Tổng số lượt xem trang

21/09/2014

VIẾT VỀ CHÍ LINH BÁT CỔ

QUA BẾN NHẠN LOAN
(Nhớ về tướng quân Trần Khánh Dư)

Tiểu mãn đang về trắng cả sông
Nhạn Loan Cổ Độ rộng mênh mông
Bác tiều xếp gánh chờ lên bắc
Chú lái thu chèo đợi xuống đông
Nắng muộn vẫn vương trên bãi sậy
Sương chiều đã phủ mé đồi thông
Thuyền than ẩn hiện vừa đi khuất
Để lại đôi bờ nước trống không

HUYỀN THIÊN CỔ TỰ

Đến cửa Huyền Thiên nắng đã nhòa
Khói trầm ngào ngạt tỏa bay xa
Nền xưa nắng đốt phơi son đỏ
Đường mới mưa chan nổi đá già
Ngọc Đế mở đường nơi Cảnh Giới
Phật Hoàng dẫn lối chốn Ta Bà
Câu kinh nhật tụng vừa vang vọng
Ngàn ánh sao bay trắng Nguyệt Hà.


TÌM DẤU THÀNH PHAO

Vài đống gạch non xếp chẳng đầy
Thành Phao còn lại bấy nhiêu đây
Minh Hồ mấy bận tan bờ bãi
Lê Mạc từng phen nát cỏ cây
Sườn núi quanh co làn khói phủ 
Triền sông mờ mịt đám sương dầy
Cánh đồng làng Ngọc đang vào vụ
Rộn rã âm vang tiếng máy cầy

03/09/2014

THƠ THÁNG CHÍN

TÌM THƠ

Ta đã đi tìm, từ ấy chưa thôi
Mùa chim én bay hoài trong nắng
Từng qua hết bao mùa xa vắng
Tưởng bao lần rời rã để buông xuôi.

Ta vẫn đi tìm, từ bấy chưa nguôi
Mùa xuân mới qua từ lâu lắm
Mà chưa thấy đâu làn hơi ấm
Nắng trưa nghèo, vài sợi chăng tơ

Đã quen rồi mà sao vẫn bơ vơ
Tình trăng gió lấp đầy trên mặt giấy
Tình sông núi, tình em tìm không thấy
Để thơ buồn, buồn mãi những ban mai.

Ta đã yêu, muôn dặm hồn ai
Nghe trong đất, mùa khô ngàn cơn khát
Nghe trong gió, chiều hoang niềm xe xắt
Tiếng ru hoài man mác giữa cô liêu.

Ôi câu thơ, bao giằng xé trong yêu
Một hạt bụi, một tia trời rực rỡ
Như ta đó bao vết hằn rạn vỡ
Giữa muôn ngàn tia chói cuối chiều xa.

THÁNG CHÍN

Tháng chín này cả ba bố con chung
Ngày sinh nhật nối gần đôi con số
Hai cô bé cứ ở bên cạnh bố
Bánh kem mềm chan mật tiếng cười con
Bố luôn nghèo chẳng có thứ gì ngon
Một chút lương hưu chẳng bưa đôi bữa rượu
Nên quần áo cũng chẳng mơ hàng hiệu
Cứ chợ giời là đủ kín tay chân
Bố luôn nghèo bởi ít những người thân
Lại chẳng thể cận kề trong gặp gỡ
Đường xa quá vé tàu không đủ chỗ
Một chút quà gặp mặt lại càng khem.
Bố luôn nghèo vì thưa vắng anh em
Cha mẹ đói, để lạc từ khi trước
Vì như thế nên cứ thầm mơ ước
Cháu con nhiều cho vợi bớt cô đơn.
Có một điều muốn dặn các con hơn
Dù vất vả vẫn giữ lòng trong sạch
Làm thân gái quyết giữ gìn trinh bạch
Để gia đình luôn trong ấm ngoài êm
Còn một điều, bố muốn dặn thêm
Sự nghiệp gia đình mới là đáng kể
Phải chăm chút từ khi còn trẻ            
Để mai ngày gia cảnh tốt hơn lên…
Tháng chín rồi, các con nhớ hay quên
Mừng sinh nhật, hãy vui lên cùng bố.



MÙA THU

Hình như là tiếng mùa thu
Từ ngày hôm ấy mịt mù gió sương
Ngỡ là đứt mối tơ vương
Lại về lặng lẽ đánh đường tìm nhau
Lại về xới lại cơn đau
Làm cho khô héo cả cau, lẫn trầu
Đã tan, từ lúc ban đầu
Khơi làm chi nữa nỗi sầu mùa thu
Hình như vẳng tiếng ai ru
Chuyện tình năm ấy cho dù đã xa
Trái tim dường vẫn chưa già
Cứ luôn thổn thức để mà nhớ thương
Người đi xa mấy đoạn trường
Sao còn vương vấn đón đường tìm ta
Để rồi tình mãi không xa
Tiếng mùa thu lại bay qua gợi buồn.

UỐNG RƯỢU KHÔNG SAY

Chỉ mong uống để cho say
Xóa đi tất cả đắng cay trong lòng
Chén đời ai cứ xoay vòng
Trút bao quên nhớ vào trong chén này
Buồn vui bao tháng bao ngày
Theo mây theo gió mà bay lên trời
Thương ta bao chén chào mời
Uống bao nhiêu thế mà rồi chẳng say

BÀI THƠ VỀ MẸ
(Tặng các bà mẹ có con là liệt sĩ)

Khi tôi ra mặt trận mẹ không dám khóc
Sợ con buồn rồi mẹ lại buồn thêm
Mẹ khẽ vén lại tấm khăn buộc tóc
Có ai ngờ trắng hết chỉ một đêm

Mẹ dặn dò, rồi lại dặn dò thêm
Việc non nước với con là nghĩa vụ
Dù gian khó phải kiên gan bám trụ
Đánh quân thù cả nước đã không lui…

Hãy thương ta để cho mẹ ta vui
Bởi của mẹ cái gì cũng quý
Và hãy giữ, dù chỉ là một tý
Chút thịt xương mẹ gửi gấm vào ta

Đừng bao giờ tùy tiện xa hoa
Thịt xương mẹ mà ta đang giữ
Chín tháng hoài thai, một ngày ở cữ
Mẹ vui cùng con, mẹ sống cùng con

Ta biết ta còn nợ với nước non
Không thể vì mình, cân đong nặng nhẹ
Và như thế nỗi buồn của mẹ
Đã bao lần, các con đã từng quên

Ngày trở về da thịt chẳng còn nguyên
Mẹ chợt khóc, nắn sờ từng chỗ một
Trên gò má, nước mắt lăn từng giọt
Bao anh em trong xóm đã không về…

Khi con đi cũng chỉ một lời thề
Hiến xương máu để mong ngày độc lập
Coi cái chết sẽ vô cùng cao đẹp
Tặng cho đời bằng chính sự hy sinh

Con trở về, lòng vẫn đinh ninh
Xương thịt, tâm hồn đã dành cho đất nước
Ngày mai tới chẳng thể nào dừng bước
Mẹ có buồn … khi con mẹ đã hy sinh !





