến thuyền ngày ấy không còn nữa
Làng xóm yên bình dưới bóng tre

(Kính dâng nữ sĩ Hồ Xuân Hương)
Trở lại Mù Sương nhớ Nguyệt Hồ
Gió chiều lồng lộng sóng lô xô
Vui câu Quạt mát đùa quân tử
Xót khúc Tình đau khóc liễu bồ
Mượn cảnh đẩy đưa trò hý lộng
Thay hình bài bác thói dâm ô
Mấy ai hiểu được lời kiêu bạc
Mà cái tình chung vẫn khát khô.

 (Nhớ thơ nứ sĩ Hồ Xuân Hương
Bà bảo vào hang Thánh Hoá coi
Xem xong chả hiểu sáng hay lòi
Đây hầm cổ tích hương dìu dịu
Kia ổ nguyên sơ vị mặn mòi
Rậm rạp bày ra ngăn quấy đảo
Lam nham khép lại cản săm soi
Dở hay cũng bởi trời sinh thế
Thiên hạ từng chê khéo hẹp hòi

(Viết ở Chợ Chùa Nam Trực)
Qua tết về quê xuống chợ Viềng
Vui xuân cầu lộc chẳng cần kiêng
Cháu đòi kiếm hộ đôi con sáo
Vợ dặn tìm cho một cái kiềng
Mê ngắm đào hoa rơi nhẵn túi
Thèm say rượu cẩm đổ lăn chiêng
Cả năm mới có ngày thư giãn
Cũng phải khao mình tí cái riêng

CÁO LỖI VỚI QUÊ HƯƠNG
(Kính tặng quê hương Nam Trực)
Bươn trải bao năm ở chốn xa             
Về hưu cáo lỗi với quê nhà
Chưa cho Đồng Quỹ chuông rền tiếng
Chửa để Nam Giang thép trổ hoa
Đất Trạng thanh liêm còn nhắc trẻ
Quê Vua uy dũng vẫn khuyên già
Làm con xứ ấy nhiều danh giá
Càng phải vươn lên mới xứng là...

CỔ THÀNH

Lịch sử nằm sâu dưới Cổ Thành
Một vùng khảo cứu uốn vòng quanh
Hoa văn tảng cũ còn nguyên vẹn
Nét khắc bia xưa vẫn rõ rành
Móng gạch nối nhau dăm bẩy lớp
Giếng xây chồng chận bốn năm vành
Mới hay quá khứ còn in đấu
Lịch sử nằm sâu dưới Cổ Thành

BÌNH DƯƠNG VÀO HẠ

Vừa mới qua xuân đã hạ rồi
Khắp vùng nắng nóng tựa như sôi
Đôi con máy gặt vừa mới sắm
Mấy chiếc công nông đã sửa rồi
Lúa chín rải vàng trên mặt ruộng
Ngô già nhuộm đỏ cuối chân đồi
Mùa về cứ ngỡ như vào hội
Làng xóm hân hoan nở nụ cười

HƯƠNG CỐM

(Tặng Phước Tảo tác giả Hương Cốm)
Hương Cốm bay xa ngát cả chiều
Quý nhau xin chắp mấy vần yêu
Hà Trung thuở ấy mầm tươi thắm
Thiệu Hóa hôm nay trái chín nhiều
Tính thợ chỉn chu lo mọi sự
Tình thơ trọn vẹn thấu bao điều
Mới hay vàng ngọc trong bao vải
Hương Cốm bay xa ngát cả chiều

ĐẾN TUẦN CHÂU

Lại về vãng cảnh đảo Tuần Châu
Bốn phía mênh mang sóng bạc đầu
Nhà nghỉ dập dìu người bốn biển
Cửa hàng tấp nập khách năm châu
Bầu trời cao tít tình thơ mộng
Mặt đất bao la cảnh đẹp giầu
Đất nước yên bình trong độc lập
Vui thơ đặt bút viết đôi câu

NGẪU HỨNG NGÀY HƯU

(Nhớ về một thuở làm nông)
Công việc hình như vẫn đợi mình
Về hưu còn bận kế mưu sinh
Sáng ra tưới đạm ngô Bờ Sẻ
Chiều đến phun sâu lúa Cửa Đình
Đường xá đắp bồi đà trọn vẹn
Máng mương nạo vét đã phân minh
Bên đầm bát ngát mùa sen nở
Mượn bút gieo thơ tỏ chút tình

ĐÈO NGANG TỨC SỰ
Xe tới đèo Ngang nắng chửa nhoà
Đường hầm mới mở gọi vào ra
Thênh thênh mặt nhựa xe lăn bánh
Bát ngát đồi xanh mía trổ hoa
Trước mặt xôn xao phường mới mở
Sau lưng nhộn nhịp xóm thêm nhà
Lối xưa vắng vẻ không còn nữa
Tức cảnh đôi câu tặng bạn già...

NHỚ VỀ PHỐ CŨ QUÊ NHÀ

(Nhớ về Hà Nội xuân 2008)
Đã trải phong trần khắp bốn phương
Vẫn không quên nổi những con đường
Nhạt nhòa cầu cũ vầng trăng rụng
Lấp loáng hồ xưa giọt nắng vương
Tháp Bút chọc trời che bóng nắng
Đài Nghiên trải rộng tỏa hơi sương
Một thời kỷ niệm bao nồng ấm
Để lại trong lòng vạn nhớ thương

(Kính tặng quê hương Nam Định)
Nghe vỡ bao đê ở tỉnh nhà
Bão liền mấy trận thảy đều qua
Vuông tôm mới đắp không còn vết
Chạt muối chưa thu đã chảy xoà
Sức vóc bao nhiêu giờ mất cả
Công lênh ngần ấy cũng thôi hoà
Đành rằng hoạn nạn đâu không thế
Vẫn cứ đau riêng nỗi tỉnh nhà

Mỗi ngày một trạm đã đi qua
Rừng rậm toàn cây chẳng có nhà
Võng vải treo lên đu bổng tít
Hoàng Cầm bếp đỏ khói luồn xa
Gió Lào thốc xuống ròn lưng áo
Sương muối trùm lên trắng mặt ga
Bãi cũ chiều nay không có khách
Lờ mờ dọc suối lối chân qua

Mấy chục năm rồi mải đó đây
Xuân nay về lại với nơi này
Thành x­ưa chặn giặc đang còn dấu
Giếng cũ gieo châu nước vẫn đầy
Chợ chẳng vơi đi mùa trám chín
Đền càng đầy chặt khói hương bay
Nỏ thần ngày ấy đi đâu mất
Mặc những hòn tên cắm tại đây

Núi chắn sông ngăn cũng cứ qua
Mưa dầm gió lạnh có chi là
Vui duyên các cháu om xòm cỗ
Mừng gặp anh em ríu rít quà
Phố núi quanh co đèo với dốc
Làng sông bịn rịn mảng cùng phà
Yêu nhau quý mãi câu tình nghĩa
Một tý gian nan chẳng đáng mà

Dạo bước đi quanh khắp mặt đồi
Từng hàng thẳng tắp trắng màu vôi
Những dòng tên tuổi im không nói
Năm tháng thời gian lặng lẽ trôi
Nhớ lúc xông pha nơi chiến trận
Mà lòng chẳng ngại máu xương rơi
Ngàn năm còn đó câu oanh liệt
Mãi vẫn xanh nguyên giữa cõi đời

Đền xưa yên lặng dưới vòm cây
Mái ngói rêu phong lá phủ dầy
Cỏ biếc lan quanh bờ đá mỏng
Cành lim phủ kín bậc hiên gầy
Đôi dòng lịch sử in trên bảng
Mấy cuốn văn thơ để trước quầy
Ngàn vạn gái trai về rước hội
Tưởng mùa xuân cũ lại về đây.

Việc nước đau sang cả việc nhà
Chuyện ngàn năm cũ đã đi qua
Cô đơn gốc đá trên nền tối
Lạnh ngắt am con buổi nguyệt tà
Mấy kẻ gian tình đi mất cả
Còn đây nợ đá một thân bà
Hồn thiêng xin hãy kêu thành tiếng
Để nợ duyên xưa cháy trước nhà

Bến cũ Song Hồ sắp trở qua
Lơ thơ mấy khách đứng chờ phà
Vẻ xanh đổ xuống làn sông vắng
Sắc điệp tô lên mảng ánh tà
Lất phất tranh sơn treo trước cửa
Chơ vơ bó giấy dựng cuối nhà
Băn khoăn ướm hỏi người năm cũ
Còn bán tranh xuân được mấy tờ   
            
Vạn lý non sông dựng luỹ thành
Lên cao xuống thấp cuốn vòng quanh
Chon von đỉnh núi mây giăng đỏ
Bát ngát chân trời cỏ trải xanh
Thảng thốt lòng khe con nước chảy
Bâng khuâng bậc đá mái đồn canh
Mang mang khí trận dường chưa tạnh
Xe cá về kinh gió vẫn tanh

Sợi liễu bên hồ lãng đãng rơi
Nền gương phẳng lặng nước chơi vơi
Trên gò tháp cũ thong dong đứng
Dưới nước thần quy lặng lẽ bơi
Ngọn bút giương lên nền tím biếc
Chân nghiên trụ lại giữa mặt đồi
Ngàn xưa muốn gửi vào thiên cổ
Khí phách cha ông động đất trời

Một dải mênh mông sóng Lục Đầu
Sáu dòng trong đục chảy vào nhau
Lênh đênh dưới bến dăm thuyền cá
Thấp thoáng trên sông một nhịp cầu
Thuỷ trận năm xưa không thấy nữa
Chiến thuyền thuở ấy đã về đâu
Còn ai biết được ngàn năm trước
Gươm giáo rơi đầy tận đáy sâu

Núi Phượng chiều nay đỏ sắc cờ
Đền đài mới dựng giữa hoang sơ
Trường xưa hoa nở trò đang đợi
Điện mới thông reo khách vẫn chờ
Sửa đức can người lo vận hội
Khơi nguồn dạy trẻ tạo duyên cơ
Bên tường vẫn đó dòng xuân cảm
Đạo thánh gieo mầm vạn tứ thơ

Lâu nay mới lại đến Thăng Long
Một chút thăm chơi chẳng thoả lòng
Tĩnh lặng đền xưa trong lá biếc
Bồng bềnh cầu cũ dưới gương trong
Hình rùa gửi lại gò thần tích
Kiếm báu gieo vào nước trắng bong
Đất thánh ngàn năm đang đổi mới
Đợi người về với hội non sông.

Rạch đá xô nghiêng nửa mái đồi
Thạch Bàn tựa núi đứng chơi vơi
Hài hoa mấy dải treo ngang vách
Tiền giấy từng phên để dưới cơi
Tiếng đã từng quen danh tính phật
Lời nghe vẫn cứ dáng hình đời
Nước non dẫu chỉ nơi trần thế
Lặng lẽ nơi đây một cõi trời

Đất Quảng vang danh đã một thời
Phong Nha cổ tích luống đầy vơi
Sông Son khép lại ôm sườn núi
Cửa Tối chìa ra hứng mặt trời
Vách đá mơ hồ hình dáng phật
Lòng khe đầy chặt dấu chân người
Hồn thơ thăm thẳm bên bờ đá
Thánh thót trần hang giọt nhũ rơi

(Chợ Chờ tháng 7/2007)
Cảnh xưa có lẽ vẫn nguyên sơ
Vui bước chân quay trở lại Chờ
Cổ Nguyệt năm nao tằm chín mọng
Quan Đình bữa ấy r­ượu say mờ
Phủ Từ ngó thấy hàng đầy phố
Lục Ngạn nhìn ra vải kín bờ
Kinh Bắc ngày nào giờ đã khác
Đổi thay chừng ấy thật không ngờ

Ai về thăm đất Đại Lâm đây
R­ượu sắn năm nao vẫn cất đầy
Lúc nhúc trong chuồng heo đứng chặt
Xanh om mặt ruộng lúa đan dầy
Lớp trai mạnh mẽ quên mư­a nắng
Lũ gái chăm ngoan mặc tháng ngày
Thiếu thốn đói nghèo giờ trốn biệt
Nghề xưa nuôi sống cả quê này