02/09/2014

THƠ ĐIỆN

THƠ ĐIỆN

Thơ điện nói gì cũng điện
Như đời ta điện mãi kề bên
Mùa đông rét bếp hồng hơi ấm
Lúc sang hè vòng quạt suốt ngày đêm
Mỗi cuộc đời đâu có dễ quên
Đĩa đầu thắp lờ mờ gác nhỏ
Giờ như giữa thiên hà trăng tỏ
Chính là ta xoay lưới điện soi vào


THƠ MÁY MÓC

Chớ bảo khô khan khó tỏ lời
Tình thơ máy móc chẳng hề vơi
Dù khi bụi khói vương đôi chỗ
Lại lúc than dầu đọng mấy nơi
Tường thép nóng ran cơn nắng dãi
Mái tôn lạnh ngắt trận mưa rơi
Mấy ai hiểu được bên trong đó
Đêm trắng canh tàn chẳng nghỉ ngơi.


07/07/2014

ĐỜI THƯỜNG 2

                      4

          Đám cưới của Hằng và Thơ được tổ chức theo đời sống mới đúng như lời dặn của ông bố. Phía nhà trai có anh cả vào đại diện, bên nhà gái thì có một ông bác họ và cậu em trai của Thơ ra dự lễ. Cứ tưởng tổ chức cưới theo đời sống mới như thế thì đơn giản, nhưng thực tế lại chẳng đơn giản chút nào. Đâu là lo tổ chức lễ cưới ở cơ quan của Hằng, báo hỷ ở cơ quan của Thơ, rồi còn phải về quê báo cáo với làng xóm họ hàng nữa chứ, thành ra đám cưới phải mất bốn lần tổ chức. Cứ mỗi lần nghĩ đến ngày cưới trong lòng lại vừa vui, vừa buồn không sao tả nổi.
Không biết có phải do tình yêu hay do cái gì khác nữa mà hai con người ấy cứ lặng lẽ cùng nhau lo toan, cùng nhau cố gắng làm mọi việc mà chẳng một lời phàn nàn, cho dù có bao nhiêu sự khó khăn, cản trở tưởng như không vượt qua được. Để chuẩn bị cho cái tổ ấm bé nhỏ của mình, cả hai ngưòi đều đã xoay như chong chóng với bao nhiêu công việc. Lúc thì nhờ cậy bạn bè cố mua lấy một cái ruột chăn bông tiết kiệm, lúc thì gom phiếu để sắm lấy cái vỏ chăn, cho dù chỉ là mấy mét vải xanh chéo xù lông ngoài cửa hàng tổng hợp. Khó khăn nhất là việc phải báo cáo công đoàn giúp cho vài chục gói chè hạng bét và vài chục bao thuốc lá cũng chẳng lấy gì làm ngon lắm, rồi thì xuống chợ mua từng quả trứng, để dành ít cân bột mỳ, tiết kiệm mấy tháng đường tiêu chuẩn thuê làm hơn chục cân bánh Bích quy để chia cho trẻ nhỏ trong cơ quan lúc tổ chức cưới, bởi chú rể còn là cán bộ đoàn kiêm phụ trách các cháu thiếu nhi trong đơn vị.
Nói về hoàn cảnh của đôi trai gái này thì còn nhiều chuyện khá là khác người hơn nữa. Đã sắp thành một gia đình rồi mà họ chưa có một chỗ nào để mà nương thân trong một vài ngày để mà xếp đặt, để mà sắm sửa. Của cải, tài sản thì mỗi anh chị một ba lô, một túi. Cái xe đạp để lo chạy việc cưới xin, Hằng cũng phải mượn của anh cả. Ngay cả quần áo cưới Hằng và Thơ cũng không có tiền, không có tem phiếu vải để mà may. Giường cưới là giường cá nhân của Hằng do tập thể cấp, buồng cưới thì chính là phòng ở của khu tập thể mà các bạn phải đi ngủ nhờ phòng khác để nhường cho. Bữa cơm tổ chức ở nhà gái cho dù chỉ có vài mâm người nhà, bữa cơm thân mật ở cơ quan cũng chỉ mời được mấy người trong tổ của Hằng và người nhà của hai bên vào dự cưới, nhưng cũng đâu có dễ dàng gì khi cả hai người đều chưa có một đồng xu tích luỹ nào trong túi. Có điều may mắn là Hằng và Thơ có được một bức ảnh đen trắng chụp chung làm kỷ niệm trước ngày cưới mấy hôm.
Nói đến viêc tổ chức buổi lễ cưới của họ lại càng có nhiều chuyện khá lộn xộn đáng để mà nhớ mãi. Trước tiên là sự nhiệt thành của mấy anh bạn cùng khoá trong việc chuẩn bị khu nhà ăn tập thể làm phòng cưới sớm quá làm cho sáu, bảy chục người cứ phải mang cơm ra ăn ở ngoài bãi cỏ. Đến việc trang trí thì đi mượn mãi mới được cái lọ đựng hoa tốt tốt một tý,  chả hiểu thế nào các cậu ấy lại để rơi vỡ mất. Cứ ngỡ rằng đám cưới của hai người sẽ có thêm tiết mục ca hát nhờ cái đài băng kèm theo cả bộ micro của một người bạn đi Nga về để cho các đại biểu nói cho to, cho lịch sự, nào ngờ nó cũng bị vướng vào khăn, màn gì đó rồi rơi xuống nền gạch không sử dụng được nữa. Tất nhiên là lúc tổ chức xong cả nửa tháng sau Hằng nghe lén mới biết rõ sự tình chứ lúc cưới thì cả Hằng và Thơ đều không ai biết.
Những người bạn thân thiết của Hằng không biết đã bàn bạc với nhau thế nào mà họ đã giấu quá kín tất cả mọi sự, họ muốn tự giải quyết mọi việc mà không muốn cho Hằng và Thơ buồn. Có điều những sự đổ vỡ ấy đã làm hỏng đi những đồ vật quá tốt, quá hiếm làm cho chủ nhân của những món đồ ấy quá thiệt thòi. Thực ra nếu các bạn có nói cho Hằng biết thì Hằng cũng chả biết kiếm đâu ra những đồ dùng quý hiếm cả ngàn người mới có một cái ấy để mà trả lại.

                                      5 

          Cuộc sống gia đình của đôi vợ chồng trẻ hầu như chưa khi nào ổn định vì Thơ luôn phải theo tổ sản xuất của mình đi hết nơi này đến nơi khác. Chỉ trong sáu tháng thôi mà Thơ đã phải đi đến ba cơ sở. Chưa kịp hoàn thành việc lắp điện cho trụ sở huyện Hoằng Hoá đã phải về lắp điện cho Xí nghiệp Động Lực, mới xong nửa công trình ở Xí nghiệp Động Lực đã lại lắp điện cho Nhà máy cơ khí của tỉnh. Công việc của những đơn vị xây lắp vốn dĩ vẫn là vậy. Phần nhiều công nhân của họ đều ở các công trường, thoảng hoặc lắm mới về trụ sở của xí nghiệp ở Nhồi họp hành độ nửa buổi rồi lại ra đi.
Cũng may là các công trường chỉ loanh quanh khu vực thị xã nên vợ chồng Thơ có thể ở cùng nhau, cho dù nơi ở của hai người chỉ là mấy mét vuông lợp tranh nứa và thưng bằng những tấm cót mỏng dính mà xí nghiệp làm tạm thời bằng kinh phí lán trại. Với điều kiện như thế nên tất cả các gia đình kể cả những người đã cưới nhau đến hơn mười năm cũng chẳng sắm sửa được thứ gì, ngoài mấy cái túi du lịch bằng vải bạt hoặc cái rương con bằng gỗ bán ngoài chợ mỏng tang sơn đỏ loe, đỏ loét để đựng mươi bộ quần áo và các đồ lặt vặt. Tuy đơn sơ vậy nhưng chẳng ai cảm thấy phiền lòng vì mọi người ai cũng như vậy cả.
          Từ đầu tuần Hằng được nghỉ bù mấy ngày sau gần một tháng đại tu lò máy. Hai hôm trước Hằng đi lang thang các nơi quanh thị xã tìm mua vài ba thứ phụ tùng còn thiếu lắp ráp cho xong cái xe đạp. Chiếc xe mượn của anh cả để lo chạy công việc cưới cũng đã đến lúc phải đem trả vì thời gian cũng đã quá lâu. Cho dù anh cả bảo cứ để dùng bao giờ trả cũng được, nhưng Hằng cũng chẳng yên tâm vì anh biết chị dâu và các cháu ở nhà cũng cần cho công việc sản xuất hàng ngày.
Sớm nay anh tranh thủ ra phân xưởng để nhờ gia công vài thứ phụ tùng không thấy bán ở ngoài chợ. Còn đang mải mê cưa cắt, gò uốn ở bàn cơ khí thì nghe tiếng Đại gọi ở ngoài cổng gọi vào. Mặc dù đã Nghe thấy tiếng Đại gọi hối hả nhưng Hằng cũng chỉ ngước nhìn lên rồi lại cúi xuống, cứ thế anh nói ngược trở ra :
- Có gì cứ nói đi, tớ đang dở tay một tý, với lại tay tớ bẩn lắm.
- Cứ bỏ đấy đã, việc này quan trọng lắm không phán bừa ra được.
Nghe vậy Hằng miễn cưỡng để mọi thứ xuống mặt bàn nguội rồi lững thững đi ra. Vừa đi Hằng vừa nhìn vào mặt Đại, anh ngạc nhiên khi thấy hình như hôm nay Đại khác hẳn mọi ngày.
- Có gì mà phải bí mật thế ?
- Thì cứ đến tận nơi đã.
- Lại sự cố ở đâu đó cần phải đi làm chứ gì ?
Đại không trả lời câu hỏi của Hằng mà ghé sát vào tai Hằng để nói :
- Tao vừa mới ở trên nhà máy về... Lần này nhà máy được cung cấp ba cái xe đạp, tao đã đề xuất phân cho mày một cái, về chuẩn bị tiền đi, mai lên trên ấy lấy giấy để đi mua.
- Thế sao không mang về ngay lại để ở trên ấy làm gì ?
- Mang cũng được nhưng ngại người ta lại bảo cảm tình bạn bè, không khách quan... Mà này, cũng đừng nói cho ai biết đấy nhé. Có đến hàng trăm người thừa tiêu chuẩn hơn cả mày, họ mà thắc mắc là dễ hỏng đấy. Tao phải viện cớ lúc mày đi bộ đội mày đã nhường tiêu chuẩn lại, giờ chỉ là cấp bù tiêu chuẩn thế là họ mới xuôi cho đấy.
Không được phân xe dĩ nhiên là rất khó khăn rồi, vì mua xe ngoài thì quá đắt và còn phiền hà hơn là việc  làm giấy, làm tờ để đăng ký. Nhưng mà được phân xe thì một lúc không biết lấy tiền đâu cho đủ để mà mua. Lương tháng của cả hai vợ chồng Hằng cũng không nhiều lắm, nhất là việc đi lại lưu động nên chả dư rãi gì. Thế rồi hai vợ chồng vay mỗi chỗ một ít cũng được ba trăm đồng bạc để đi lấy xe.
Cũng may cửa hàng kim khí hoá chất chuyên bán xe cung cấp ngày trước sơ tán lên vùng chợ Dủn thuộc huyện Đông Sơn nay đã về trung tâm thị xã nên chưa  đến nửa giờ Hằng đã mua được xe mang về. Nhìn cái xe đạp mới thật thích mắt, đâu là đôi vành mạ kền sáng bóng, màu sơn xanh biếc cùng với hàng chữ Thống Nhất viết hoa trên gióng khung sao mà nét đến thế. Có một điều rất đặc biệt mà lúc đó Hằng chưa biết  là chiếc xe Hằng được cung cấp cũng là đợt cung cấp cuối cùng của nhà nước cho công nhân, viên chức. Từ đó về sau chế độ bán xe đạp cung cấp đã hoàn toàn bị xoá bỏ để chuyển sang chế độ bán giá cao đồng loạt, tuy nhiên vấn đề đăng ký và gắn biển số thì vẫn được duy trì nhiều năm về sau nữa.
Phải mất hơn một tuần Hằng mới sửa chữa xong  chiếc xe mượn của anh cả. Anh cũng mong muốn trả xe sớm cho các cháu lấy xe đi lại. Số phụ tùng mua để lắp chiếc cho chiếc khung miền Nam mà Hằng mua lại của cậu Núi đều dồn vào chữa xe của anh cả nên phải hơn tháng sau anh mới lắp xong chiếc xe miền Nam để cho Thơ đi lại. Nói là lắp xe cho Thơ đi lại nhưng cô ấy lại cũng chả đi lại được nữa vì cũng chỉ độ non nửa tháng nữa là Thơ phải về nhà nghỉ đẻ.