Một vùng sông núi rộng bao la
Phường phố vươn cao điện chói loà
Bạch Nhạn bãi xưa dù chẳng thấy
Phao Sơn thành cũ vẫn đây mà
Sáu đầu tách thuỷ chia nguồn nước
Ba tỉnh giao nhau góp vạn nhà
Phả Lại hôm nay vào cuộc mới
Lòng người rạo rực khúc xuân ca

Bạch Nhạn giờ đây chẳng nhận ra
Thành Phao có thấy nữa đâu mà
Nhà tầng ngất ngưởng bên sườn núi
Cầu mới nằm trên sóng Lục Hà
Đất cũ anh linh trùm mọi nẻo
Người nay tuấn kiệt hợp muôn nhà
Chung tay góp sức xây quê mới
Phả Lại vươn lên bước kịp đà

Nắng sôi mặt nước dưới lòng khe
Có nhẽ hôm nay đã giữa hè
Cái cuốc nhặt khoan sau bãi mái
Con sầu rền rĩ cuối hàng me
Ra đi trước cổng sen hồng rực
Trở lại trên sân phượng đỏ loè
Bao đứa ngày xưa đâu thế nhỉ
Mình ta một bóng dưới hiên tre.

 (Cổ Loa 10-2001)
Cây đa ngàn tuổi mất từ lâu
Mái ngói chùa xưa đã bạc màu
Bàn gỗ, ghế băng tìm chẳng thấy
Bảng đen, trống cái cất vào đâu
Mặt, mày thủa ấy còn măng sữa
Cằm miệng năm nay đã sẵn râu
Mới đó giờ thành già lão cả
Một đời xem thấy thật là mau.

Chợ Lọc chiều nay hoá phố rồi
Nhà tầng san sát trắng màu vôi
Năm nào chốt chặn đồn giăng kín
Giờ đã thông đường chợ khắp nơi
Làng xóm từng thừa người đói rách
Sân đình chẳng hiếm bọn ăn hôi
Quê hương cụ Tố không buồn nữa
“Đông Xá” giờ đây đổi mới rồi.

(Lấy ý từ Tắt đèn Ngô Tất Tố)
Phố Lọc chiều xuân lãng đãng say
Dòng sông uốn lượn dưới vòm cây
Năm nào đầy rẫy đời tăm tối
Giờ đã không còn kiếp đắng cay
“Nhà Dậu” chửa quên từ thủa ấy
“Đình làng” còn nhớ đến hôm nay
Tuần, Cai, Lý, Nghị “mùa sưu thuế”
Gió mới huy hoàng đã cuốn bay.

(Lấy ý Tắt đèn Ngô Tất Tố)
Chợ Lọc chiều nay hoá phố rồi
Nhà tầng san sát trắng màu vôi
Sân đình ngày ấy đầy gông trói
Những Nghị hôm nay đã hết thời
Nhà Dậu từng thừa mùi đói rách
Huyện đường đâu thiếu vị tanh hôi
Quê hương cụ Tố không buồn nữa
“Đông Xá” giờ đây đổi mới rồi.

(Nam Định 6/2007)
Bến cũ làng xưa chẳng thấy đâu
Đoàn xe cuồn cuộn lướt qua cầu
Ra đi mười tám xanh con mắt
Trở lại năm mươi bạc mái đầu
Đất mẹ quanh năm hồn gọi nhớ  
Quê cha suốt tháng dạ kêu sầu 
Giận người đi mãi nơi xa vắng
Mê mải bên trong vạn sắc màu.

T­ướng lĩnh thư­ơng nhân chỉ một ông
Nửa thì t­ư lợi nửa thì công
Bến Triều còn đó đền còn đó
Chứng cứ thì không án cũng không
Câu chuyện lư­u truyền chư­a chắc đúng
Đôi dòng chép lại khó mà thông
Quân l­ương, hàng hoá đâu là thực
Ai có tinh tư­ờng giảng hộ ông.

Sùng Nghiêm mới đư­ợc sửa sang xong
T­ượng phật uy nghiêm đủ các phòng
Hộ Pháp khổng lồ ngồi trấn cửa
Thích Ca nhỏ bé ngự bên trong
Như­ Lai phật tổ ôm thiền toạ
Tam Thế dăng hàng dõi mắt trông
Cực lạc kìa ai đang đợi đó
Mới tu một kiếp khó mà thông

Hội Lim vừa mở rõ là to
Quan khách đã đông lại lắm trò
Nón thúng quai thao đầy d­ưới bến
Áo the khăn xếp rợp trên đò
Ng­ười về dự hội vui câu hát
Kẻ đến chơi xuân thích giải cờ
Mỗi cảnh, mỗi tình tuỳ ý bạn
Riêng mình gửi lại một vần thơ

Lư­u truyền vốn cổ tự ông cha
Khảm tỉa soi châm vẫn nếp nhà
Rồng cuốn hổ nằm thâm sắc gụ
Công xoè ph­ượng múa đỏ vân hoa
Mắt thầy khéo tạo hình muông thú
Tay thợ quen đ­ưa nét kỷ hà
Chợt thấy hồn thơ trong thớ gỗ
Lung linh huyền ảo xứ Liên Hà

(Mừng hội thơ Quảng Ninh)
Đất Quảng th­ư hùng tự thuở xư­a
Lời nào ca tụng để cho vừa
Biển thơm rồng xuống gieo linh khí
Đất quý than về thắp ­ước mơ
Trải cuộc kiếm tìm miền thắng tích
Dục thời mở cửa cõi hoang sơ
Giao l­ưu hội ngộ đôi lời xư­ớng
Mừng bạn hôm nay mở hội thơ.

Chí Linh thu đến mướt màu xanh
Muôn giọng đàn ca giữa đất lành
Phả Lại, Lục Đầu từng nức tiếng
Côn Sơn, Kiếp Bạc mãi vang danh
Cha ông kiến tạo dày công đức
Con cháu mở mang tỏ tấc thành
Nhân kiệt địa linh càng rực rỡ
Một vùng sông núi đẹp như tranh.