                                                             CON GÁI

                                                                      1

          Thơ về nhà ông bà ngoại nghỉ đẻ đã hơn một tuần mà vẫn chưa có tin tức gì làm cho Hằng rất sốt ruột. Công việc sửa chữa của tổ lớp này lại cũng khá nhiều nên dẫu có đến hàng chục công thêm giờ mà Hằng cũng không thể về được. Thực ra thì Hằng có về hay không cũng chỉ là thăm nom cho có tình cảm để Thơ khỏi tủi thân thế thôi chứ Hằng cũng có giúp được gì. Những thứ cần cho sinh nở cô ấy cũng đã được bà mẹ và cả bà cố bảo ban sắm sửa từ trước. Quần áo sơ sinh và tã lót thì cô ấy cũng đã may được một ít. Nghĩ cho cùng thì tất cả trăm ngàn vạn mớ đều do người đàn bà tự lo lấy hết. Mấy ông chồng vô tích sự nào có giúp được gì, ấy thế mà đứa con sinh ra lại mang họ của những ông bố và rồi ngàn vạn năm sau người ta vẫn cứ cho thế là đúng. Thật đáng phẫn uất thay cho những người phụ nữ trên cái lục địa này.
          Gần hai giờ chiều ngày mười sáu tháng chín thì Hằng mới về đến nhà bố mẹ vợ. Cụ cố bà vừa thấy thoáng bóng ngoài ngõ đã ra đón Hằng vào nhà. Vừa đi cụ vừa kể lể về cái nết ăn, nết ngủ của đứa bé. Rồi thì chuyện cháu gái cụ đẻ dễ, đẻ lành. Cuối cùng thì cụ bảo mọi sự đều tốt đẹp cả.
          Hằng vào đến trong nhà thì đã thấy cả nhà cũng đang quây quần trong gian nhà bên trái. Hình như mọi người muốn cho hai mẹ con Thơ ngủ thêm nên rất ít nói. Anh chào mẹ vợ và các em rồi đến bên giường của hai mẹ con Thơ. Mặc dù trong nhà hơi tối nhưng anh vẫn thấy mặt Thơ có vẻ còn hồng hơn cả mọi khi. Nhất là đứa bé nằm bên cạnh thì cả mặt mũi tay chân lại còn đỏ hơn cả mẹ nó. Hai mẹ con đều cùng đang ngủ im lặng, chẳng hay biết gì. Hình như họ đang ngủ rất say khác hẳn mọi khi. Bà mẹ vợ và cụ cố cũng đã nhận ra sự phân vân trên khuôn mặt của Hằng. Cuối cùng thì bà cố cũng dè dặt nói cho Hằng biết :
          - Cháu cứ yên tâm đừng đánh thức mẹ con nó. Chúng nó ngủ hơi lâu vì bà cho con mẹ nó uống một tý thuốc phiện để cho nó mau sạch sẽ. Cái tang này bà cũng được các cụ ngày trước bảo cho biết, bà và mẹ cháu đã dùng nhiều lần, không có gì ngại đâu.
          - Vâng ạ ! Cháu cũng đã nghe nói, nhưng không biết mẹ con cô ấy có ngủ lâu nữa không ạ ?
          - Giờ đến chiều là tỉnh hết thôi cháu ạ.
          Hằng vén lại chăn cho vợ con rồi quay ra sân mang túi bánh kẹo vào nhà đưa cho mẹ vợ để chia cho các em rồi nói chuyện với hai bà phụ nữ. Câu chuyện cũng chỉ xoay quanh chuyện đẻ, chuyện nuôi con sau này mà các cụ muốn sang tai cho cái người lần đầu làm bố. Chuyện được một lúc thì thấy bà mẹ vợ nhắc đến việc đặt tên cho đứa bé, bà bảo Hằng :
          - Bố mày xem đặt cho con bé một cái tên để cho bệnh xá người ta làm chứng sinh.
Nghĩ ngợi một lúc Hằng lại đùn đẩy việc đặt tên con cho mẹ vợ :
          - Con nghĩ mãi cũng chẳng biết đặt là gì, hay là mẹ đặt tên cháu hộ.
          - Đứa đầu thì bố nó cứ đặt đi để tránh lẫn tên với các cụ ngoài ấy.
          Hằng nghĩ mãi mà chả biết nên đặt tên con là gì. Có lẽ đến gần nửa giờ đồng hồ anh vẫn im như thóc cân nhắc hết tên này lại sang tên khác mà vẫn chưa xong. Lúc thì anh định đặt tên là Loan, là Phượng  nhưng anh thấy có nhiều cô Loan, cô Phượng tính tình không mấy chín chắn. Lúc thì anh lại định đặt tên là Lan, là Huệ thì lại vướng tên mấy bà gì vợ. Thế rồi anh lại lướt qua hàng loạt tên của bạn bè nhưng rồi lại vẫn cứ phân vân. Bất chợt anh nhớ về những năm vẫn còn đi học với bao nhiêu con người nhiều thân thương và nhiều kỷ niệm. Anh nghĩ đến các thầy cô giáo đã dạy anh trong những ngày tháng đó. Đâu là thầy Chuyên, thầy Đàm, Thầy Kim, rồi cô Anh, cô Sâm, cô Bảo, cô Yên và còn rất nhiều các thầy, các cô khác nữa. Trong đó có lẽ cô Yên là người gần gũi nhiều với Hằng. Cô là chủ nhiệm lớp của anh suốt ba năm học cấp hai ngày ấy.
          Trong một thoáng suy nghĩ ngắn ngủi anh chợt loé lên quyết định lấy tên cô Yên để đặt tên cho con gái. Anh không biết nếu cô Yên biết anh lấy tên của cô để đặt tên cho con của mình thì cô có bằng lòng hay không? Nhưng anh biết cô rất hiền và yêu học trò, còn việc anh lấy tên cô đặt cho con gái thì việc ấy hoàn toàn xuất phát từ lòng yêu quý của anh đối với cô nên anh chẳng thấy có gì đáng ngại. Nghĩ vậy anh liền quay sang nói với bà mẹ vợ về cái tên anh đặt cho con và hình như bà mẹ vợ cũng có vẻ thích cái tên này thì phải và thế là anh quyết định đặt tên con gái là Yên. Từ đây cô bé sẽ mang cái tên ấy để mà sống, mà lớn lên, mà trưởng thành. Cô bé có theo công việc của người ấy hay không? Cô bé có làm được điều gì tốt đẹp hay không với cái tên bình dị và thân mật ấy để xứng với những điều mà người cha của cô bé hằng mong mỏi!
Cũng chỉ loáng một cái đã hết hai tháng nghỉ đẻ theo tiêu chuẩn và một tháng xin được nghỉ không lương. Hai vợ chồng Hằng đành phải rời gia đình bên ngoại để đưa con ra cơ quan cho Thơ đi làm. Cũng không biết người ta dựa trên cơ sở nào mà đặt ra chế độ nghỉ đẻ chỉ ngắn ngủi như vậy. Nếu chấp hành thật đúng thì người phụ nữ phải nghỉ trước khi đẻ một tháng và nghỉ sau khi đẻ một tháng. Đã có một vài ông chính sách của cơ quan đã máy móc tuyên bố rằng nếu các bà, các cô không nghỉ trước đúng như thế thì chỉ cho nghỉ sau khi đẻ một tháng còn số ngày trước đó phải bị cắt tiêu chuẩn. Những ông chính sách này muốn những người đàn bà kia phải thực hiện chính sác như thế mới đảm bảo sức khoẻ cho người nhà nước. Lập luận của họ nghe ra rất thấu tình đạt lý, rõ ràng đây là sự quan tâm rất rất bản chất và rất rất hợp lẽ. Họ đâu có ngờ rằng họ đã làm khó cho bao nhiêu đồng loại. Với một tháng nghỉ sau khi đẻ thì các cháu sơ sinh quả là còn rất yếu và người mẹ cũng chưa kịp hồi phục sau lần vượt cạn với bao sự nguy hiểm kề cận bên mình. Thôi thì mọi người công nhân nhà nước đều thế cả nên cũng chẳng có ai dám bắt bẻ các nhà làm luật. Nhưng dù sao thì cũng thật đáng thương cho những đứa trẻ phải xa mẹ, phải nhịn sữa trong mấy giờ đồng hồ liền. Cứ nhìn chúng khóc ngằn ngặt trong mấy ngày đầu đi trẻ mà chảy nước mắt.
Cũng may là cái bé con của vợ chồng Hằng hay ăn, chóng lớn và lại rất ngoan nên phần nào cũng thấy đỡ sót ruột. Tuy vậy cứ mỗi lần mẹ về cho bú giữa giờ thấy nó bập ngay vào vú mẹ cố mút lấy, mút để mà thương. Cũng vì con bé không hay quấy khóc nên nhiều khi các cô bảo mẫu cũng quên để ý đến nó. Có lần nó đi ngoài ra nôi mà các cô cũng không biết, đến khi mẹ về thấy phân vàng dính cả vào má, vào mặt. Đành rằng lúc ấy cũng giận các cô bảo mẫu nhưng rồi nghĩ đi, nghĩ lại thấy chỉ có vài cô mà trông đến mấy chục trẻ nên cũng đành bỏ qua cho họ.
Không biết kinh nghiệm của bà ngoại và cụ cố đến đâu mà thấy họ bắt Thơ phải kiêng khem đủ thứ. Nào là không được sờ tay vào nước trong suốt ba tháng ở nhà. Nếu có làm sạch cơ thể thì cũng chỉ được dùng khăn cho vào nước nóng có pha muối để lau là chính. Cái ăn, cái uống hàng ngày họ còn bắt Thơ phải kiêng cữ kỹ hơn. Họ chỉ cho Thơ ăn khô mà không được ăn canh. Các loại cá từ cá đồng đến cá biển thì đều phải nướng kỹ lên rồi mới đem kho mặn mà ăn. Việc kiêng cữ như vậy cũng làm cho Thơ quen dần, nên khi ra đến cơ quan cô vẫn giữ nguyên cách ăn uống, tắm rửa kiêng khem như vậy.

                             2 

          Từ sau khi từ chối làm việc ở phòng tổ chức nhà máy, Hằng lại trở về làm việc ở tổ sửa chữa máy của phân xưởng Cơ điện. Mặc dù anh không có chức trách gì trong công tác quản lý nhưng anh lại được tất cả mọi người từ  cũ đến mới, từ già đến trẻ luôn yêu mến và nể phục. Cái nể phục của mọi người còn lan sang các tổ khác trong phân xưởng vì anh rất nhiệt tình với công việc, hết ngày này sang ngày khác mà không hề so đo hơn thiệt, khôn dại với cả tập thể và với tất cả mọi người. Còn một điều mà họ quý anh ở chỗ anh làm đến cùng mọi công việc mà không chịu thua bất cứ một khó khăn nào.
Sự sáng tạo trong công việc của anh giúp cho công việc nhẹ nhàng đi và rút ngắn về thời gian nên nhiều người rất thích cùng anh làm chung trong một nhóm. Số sáng kiến được mọi người biết đến thực sự có hiệu quả về kinh tế và đặc biệt là khắc phục được tình trạng không có thiết bị, vật liệu thay thế trong lúc bấy giờ. Những năm ấy anh luôn phải lên diễn đàn hội nghị để trình bày những công việc của mình và của đơn vị. Từ Hội nghị sáng kiến của tỉnh Thanh Hoá, đến hội nghị sáng kiến của Công ty điện lực Miền Bắc tổ chức ở Hải Phòng, ở Hà Nội hầu như không vắng mặt anh. Mặc dù vậy hàng ngày Hằng sống thật vô tư và giản dị nên mọi người vẫn gần gũi và thân quý...
Vừa rời Bàn Thạch về đến Hàm Rồng lại phải tiếp tục với công việc đại tu lò máy mà không được nghỉ bù. Máy móc bây giờ hầu như đã rệu rão hết cả do nhiều năm chạy cố, chạy tận dụng. Mọi cái nếu như không động đến thì thôi nhưng nếu đã động đến thì đều nát vụn ra cả. Những năm đầu tiên của thời kỳ Tổ quốc thống nhất, vui thì thật là vui nhưng khổ thì cũng thật là khổ vì mọi cái đều thiếu thốn. Cơm gạo thiếu phải độn đến chín chục phần trăm là sắn khô, khoai khô, là hạt mạch, là ngô răng ngựa. Đồ dùng thì phân phối từ cái kim, cuộn chỉ đến cái nồi, cái bát. Đồ ăn thức uống thì cũng phân phối từ cân đường, miếng thịt đến gói chè, bao thuốc. Còn nói về máy móc thiết bị thì thiếu từ con bu lông đến miếng giấy nhám nói gì đến những thiết bị tinh vi phức tạp. Người ta rất quen với cụm từ Tự lực cánh sinh và vấn đề chủ động sáng tạo. Vì không như thế thì lấy gì mà chạy máy, lấy gì mà sản xuất ra điện. Đợt đại tu lần này tổ máy lại gặp phải một việc khá hóc búa, đó là những gối trục vừa mới mang đi thuê đúc lại ở một cơ sở chuyên ngành mang về lớp lót lại không ăn chân với vỏ gang của nó. Việc đúc lại lớp lót hợp kim ba bít B-83 ở nhà máy này là việc chưa ai thực hiện bao giờ. Cũng chả phải nghĩ ngợi gì nhiều vì chắc chắn rằng mấy cha “sáng này, sáng nọ” sẽ phải đứng ra mà đảm trách.
Sách vở về món đúc thì có đấy nhưng mà là đúc gang, đúc nhôm chứ còn đúc cái loại này thì tài liệu hiếm lắm, thôi thì cứ làm từng đoạn vậy. Hôm qua anh Khâu mang đến một quyển sách in ấn các nội dung sửa chữa trong ngành mà anh được phát trước đây rồi dở dở, lật lật tìm đến đoạn nói về đúc gối trục. Thế là mấy anh em châu đầu vào ngắm nghía rồi thì phán này, phán nọ đến hết cả buổi mà vẫn chẳng vỡ vạc ra được tý gì.
Sớm nay Hằng được giao cho làm công tác chuẩn bị vật tư, vật liệu. tuy vậy anh cũng vẫn xuống tổ rèn xem lại mấy cụ thợ điện tráng thiếc các đầu kim thu lôi cho đường dây. Anh cũng muốn tham khảo thêm về việc tráng thiếc những khi hỏi đến kinh nghiệm thì mấy cụ thợ điện bảo:
- Chúng tớ cũng chẳng có công nghệ nào đâu. Những thứ này cũng cứ theo các cụ đi trước làm cho xem rồi cứ thế mà làm vậy thôi.
- ...
- Chúng tớ chẳng phải giữ nhiệt này, nhiệt nọ mà làm gì, thiếc thì cứ cho chảy ra, sắt thì đánh sáng hơ nóng nhúng vào “át xít” rồi lau đi là được.
Thế là Hằng chẳng thu lượm được tý gì ngoài mấy câu chuyện vui với mấy cụ thợ già tổ điện.
Gần một tuần mày mò tìm kiếm đất, cát rồi thì làm khuôn, làm nồi nấu thiếc, Hằng cũng đã làm bóng mấy vỏ gối trục chuẩn bị cho việc đúc. Số hợp kim và muối Amonium cũng đã mang đến khu nhà lò rèn của phân xưởng.