Đất thợ từng quen nói thật tình
Chẳng ưa phù phiếm với hư vinh
Câu thơ thấm thía gieo lòng bạn
Khúc hát say sưa tỏ chí mình
Lưỡi búa bổ vào nền đá rắn
Ngọn đèn rọi xuống máng than tinh
Một đời bận rộn vui cùng mỏ
Còn mãi muôn sau một dáng hình

Vòng xe cuồn cuộn lướt như bay
Một chặng đường vui sắp đến đây
Gặp bạn dạt dào câu chuyện kể
Tìm thơ rạo rực ngấm men say
Mây trời non nước còn nguyên vậy
Phố xá làng quê đã đổi thay
Đất mỏ than nồng  hương toả ấm
Biển xanh sóng dậy cánh thơ bay

CHIỀU VẮNG
(Sông Thái bình 9/2008)
Chiều như làn gió chảy sang đông
Đàn vịt theo sào đổ xuống sông
Lò đất  nhấp nhô un dưới khói
Bè tre lưng lửng cất trên không
Phải người năm trước vừa đi khuất
Để khách năm nay vẫn ngóng trông
Chiều vắng kìa ai còn đứng đó
Mắt nhìn muôn dặm tới mênh mông

(Hoạ thơ Nguyễn Tam Kỳ)
Thị trấn thanh xuân mới buổi nào
Thời gian thấm thoắt có là bao
Bước chân đi tới đường thêm rộng
Ánh mắt nhìn sang phố đã cao
Chợ mới hàng lên dòng cuộn chảy
Trường vui trẻ đến sóng sôi trào
Ba mươi năm ấy miền quê núi
Rực cháy huy hoàng một Ánh Sao.

(Kính tặng PN thơ Đường Nam Sách)
Mười năm bền chí với thơ Đường
“Bóng nước Kinh Thầy” thắm sắc hương
Đạo cốt thanh tao lời thánh thiện
Ý tình nhuần nhã dáng phong sương
Nhân văn phẩm hạnh vừa khai mở
Trí lực tâm tư đã khác thường
Một áng thơ mừng đầy ngưỡng mộ
Gửi về Nam Sách vạn yêu thương.

Chúc cho Thanh Miện mãi tươi thơ
Truyền tụng danh thơm khắp bến bờ
Nam, Bắc hai miền luôn rực sáng
Tùng, Giang đôi xứ chẳng phai mờ[1]
Đạo người nền nã luôn yêu quý
Thế đất thanh tao mãi phụng thờ
Tiếp bước người xưa luôn cố gắng
Dựng xây quê lúa thắm sao cờ.

Hào khí Đông A rực lửa hồng
Một thời oanh liệt của cha ông
Bình Than khai hội bàn mưu kế
Vạn Kiếp dàn quân lập chiến công
Cự Nguyệt thây thù phơi kín đất
Bạch Đằng xác giặc nổi đầy sông
Ngàn năm danh tiếng còn vang mãi
Hào khí Đông A rực lửa hồng

Sớm nay nắng ấm đã về đây
Đồng đất miên man những sá cầy
Mạ rắc trong năm vừa đủ tuổi
Đất bừa giáp tết kịp trang lầy
Ruộng Phao nước mát chan bờ thửa
Đồng Thuỷ mạ xuân đã mọc dầy
Chính phủ gửi cho nguồn giống mới
Mùa sau lúa tốt vạn kho đầy

Theo bạn vui thơ tới Bắc Giang
Sông Thương mời khách quý như vàng
Luật đường chặt túi ngâm kỳ thích
Thịt chó đầy mâm chén tới quang
Mở cuộc tao phùng cho lắm khách
Hẹn kỳ sinh nhật để thêm trang
Quý nhau đâu kể to hay bé
Xa mấy thì ta cũng cứ sang

Mù trắng bao vây kín bốn bên
Đỉnh cao im lặng giữa thâm nghiêm
Mái đồng gội nắng xoa đen bóng
Mặt đá sư­ơng dầm cạnh sắc thêm
Cung điện ngoái đầu không thấy nữa
Biên c­ương trư­ớc mặt đã giăng lên
Ngàn năm sắp sửa trôi qua mất
Nhân thế d­ường như­ chửa láng quên

Đỉnh cao vời vợi đứng uy nghiêm
S­ương xuống giăng che kín bốn bên
Mặt đá dầm mư­a càng thấy lạnh
Mái đồng gội nắng ngỡ thêm đen
Biên c­ương trư­ớc mặt đang gần tới
Cung điện sau lư­ng đã cách thêm
Dáng phật hiện về từ quá khứ
Bâng khuâng dừng bư­ớc ngắm chùa thiêng

(10/12/2009)
Làng Diềm vào đám say quan họ[2]
Xứ Guột mừng mùa gọi ró lên[3]
Nỗi bạn khát khao câu hát ống
Tình ta chan chứa khúc giao duyên
Tưởng khi chung bước lên quan dốc
Nhớ lúc cầm tay cặp mạn thuyền
Mấy chục mùa xuân chưa trở lại
Hỏi người áo thắm nhớ hay quên

Câu ca quan họ đã thân quen
Vào đám tìm nhau giữa đẩy chen
Nhặt nón gửi người che nắng giãi
Trao thơ tặng bạn đón trăng lên
Nhờ xuân nghĩa cũ may còn dịp
Cậy hội tình xưa mới có phen
Non nước đầy vơi ai biết hết
Bao miền yêu dấu vẫn còn nguyên

Quê hương Kinh Bắc lắm tơ vương
Truyền tụng vang xa vạn dặm đường
Khúc hát mời trầu vang khắp chốn
Câu thơ gọi bạn vọng ngàn phương
Cha ông đánh giặc lừng danh tiếng
Con cháu dựng xây dậy sắc hương
Quý bạn tao phùng đôi vận chúc
Xin mời thi hữu hoạ vài chương.