Nào lau, nào rửa, nào sấy, nào chà, nào xát, mùi Axit clo, mùi muối Amonium vừa khai, vừa khét bốc lên làm cho mấy vị thợ rèn lắc đầu bịt mũi càu nhàu với nhóm đúc của Hằng. Cũng không ít người không ưa mấy anh chàng lúc nào cũng nháo nhào nhào lên làm họ cũng phải chạy theo trong khi họ chỉ muốn im lặng “tối ngày đầy công” về với vợ con bù khú. Lúc thì nửa kín, nửa hở, lúc thì ra mặt ra ý chẳng cần phải kiêng dè:
Chuông khánh còn chẳng ăn ai...nữa là...!
Và những điều dèm pha như thế được thể bung ra khi những lớp tráng thiếc của Hằng từ từ lóc ra khỏi lớp gang đen xỉn. Tiếng kẻng báo giờ nghỉ đã vang lên nhưng hình như Hằng không nghe thấy, anh vẫn cắm cúi mải cạo gọt và chà xát với mấy cục gang cóc cáy chả lấy gì làm thiện cảm. Hằng cắm cúi làm đến mức ông bí thư và ông quản đốc phân xưởng vào đứng mãi mà vẫn không hay. Anh chỉ giật mình khi ông quản đốc cất tiếng ngay ở bên cạnh :
- Thế nào, công việc không thuận lắm phải không? Hỏng thì làm lại, đừng có ngại ngần gì. Tớ tin là cậu sẽ thành công được!
- Kể ra thì cũng khó thật, không biết chúng cháu có làm được không nhưng chúng cháu sẽ cố gắng hết mức.
Đến lúc này thì cả ông bí thư cũng xen vào:
- Nếu dễ mà mọi người đều làm được thì cần gì phải giao cho các cậu. Chi bộ tin ở cánh thanh niên các cậu lắm đấy, nếu cần giúp đỡ gì thì chú cứ nói, chúng tớ sẽ hết lòng ủng hộ.
Hằng chẳng lạ gì những câu động viên của những người lãnh đạo trong đơn vị. Họ có thể giúp được gì cho các anh hay không, làm sao anh không biết. Dù sao thì như thế cũng là sự động viên của tập thể đối với Hằng nhất là khi anh đang thất bại, đang bế tắc chưa tìm thấy nguyên do của sự thất bại vừa rồi.
Đêm đã khuya lắm mà Hằng vẫn còn thức bên ngoài thềm của cái căn hộ bằng nửa gian nhà tập thể mà cơ quan của Thơ đã phân cho mẹ con Thơ. Hằng cũng chỉ như bao chàng trai thời bấy giờ sống nhờ cơ quan vợ. Không biết có một ông “trên” nào đó của nhà nước đã quy định chỉ cấp nhà, lương thực, cấp thực phẩm và các chế độ cho con cái theo người vợ. Dĩ nhiên là các đức ông chồng mãi mãi ở hộ tập thể tại cái nơi cơ quan của ông sẽ chẳng bao giờ là chủ hộ. Trừ khi ông cưới một người vợ cùng cơ quan, lúc đó họ sẽ cho tách hộ, nhưng ông và các con chỉ là các khẩu có quan hệ nào đó với bà vợ chủ hộ mà thôi. Chỉ khi các bà vợ không may có cuộc sống ngắn để trơ lại đức ông chồng với mấy đứa con thì ông mới được quyền thay. Nhưng nếu chỉ cần tái giá với bất kỳ người đàn bà nào khác thì chức chủ hộ của người đàn ông sẽ lại mất liền. Còn với bà vợ mới nếu mà ở cơ quan nào thì ông chồng lại mang con chạy về cơ quan đó. Nếu bà vợ mới này lại ở thôn quê thì tất yếu là anh chồng cũng đổi khẩu về quê ngay tắp lự, còn bản thân anh thì lại phải nhập vào cái hộ khẩu tập thể vốn sẵn có của bất kỳ một cơ quan nào của nhà nước trong lúc bấy giờ.
          Hằng thường ít ngủ, nên dù phải làm thêm đến mười một giờ khuya mới về đến nhà thì anh cũng thức thêm hai, ba tiếng nữa rồi mới đi ngủ. Nếu lại còn vướng bận những việc như hôm nay thì anh có thể trắng đêm luôn để nghĩ về công việc đó. Có đến chín mươi phần trăm những sự sáng láng trong công việc của ngày hôm sau được khai mở vào những lúc này, lúc mà nhà nước không một lần trả lương mặc dù chính lúc đó mới là lúc người ta làm việc cho nhà nước  hiệu quả nhất.
          Hằng lặng lẽ ngồi hút hết điếu thuốc lá rồi mới giở phần tài liệu kim loại màu ra để xem. Cuốn sách này anh mượn được của Đô bên tổ cơ khí chiều nay. Đô học cơ khí luyện kim nên các loại sách về vật liệu của cậu ấy khá nhiều. Điều quan trọng nhất mà anh cần tìm ngay trong đêm là nguyên nhân của việc bong lớp thiếc mà anh đã tráng gần hết buổi sáng mới xong. Sau một hồi nhấp nước bọt vào tay lần dở từng tờ giấy một anh cũng tìm ra phần tính chất lý hoá của hợp kim Ba bít B83. Anh phân vân khi biết rằng sự chảy lỏng của thiếc chỉ độ 220 độ là cùng, còn hợp kim thì lại cao đến trên 300 độ. Có lẽ vì thế mà khi sấy khuôn lớp tráng thiếc liền bong ra mất. Hằng đã nghĩ đến việc tráng lớp lót bằng chính hợp kim dùng để đúc nhưng không biết nó có tính hàn như các loại thiếc thông dụng hay không. Một nguyên nhân mà Hằng dự đoán là việc mấy cậu thợ phụ nung khuôn không đều, chỗ  quá nóng thiếc sẽ chảy ra và trôi mất. Cuối cùng thì anh cũng đã tìm ra nguyên nhân thất bại sáng nay.