ĐI THANH HOÁ
(Tháng 11/1966)
Con số mười ba đến xứ Thanh
Xa xôi, ta địch vẫn giao tranh
Máy bay lảng vảng thường lao xuống
Tầu chiến lăm le vẫn đứng rình
Máy điện giữ nguồn thề chiến thắng
Hàm Rồng nối nhịp quyết hy sinh
Bỗng dưng cánh thợ thành ra lính
Lũ giặc Huê Kỳ sợ khiếp kinh

Mới gặp mà sao đã thiết tha
Sông Hương dìu dặt tiếng đàn ca
Lầu xưa nắng rót xanh màu ngọc
Vườn mới sương buông  tím sắc hoa
Thái Miếu thong dong chờ khách đến
Tràng Tiền nhộn nhịp đón người qua
Mới vừa gặp gỡ chiều thu Huế
Cứ tiếc mai ngày đã phải xa

Nước non Đại Việt bốn ngàn năm
Ngoại thuộc đan xen với nội xâm
Mấy cuộc tồn vong chưa hết giận
Bao lần thành bại vẫn còn căm
Vua Bà vững chí đòi trả hận
Khúc Chủ kiên gan gắng lập thân
Quyết nắm trong tay nền tự chủ
Quang vinh cho nước phúc cho dân

BÊN SÔNG THƯƠNG
Bến xuân chiều lặng khói xanh lơ
Dòng nước sông Thương chảy lững lờ
Thuyền lưới buông chèo nương bến đá
Đàn chim sải cánh cuốn mây tơ
Quê hương thuở nhỏ xa lăng lắc
Bè bạn thanh xuân vắng lặng tờ
Chiều xuống sương rơi càng thấy lạnh
Một mình còn lại giữa chơ vơ

CẢM XÚC ĐỀN THIÊNG
Phượng Sơn xanh biếc ngất trời mây
Núi vẫn còn in bóng dáng thầy
Son Giếng lờ mờ sương phủ kín
Miết Trì rậm rạp cỏ giăng đầy
Bia xưa bày tỏ câu trung liệt
Đền mới suy tôn đạo nghĩa dày
Thất trảm sớ văn trùm khí phách
Tưởng như còn vọng mãi nơi này

Trở lại Quất Lâm buổi sáng nay
Tưởng đâu xa cách mấy ngàn ngày
Sau lưng đồng ruộng vừa gieo cấy
Trước mặt phố phường mới dựng xây
Mặt biển bao la vàng dưới cát
Bầu trời bát ngát biếc trong mây
Quê ta phấn khởi theo lời Đảng
Cảnh sắc giờ đây đã đổi thay.

 (Thơ mời hoạ)
Bắc Ninh tha thiết, mến thương ơi
Nơi đã sinh ta thuở thiếu thời
Nhớ cũ xóm làng xanh cuối bãi
Mừng nay phường phố đỏ ven đồi
Câu ca Quan họ gieo muôn điệu
Khúc hoạ Đường thi chắp vạn lời
Nhân hội tao phùng đôi vận chúc
Tình thơ bền chặt đến muôn đời.

(Họa thơ Hồ Văn Thiện)
Thanh Hóa trong ta mãi nặng tình
Xóm thôn đồng ruộng suốt năm xanh
Ríu ran Thịnh Liệt dòng tâm sự
Xao xác Ngu Giang cánh lục bình
"Đường luật" trước sau càng ý nhị
"Bóng chiều" sáng tối vẫn phân minh
Một mai trở lại thăm Hoằng Yến
Treo mấy vần thơ trước cửa đình.

CỔ THÀNH

Quá khứ nằm sâu dưới Cổ Thành
Một vùng khảo cứu uốn vòng quanh
Hoa văn tảng cũ coi còn rõ
Nét khắc bia xưa ngó vẫn rành
Móng gạch nối nhau dăm bẩy lớp
Giếng xây chồng chận mấy mươi vành
Mới hay lịch sử còn nguyên đấu
Quá khứ nằm sâu dưới Cổ Thành

BÌNH DƯƠNG VÀO HẠ

Vừa mới qua xuân đã hạ rồi
Khắp vùng nắng nóng tựa như sôi
Đôi con máy gặt vừa mới sắm
Mấy chiếc công nông đã sửa rồi
Lúa chín rải vàng trên mặt ruộng
Ngô già nhuộm đỏ cuối chân đồi
Mùa về cứ ngỡ như vào hội
Làng xóm hân hoan nở nụ cười

 

HƯƠNG CỐM

(Tặng tác giả Hương Cốm)
Hương Cốm bay xa ngát cả chiều
Quý nhau xin chắp mấy vần yêu
Hà Trung thuở ấy mầm tươi thắm
Thiệu Hóa hôm nay trái chín nhiều
Tính thợ chỉn chu lo mọi sự
Tình thơ trọn vẹn thấu bao điều
Mới hay vàng ngọc trong bao vải
Hương Cốm bay xa ngát cả chiều

ĐẾN TUẦN CHÂU

Lại về vãng cảnh đảo Tuần Châu
Bốn phía mênh mang sóng bạc đầu
Nhà nghỉ dập dìu người bốn biển
Cửa hàng tấp nập khách năm châu
Bầu trời cao tít tình thơ mộng
Mặt biển bao la cảnh đẹp giầu
Đất nước yên bình trong độc lập
Vui thơ đặt bút viết đôi câu

NHỚ VỀ HÀ NỘI

Đã trải phong trần khắp bốn phương
Vẫn không quên nổi một con đường
Nhớ về lối cũ vầng trăng rụng
Tưởng đến vườn xưa giọt nắng vương
Bút tháp chọc trời xuyên đáy nước
Đài nghiên mở rộng tỏa hơi sương
Tình quê muôn thuở bao nồng ấm
Để lại trong lòng vạn sắc hương

VỀ VỚI BÌNH GIANG

Lại về dự hội với Bình Giang
Chúc thọ xuân vui khắp cả làng
Đường xá giao thông càng rộng rãi
Phố phường nhà cửa vẫn thênh thang
Đông thương lắm lúc chờ người đến
Đoài nhớ nhiều khi đợi bạn sang
Vui chuyện kể về nơi chốn cũ
Giờ đây quê mới đã khang trang

MONG ĐÔI CÁNH

Vừa mới nghe tin gió bấc về
Lúa xuân gặp giá chết nhiều ghê
Đầu Din mới giặm loi thoi mọc
Cuối Cửa vừa gieo lốm đốm huê
Gội gió mặt cha thường vẫn tái
Dầm mưa chân mẹ lắm khi tê
Chỉ mong ai đó cho đôi cánh
Bay vút lên trời trở lại quê

ĐỀN NGUYỄN TRÃI

Một dải đền thiêng giữa đại ngàn
Tế văn bài vị ngự trên ban
Một thiên tuyệt bút còn thơm mực
Muôn ngọn trầm hương khói tỏa lan
Bãi Đá tỏ mờ hình bóng hạc
Bàn Cờ ẩn hiện dáng thanh quan
Dẫu cho máu đỏ chan trên đất
Nước vẫn yên bình giặc đã tan

 

MỘT KHOẢNG THỜI GIAN

Thanh Hóa giờ đây đã khác rồi
Phố phường làng xóm mới tinh khôi
Cánh đồng thẳng tắp xanh màu lúa
Xưởng máy vươn cao trắng sắc vôi
Thọ Hạc cửa hàng càng tấp nập
Đình Hương phố chợ đã đông vui
Bước chân du khách như vào hội
Một khoảng thời gian mải miết trôi

TRUYỀN THỐNG ANH HÙNG

Trở lại quê Thanh buổi sớm nay
Đồng quê mới cấy lúa đan dầy 
Long Quang động cũ thơ còn đó
Hòn Ngọc núi xưa tích vẫn đây
Yên Vực quê nghèo vừa dựng lại
Hoàng Long phố lớn đã đang xây
Một thời đánh giặc gương ngời sáng
Lịch sử ngàn năm chẳng đổi thay

TRỐNG ĐỒNG

Trống đồng thuở trước xếp nơi đây
Từng lớp hoa văn nét vẫn đầy
Thoáng thấy kinh hồn quân xứ Bắc
Chợt nghe bạc tóc giặc đằng Tây
Kim quang tóa sáng bao trên mặt
Lạc việt vây quanh nối kết bầy
Chửa kịp chạm tay vào cổ vật
Âm ba xao động cả trời mây

ĐỔI NGHỀ

Lại trở về thăm đá Núi Nhồi
Nhớ từ ngày tháng đã xa xôi
Tiếng mìn phá đá đau hồn núi
Ngọn khói lò nung đắng vị vôi
Rời bỏ nghề xưa buồn mấy đận
Tìm công việc mới biết bao hồi
Nghe theo lời Đảng ươm nghề mới
Phố núi giờ đây đổi khác rồi

TRỞ LẠI HÀM RỒNG

Mấy chục năm nay mới trở về
Hàm Rồng vẫn nối giữa hai đê
Xôn xao Đông Tác tươi làng xóm
Rộn rã Hoàng Long đẹp phố quê
Đánh giặc một thời từng dũng cảm
Dựng xây mấy  thuở lắm say mê
Ước mơ từ ấy bao trăn trở
Mấy chục năm nay mới trở về

CẢM XÚC TÂY GIAI

Có bao giấy mực với từ chương
Về một Tây Giai lắm đoạn trường
Dẫu gắng vì đời nuôi nghiệp đế
Vẫn hằn di hận thoán ngôi vương
Dăng dăng muôn đá chồng lên đá
Cuồn cuộn ngàn sương đọng dưới sương
Du khách dời chân còn ngoảnh lại
Trời chiều dằng dặc mối sầu thương

XUÂN PHẢ LẠI

Heo may đã tạnh cuối trời xa
Nắng mới soi lên vạn mái nhà
Thạch Thuỷ quất vàng mời khách tới
Thành Phao đào đỏ đón người qua
Trẻ thơ hăm hở đi chơi tết  
Phụ lão thong dong đến hội già
Phả Lại sang xuân vui rộn rã
Phố xưa đổi mới chẳng ai ngờ

CHÍ LINH SÔNG ĐUỐNG

(Về Sông Đuống tháng 11/2013)
Mênh mang Thiên Đức sóng trào sôi
Muôn lớp phù sa đắp bãi bồi
Đường phố xôn xao xe trẩy ngược
Dòng sông rộn rã chuyến tầu xuôi
Miền quê thanh lịch vươn tầm mới
Muôn khúc Đường thi lại nảy chồi
Một áng thơ vui mừng chúc bạn
Chí Linh Sông Đuống mãi chung đôi

NGÃ BA DÂU

(Về Sông Đuống tháng 11/2013)
Lại về ngắm cảnh ngã ba Dâu
Sông Đuống mênh mang sóng bạc đầu
Không dễ tìm ra miền rộng hẹp
Chẳng sao dò nổi chỗ nông sâu
Phù sa bồi đắp tươi cây trái
Nước mát tưới tiêu đẹp lúa mầu
Vườn ruộng được mùa vui mở hội
Quê hương từ khó đã nên giầu

Gửi về xứ Nghệ một tình yêu
Nói ít mong ai đó hiểu nhiều
Héo dạ khêu mưa khi chợn rợn
Mặc lòng thả lửa lúc phiêu diêu
Khơi tình ngắm nụ khi mờ sáng
Cạn lý xem hoa lúc xế chiều
Có gặp được đâu mà ước hẹn
Nên đành mượn bút thả lời yêu

VẬN THƠ  BÀ CHÚA

(Nhân nghe nói về quê bà chúa)
Bà Chúa Thơ Nôm đã mất rồi
Chỉ còn cái bóng ở đây thôi
Đời trai vất vả đau bao thuở
Kiếp gái truân chuyên cực mấy hồi
Chỉ ngại người quen đòi nợ khuyêt
Lại thương kẻ lạ vướng duyên bồi
Nét quê khéo vận hòa trong cảnh
Để những miền thơ lại nảy chồi

CHO RỒI CHƯA CHO LẠI CHO RỒI

(Vận theo cách nói của người xứ Nghệ)
Thư này chắc sẽ đến Quỳnh Đôi
Chẳng biết cây khô có nảy chồi
Câu chữ họa vần chưa kết một
Mối giây tình cảm vẫn hòa đôi
Đã từng nếm trải miền hy vọng
Còn tưởng chi đâu đoạn tái hồi
Một tiếng tơ lòng vương ngó ý
Cầu mong muôn sự trọn cho rồi

TÌM DẤU NHẠN LOAN

(Nhân Huệ mùa nước mới)
Tìm dấu Nhạn Loan dưới nắng hè
Dòng sông mùa lũ nước vàng hoe
Đàn trâu gặm cỏ chen trên bãi
Lũ vịt mò tôm lặn dưới khe
Nhà cửa mới làm vôi trắng toát
Vườn cây vừa tạo quả xanh lè
Bến thuyền ngày ấy không còn nữa
Làng xóm yên bình dưới bóng tre

CÁO LỖI VỚI QUÊ HƯƠNG

(Kính tặng quê hương Nam Trực)
Bươn trải bao năm ở nơi xa             
Về hưu cáo lỗi với quê nhà
Chưa cho Đồng Quỹ chuông rền tiếng
Chửa để Nam Giang thép trổ hoa
Đất Trạng thanh liêm còn nhắc trẻ
Quê Vua uy dũng vẫn khuyên già
Làm con xứ ấy nhiều danh giá
Càng phải vươn lên mới xứng là...