                       3
  
          Một vỏ lò bằng đất với những khe nhỏ để luồn vào đó những dây điện trở vẫn dùng làm bếp đun đã được làm sẵn. Vỏ gang của gối trục được đánh sáng bóng, rửa đi, rửa lại bằng A xít và nước cất đã được đưa lên khung quay trên ngọn lửa lò rèn cho nóng đều. Số ba bít B83 cũ đã được cho vào nồi thép để nấu chảy ở lò bên cạnh. Cùng lúc ấy thì vỏ gang cũng đã nóng đều đến độ làm chảy được ba bít. Hằng rắc dung môi bằng bột Amonium vào bề mặt vỏ gang và chà mạnh các thanh ba bít lên đó. Lớp bạc đính đều trên toàn bộ bề mặt mà không sót một điểm nào.
Việc chuyển khuôn xuống để lắp phần khuôn chứa ba bít nóng chảy bên trong gối trục và đưa cả gối trục vào lò giữ nhiệt là việc thật khó khăn và phức tạp. Cái khó khăn, phức tạp chính là gối trục thì quá nóng, phần khuôn lại nhiều chi tiết che chắn, cách nhiệt, vỏ lò điện giữ nhiệt cũng nóng và quá chật hẹp rất dễ bị chạm vào dây điện trở. Tuy nhiên công việc lắp ráp đã kết thúc và ổn định nhiệt cho gối trục. Dòng ba bít chảy lỏng được Hằng rót đều vào khe máng trục êm như rót mật vào bát không một gợn bọt...
Những người biết việc đúc gối trục hầu như đều mong biết được kết quả. Họ sờ mó lật lên, lật xuống đưa cả bàn tay lên bề mặt ba bít để lau bụi xem màu trắng bạc của nó. Ông quản đốc hầu như chẳng để ý đến mọi người xung quanh, còn mọi người thấy ông thì đều phải giãn ra để cho ông vào, vì ông mới là người có quyền chấp nhận hay không chấp nhận cái sản phẩm này. Khi vào đến cạnh phôi đúc ông quản đốc liền móc trong túi rồi cầm ra một cái cờ lê mở ốc nhỏ. Khuôn mặt ông hình như có hơi căng thẳng và trang trọng chứ không cười nói rộn rã như mọi khi. Ông gõ nhè nhẹ lên khắp bề mặt lớp lót và chăm chú nghe. Thấy ông quản đốc làm như thế với vẻ rất trang trọng thành ra tất cả sự ồn ào lúc nãy chợt tắt hẳn và người ta nghe rõ từng tiếng gõ của ông. Cuối cùng thì ông cười một cách hể hả và nhận xét:
- Tiếng kêu thanh đều mọi chỗ, chứng tỏ là dính chắc. Ta đâu có kém hơn những người chuyên nghiệp, phải không các cậu ?
Chỉ chờ có thế là tất cả lại ồn ào trở lại và lần lượt tranh nhau sờ mó, ngắm nghía và soi xét. Mất hơn nửa giờ đồng hồ nữa Hằng mới mang được phôi đúc vào bàn nguội để gia công mép và lắp ghép bu lông. Mãi đến lúc này Hằng mới được vừa làm vừa xem xét lại một lần nữa xem có khuyết tật nào không. Anh còn lo lớp lót bị rỗ do có bọt khí bên trong sau khi tiện mới lộ ra.
Hằng không phải là người hiếu danh nhưng anh lại thích phải khắc phục được tất cả những gì là khó khăn mà mọi người chán nản và muốn từ bỏ. Anh muốn những việc anh đã nói và đã làm sẽ phải có kết quả chứ không thể để người khác cho anh là kẻ phét lác, viển vông vô tích sự. Đây cũng là cái nghiệp đã quàng vào anh từ những khi anh mới vào đời. Ai bảo anh cứ học giỏi hơn người khác? Ai bảo anh cứ làm tốt hơn người khác? Ai bảo mọi người cứ đưa anh lên để rồi anh không thể xuống được nữa? Anh đã bị  hại bởi điều đó và anh biết tất cả những điều đó mà không tìm ra được cách chống lại. Điều đó cho thấy anh cũng chẳng giỏi gì !
Sáng nay anh Khâu đi họp trên phân xưởng về không có vẻ vui, anh kéo Hằng ra phía ngoài sân than mà chẳng nói gì. Hằng biết tính anh từ lâu nên cũng cứ mặc kệ mà không hề phản ứng nhưng anh biết như thế là có sự rồi đây.
Anh Khâu móc vào túi áo bảo hộ lấy ra bao thuốc rồi đưa cho Hằng một điếu, anh lại chìa điếu thuốc của mình ra cho Hằng châm rồi thủng thẳng nói:
- Đoạn đầu hút tuần hoàn rụng mẹ nó xuống sông rồi, các ông ấy lại bắt mình tìm cách sửa.
- Sao em thấy bơm vẫn chạy cơ mà?
- Thì vẫn...nhưng mà khi nước lên, còn lúc nước xuống thì miệng ống gần mặt nước quá, tạo chân không, không được.
Đến đây thì Hằng đã thấy rõ cái sự lôi kéo của anh Khâu là nhằm vào mục đích gì rồi. Hằng chợt nghĩ đến việc trêu cho ông này một mẻ cho bõ tức:
- Việc này thì anh cứ giao cho bọn thằng Hiền, thằng Nhị là được chứ lo gì.
- Bọn này chú còn lạ gì...có để giải thưởng lớn cũng đành đứng chảy rãi mà nhìn.
Hằng bật cười nghĩ: ông này lại giở bài cũ ra đây mà. Trước tiên là làm ra vẻ bí mật rồi thì tỏ ý chỉ có thể bàn với một mình người này, người nọ để tỏ ra là mình đánh giá người ấy rất cao để họ cảm thấy mình thật sự là quan trọng, mình thật sự là hơn hẳn và đã là vậy thì mình đâu còn dám từ chối. Chả nhẽ mình lại tự nhận mình là kém, là không hiểu biết hay sao. Đương nhiên là phải hết lòng, hết sức thực hiện những gì ông ấy giao cho, ông ấy đặt niềm tin vào vừa là thể hiện mình trước bàn dân thiên hạ.
Thực ra thì chính anh Khâu cũng bị những người bên trên xỏ mũi bằng cách ấy và rồi anh ấy lại áp dụng cách ấy cho quân của chính mình. Anh ấy hoàn toàn có quyền từ chối những công việc không có đủ điều kiện do thiếu nguyên nhiên vật liệu, do không đủ điều kiện an toàn. Vậy nhưng anh ấy vẫn nhận vì anh ấy cũng muốn thể hiện mình hơn hẳn trước những người bạn cùng học với mình, thậm chí còn học sau mình thế nhưng họ đã làm việc này việc nọ ở các đoàn thể mà anh chỉ là thành viên trong đó, thậm chí còn là thành viên hạng dưới cùng tại đoàn thể ấy. Anh ấy tự đặt ra cái tiêu chí của người thợ là sự giỏi nghề chứ không phải là giỏi nói, giỏi gần gũi lãnh đạo để rồi nhờ họ quan tâm đưa lên chức này, chức nọ. Anh cố làm điều đó và từng bước lôi kéo bọn đàn em bên dưới theo anh nghĩ như thế và làm như thế. Cũng không phải chỉ có anh Khâu nghĩ và làm như thế. Cái ngang tàng của vô khối bậc sĩ phu thời xưa chả đã để lại nhiều tấm gương khảng khái đó sao. Họ nói họ không hợp tác với những người không dám ngang tàng chống lại những thế lực có quyền, có thế. Nhưng kẻ quyền thế thời ấy là một bọn người chỉ chuyên đục khoét dân tình, làm mục ruỗng rường cột đất nước. Còn giờ đây mọi sự đã khác hẳn vì chính quyền là của dân, do dân, vì dân, mặc dù không phải tất cả những ông lãnh đạo đều thực hiện đúng với “của, do và vì” như đã nói.