XUÂN CHIỀU

Từ chiều xuân ấy mãi tơ vương
Nào có xa chi nửa dặm trường
Xóm Lác người thưa mưa thấm áo
Sông Cầu bến vắng nắng soi gương
Bao cồn cát trắng phơi ngoài bãi
Mấy dải đay xanh kín mặt đường
Làng cũ tranh tre không thấy nữa
Nhà tầng san sát dưới màn sương

CHÍ LINH MÃI NGUYÊN XANH

Một vùng đồi núi đẹp như tranh
Tụ hội bao nhiêu chuyện tốt lành
Phả Lại Lục Đầu từng nức tiếng
Côn Sơn Kiếp Bạc đã vang danh
Muôn nơi tụ hội gom công đức
Khắp xứ chia nhau sức tạo thành
Nhân kiệt địa linh chừng đã mở
Một vùng hoa cỏ mãi nguyên xanh

GIÓ THƠM VƯƠNG

Chiều xuân đi hội với người thương
Khách đến xôn xao mọi nẻo đường
Vách đá Kỳ Lân mưa thấm lạnh
Rừng thông nảy lộc gió đưa hương
Đào hồng khép nụ phơi trong nắng
Cúc tím xòe hoa đọng dưới sương
Mắt biếc lướt sang vai áo mỏng
Tóc mây chợt xổ gió thơm vương

DU XUÂN QUÝ TỴ

Mặt hồ gợn sóng tím trong sương
Cây trái xum xuê kín phố phường
Rừng vải đơm hoa soi đáy nước
Vườn na nảy nụ khắp đồi nương
Vầng mây lờ lững xanh triền núi
Bóng nắng chăng tơ tím mặt đường
Lữ khách du xuân vừa cập bến
Đào mai nở rộ ngát mùi hương

(Xuân Canh Dần)
Năm nay gặp nhuận tháng dư ra
Tết cũng thong dong chẳng vội mà
Bánh trái vừa mua đầy gác bếp
Quất đào mới sắm chật hiên nhà
Gà nuôi thóc sạch đầy chuồng đợi
Rau tưới nước trong kín bãi chờ
Thêm cháu mới sinh về quấn quít
Thảnh thơi nâng bút vịnh xuân già

LÊN YÊN SƠN

Hoạ nương vần thơ của Trần Thị Yên
Trở lại Yên Sơn viếng Phật Hoàng
Đơn sơ chỉ với một tuần nhang
Mái chùa tím nhạt trùm sương trắng
Đỉnh núi xanh mơ nhuộm nắng vàng
Rừng Đá Đường Tùng cây mọc kín
Giải Oan Cầm Thực cỏ dần quang
Bước chân du khách thêm hối hả
Trở lại Yên Sơn viếng Phật Hoàng.

ĐỢI BẠN VỊNH XUÂN
(Họa nương vần thơ Xuân Khôi)
Đợi mãi mà sao bạn chẳng sang
Chiều nay mưa tạnh nắng hoe vàng
Rượu cần đã ngấu treo trên bếp
Thịt thỏ còn tươi buộc dưới thang
Mặc khách xôn xao về ngắm chợ
Tao nhân tấp nập tới thăm làng
Thơ xuân hứa hẹn đang chờ vịnh
Đợi mãi mà sao bạn chẳng sang.

ĐÊM TRẮNG

(Hoạ thơ Nguyễn Xuân Nghiệp)
Đêm trắng như khơi vạn mối sầu
Một mình trăn trở suốt canh thâu
Chập chờn trước mặt bờ gai rậm
Thấp thỏm sau lưng lạch nước sâu
Quá khứ từng qua đầy ảo vọng
Tương lai sắp đến lắm thương đau
Tiếng chuông chùa sớm vừa vang động
Lại một ban mai sắp bắt đầu.

VUI CÙNG THI HỮU

(Họa thơ Nguyễn Văn Hội)
Tình thơ đồng điệu có xa đâu
Cảm tạ thi huynh đã bắc cầu
Dẫu chỉ đơn sơ từ bữa ấy
Mong rằng nồng đượm mãi về sau
Gửi tình Thanh Hóa trao đôi ý
Đáp nghĩa Hải Dương gửi mấy câu
Mong sớm có thơ về với bạn
Chong đèn ngồi họa suốt canh thâu

NHỚ XƯA MẸ VẪN ĂN TRẦU

Tết mẹ năm nao cũng có trầu
Bình vôi tôi sẵn cất từ lâu
Cau tươi nhà hái dăm ba quả
Rễ quạch con mua hẳn một đầu
Cối cũ quai đồng tươi sắc đỏ
Chày xưa cán thép bóng mầu nâu
Đêm nao mẹ cũng ngồi bên cửa
Đợi thuốc con đưa để thử trầu.

ĐẾN HOÀNG THÀNH

Những tán cây cao lá biếc xanh
Soi lên vàng ửng những thân cành
Đất trăm thập kỷ còn tươi mới
Nước bốn nghìn xuân vẫn ngọt lành
Mương rãnh nối nhau thông khắp ngả
Chân tường trải rộng uốn vòng quanh
Mới hay lịch sử còn lưu dấu
Bao lớp chồng lên dưới Cổ Thành

 XUÂN QUAY

Xuân vừa qua đó đã xuân quay
Miếng vá thời gian nối những ngày
Nửa sáng nửa chiều qua nửa tối
Chén nưng chén vực chén hằng say
Danh chờ danh đợi danh không tới
Phận đến phận đi phận chẳng may
Mỗi cuộc trần ai muôn gánh nợ
Xuân vừa qua đó đã xuân quay

HỎI CHUYỆN CHÙA HƯƠNG

Bến Đục bây giờ có đục không
Hay là nước cũ đã thành trong
Thuyền chờ đón khách chen dăm lượt
Khách đợi du xuân chặn mấy vòng
Vãng cảnh ngày nào còn vất vả
Thăm chùa nay cũng đã thong dong
Người làng tìm đạo giờ sao vắng
Chỉ khách đường xa đến rõ đông

VỀ VỚI CHỢ VIỀNG

Qua tết về quê xuống chợ Viềng
Vui xuân cầu lộc chẳng cần kiêng
Cháu đòi kiếm hộ đôi con sáo
Vợ dặn tìm cho một cái kiềng
Mê ngắm đào hoa rơi nhẵn túi
Thèm say rượu cẩm đổ lăn chiêng
Cả năm mới có ngày thư giãn
Cũng phải khao mình tí cái riêng

NHẮC LỜI HẸN CŨ

Ngư­ời về Phả Lại với ta chăng
Lầu gác giờ đây kín mặt bằng
Chợ đến Thành Phao hoa chặt lối
Phố về Thạch Thuỷ điện che trăng
Đồi xư­a đá sỏi xanh toàn vải
Làng cũ tranh tre đỏ những tầng
Lời hẹn năm nào ai có nhớ
Ng­ười về Phả Lại với ta chăng.

SÓNG LỤC ĐẦU

Một dải mênh mông sóng Lục Đầu
Sáu dòng trong đục chảy vào nhau
Lênh đênh dưới bến dăm thuyền cá
Thấp thoáng trên sông một nhịp cầu
Thuỷ trận năm xưa không thấy nữa
Chiến thuyền thuở ấy cất về đâu
Mấy ai biết được ngàn năm trước
Máu giặc loang trên sóng đỏ ngầu

CHUYỆN CÙNG HÒN NẸ

(Họa thơ Nguyễn Thị Nam TĐĐV)
Hòn Nẹ từ xưa vẫn ở đây
Hoàng hôn nhuộm đỏ hắt lên mây
Tiền tiêu giữ biển từng xung trận
Điểm tựa canh trời đã dựng xây
Chiến hạm rình mò trôi mất xác
Tầu bay cắn trộm vỡ tan thây
Đất liền biển đảo luôn chờ sẵn
Giặc cướp xông vào quét sạch ngay

ĐỌC “NỬA VẦNG TRĂNG”

(Họa thơ Nguyễn Thị Nam TĐĐV)
Hoàng hôn nhuộm đỏ cuối trời xa
Ai đó gửi thư kể chuyện già
Sáng sáng hẹn hò cùng cổ luật
Chiều chiều tình tự với cầm ca
Gắng công nén lại quên mây gió
Rán sức co về trốn nguyệt hoa
Mỗi đọc một đau đời thiếu phụ
Chỉ mong có dịp đến thăm nhà

HỨNG DỪA

(Nhân xem tranh Hứng dừa)
Chợ tết năm nay rõ lắm tranh
Cổ dừa trĩu quả quấn vòng quanh
Trái tơ anh hái vừa mới rụng
Váy cũ em giăng chắc vẫn lành
Ngửa mặt nhìn trời trời đã đỏ
Cúi đầu ngắm đất đất càng xanh
Kìa ai vui thú trên khuôn gỗ
Còn mãi ngàn năm một bức tranh

THƠ XANH

Vườn cũ sương mờ khách vắng tanh
Trăng vàng phủ kín những thân cành
Đôi ba tiếng vạc kêu sầu muộn
Dăm bảy giọng trùng réo quẩn quanh
Kẻ đã thênh thang nơi gác tía
Người còn lận đận chốn lều tranh
Giọt sương nhè nhẹ rơi trên lá
Thơ viết ngàn trang tứ vẫn xanh

CHIỀU QUÊ

Ruộng mới bừa xong đất mịn màng
Đồng chiều xa tắp rộng mênh mang
Chòm mây lơ lửng buông rèm trắng
Vạt nắng lung linh rải nhiễu vàng
Lốm đốm áo hoa chen lối dọc
Rập rờn nón lá xếp hàng ngang
Chiều quê bình lặng như muôn thuở
Bất chợt trong ta cứ ngỡ ngàng

CỐ NHÂN

Còn đó bên trời tiếng sáo ngân
Đầm sen hoa trắng nở trong ngần
Sáng neo thuyền đợi mong nhìn trộm
Đêm thức chờ trăng muốn đứng gần
Mấy độ chia tay không ước hẹn
Bao lần gặp mặt chẳng cầu thân
Nào ai biết được lòng ai đó
Đành nhẽ đau buồn gọi cố nhân

CÓ CÒN AI ĐÓ NHỚ TA

Gió chiều xô dạt lá sầu đông
Người cũ hình như đã lấy chồng
Bốn góc mái đình dường trĩu nặng
Một vành giếng đất cũng mênh mông
Nắng vàng ai rải đầy trên bãi
Mây trắng ai phơi kín cả đồng
Cúc dại trổ hoa bên cánh cổng
Có còn ai đó nhớ ta không

CHỢ BÊN SÔNG
Chợ làng vẫn họp ở bên sông
Tia nắng ban mai rực ánh hồng
Kẻ đến xôn xao dồn xuống bắc
Người về hối hả kéo sang đông
Khách mua hỏi giá say sưa ngắm
Chủ bán hả hê dõi mắt trông
Cả chợ tưng bừng như mở hội
Chợ làng vẫn họp ở bên sông

NHỚ HUẾ
Phố Cổ chiều thu khói nhẹ vương
Nhớ sao một thuở Huế yêu thương
Hào ngăn chiến hạm giăng ngang bến
Chốt chặn xe tăng dựng dọc đường
Thành Nội tưng bừng hoa giữa nắng 
Tràng Tiền nhộn nhịp khách trong sương
Gặp nhau có nhớ đêm truy kích
Cờ đỏ tung bay kín quảng trường

QUA CHỢ THÀNH PHAO
Rảnh việc đi thăm chợ ngắm hàng
Cổng vào rải nhựa rộng thênh thang
Vừa qua quán trước coi quỳ tím
Lại đến quầy sau ngắm cúc vàng
Tôm cá muối dưa đầy lối dọc
Áo quần dày dép kín đường ngang
Bao giờ nâng cấp lên thành phố
Siêu thị bung ra khắp cả làng



[1] Nam, Bắc Chi Lăng Tùng, Giang đơn vị  Anh hïng
[2] Vùng quê gốc của Quan họ Bắc Ninh
[3] Nơi hàng năm có hội chạy ró