                                             CÔNG VIỆC
           
                                                        1           

Chiều sông Mã thật là mát mẻ bởi gió theo mặt sông thổi ràn rạt lên bờ. Nước triều đang lên chầm chậm, mặt sông dường như cứ rộng dần ra. Cây cầu  năm xưa cũng đã được sửa chữa và sơn lại tuy vậy người ta vẫn dễ dàng nhận ra những vết sứt sẹo do mảnh bom bắn vào trên những thang ngang, thanh chéo trong thời chiến tranh phá hoại của Mỹ. Nhớ lại ngày nào còn chiến tranh, bom đạn, Hằng và mấy anh em tổ máy đã chết hụt ba bốn bận ở đây mà thấy rợn cả người. Những quầng lửa đỏ khé và khét nẹt cùng với bụi đất, cát phả vào sau mỗi trận bom làm mọi người ngạt thở, thế mà đã qua gần chục năm rồi.
Đang bận bịu về những hồi tưởng nên Hằng không thấy Đại cũng đã ra đến trạm bơm. Mãi đến khi nghe vật gì đổ vật ngay sau lưng anh mới quay lại thì ra chiếc xe đạp của Đại để không vững trên bờ đê sườn bò chợt đổ ra. Đại cũng chẳng thèm dựng chiếc xe đạp dậy vì sườn đê chỗ nào chả nghiêng nghiêng, thoai thoải như thế cả. Đại cầm hòn đá ném ra ngoài sông như có ý bảo cho Hằng biết vị trí của giỏ ống hút  là ở chỗ ấy. Đại biết khá rõ vì nhiều năm sau khi Hằng đi bộ đội thì Đại vẫn ra sửa bơm ở ngoài này. Hơn nữa kế hoạch sửa đầu hút của bơm chắc là đã thông qua cấp uỷ trước khi giao nhiệm vụ cho các tổ. Đại vừa là thư ký công đoàn của cơ sở, lại là đảng uỷ viên nhà máy phụ trách khối Cơ điện nên mọi việc hầu như cậu ấy đều phải biết trước. Hằng đồ rằng ngay cả giao việc cho tổ máy Đại cũng biết trước cả anh Khâu tổ trưởng.
Hai anh em đứng ngó nghiêng cái đầu hút được một lúc thì cùng ngồi xuống vệ cỏ của con đê để nói chuyện. Họ quan tâm đến nhau nhiều hơn bình thường bởi cả hai đều cùng ở trường điện về đây. Phần nữa họ lại là đồng hương cùng tỉnh Nam Định và sống với nhau khá lâu dài. Cái sự gắn bó gần gũi giữa hai người vốn còn nhiều yếu tố khác nữa, những gắn bó đó còn phát triển về sau này nữa.
        Mải mê chuyện trò nên cả hai người đều giật mình khi thấy nước sông đã lên khá cao đến nỗi bọt sóng túa cả lên đầu, lên mặt hai người. Đại vội đến nhấc cái xe để dong lên mặt đê, còn Hằng thì vẫn đứng tại chỗ mặc kệ Đại gọi và mặc cho nước bắn lên dữ dội. Hằng đã phát hiện ra một điều đặc biệt và anh đang muốn đưa điều ấy vào công việc sửa chữa sắp tới mà lâu nay anh đang rất phân vân. Đó chính là việc dùng loại thiết bị gì để mang cái đầu hút nặng hơn ba tạ ra lắp vào đầu ống hút cách bờ đê  đến hơn hai chục mét. Anh đang ước tính xem độ cao mực nước triều là bao nhiêu và sức đẩy của cái bè chở ống rộng bao nhiều thì vừa. Rồi thì việc gá lắp đầu ống cao bao nhiêu thì vừa với mặt bích đầu ống. Khi Hằng lên đến chỗ Đại thì anh ấy đã về tự lúc nào.
Đêm đã khuya hơn mọi khi nhưng Hằng vẫn còn nằm bò trên góc thềm của gian nhà tập thể. Mấy ông bảo vệ của xí nghiệp xây lắp đi rẻo qua cũng rẽ vào xem cái chàng con rể của xí nghiệp làm gì mà thức khuya đến thế. Thực ra thì họ tiện đường mà ghé vào thôi chứ cũng không phải nghi ngờ điều gì. Họ gặp cảnh này luôn từ khi chàng ta về ở cùng vợ con ông tại cái khu công nhân của xí nghiệp. Đận trước thì chàng ấy học bổ túc rồi thì đến thi đại học. Thậm chí có lần cánh bảo vệ rẽ vào thì thấy chàng ta đang kỳ cạch lắp ráp vài cái quạt hoặc cái máy khâu rỉ ghét không biết lôi ở đâu về.
Thấy cánh bảo vệ xí nghiệp rẽ vào Hằng liền dừng tay để tiếp kiến:
- Các bác trực đêm đấy à, vào làm điếu thuốc cái  đã rồi hẵng đi.
Vừa cất lời mời Hằng vừa bỏ gói thuốc Sầm Sơn ra để mời. Chỉ có anh bảo vệ trẻ là đón lấy bao thuốc rút ra một điếu, còn hai người già hơn thì lại vớ lấy cái điếu cày Hằng dựng ngay ở cây cột hiên bằng gạch. Thấy vậy Hằng lại kéo cửa lấy ra cái hộp thuốc lào bằng nhôm rồi tiếp tục mời:
- Bác dùng loại này hở, em cũng có đây.
Thấy ông khách có ý thò tay vào túi của mình Hằng lại tiếp tục thông báo:
- Các bác thử loại này xem, chính gốc Quảng Thành, Quảng Xương đấy nhé.
Nghe Hằng nói vậy ông ta lại cất hộp thuốc của mình vào túi rồi đón lấy hộp bằng nhôm mà Hằng đưa cho, mở ra vê lấy một điếu cho vào điếu rồi rít một hơi làm cho cái điếu réo lên như tiếng còi trong đêm khuya vắng. Người già còn lại trong lúc chờ đến lượt thì cúi xuống ngó vào mấy tờ giấy Hằng vừa vẽ, viết còn nằm ngay trên chiếu.
- Chà, cái tang Quảng Xương chính hiệu có khác, làm tớ say đứ đừ ra.
- Thôi đưa đây cho tớ, lâu la quá đấy.
Đón lấy cái điếu từ tay bạn, ông cũng nhét vào nõ điếu một nhúm thuốc của mình rồi đón tiếp cái đóm mà Hằng đã chuẩn bị cho. Cũng không kém ông bạn lúc trước, ông ta còn kéo mạnh và dài hơn làm vang khắp dọc hiên khu nhà tập thể.
- Này, chả nhẽ đêm nào ông cũng thức làm việc khuya thế à?
- Cũng tuỳ lúc thôi bác ạ! Khi có việc quan trọng em mới phải tính toán tí ti cho nó chắc chắn, còn không thì cứ làm đến đâu nghĩ đến đó.
- Thế sao tôi thấy đêm nào cậu cũng thức rất khuya làm việc.
Còn chưa kịp trả lời ông này thì ông kia đã cướp lời xen vào:
- Không biết cậu vẽ gì mà nó cứ lòng vòng thế này, làm tớ ngó mãi vẫn chẳng hiểu được?
- Cái này nó là một cái phao tự chế, với lại nó chỉ ở dạng phác thảo nên các bác chưa nhận ra được, nhưng nếu mô tả bằng lời thì các bác nhận ra ngay thôi.
- Này tớ thấy hình như nó là những cái thùng phi thì phải?
- Đúng đấy bác ạ.
- Thế sao không dùng thuyền hoặc xà lan mà chở lại làm lắm thùng phi như thế làm gì cho phức tạp ra?
- Chả là cái vật em chở là đoạn ống khù khoăm dài gần bốn mét, lại phải để dựng đứng nên phải để lỗ ở giữa rồi xỏ nó vào, nên phải làm thế mới được.
- Cậu nói thì cánh tớ biết vậy thôi chứ cũng chẳng hiểu được cái việc của các cậu.
Hằng không nói chỉ cười trừ đưa ống điếu mời họ hút tiếp tỏ vẻ thông cảm với mấy ông bảo vệ của xí nghiệp. Họ đứng lên bắt tay chào Hằng rồi lại tiếp tục với công việc trông coi xí nghiệp. Mấy ông bảo vệ đi rồi nhưng Hằng vẫn chưa đi ngủ được vì anh còn đang phải nghĩ cách buộc thế nào để cho khi nước lên đến độ cao nhất định thì hai bích phải trùng vào nhau tương đối. Anh sợ đoạn cút cong sẽ dồn trọng lượng làm bích nghiêng đi không lắp gu giông vào được. Nhìn sang cái đồng hồ báo thức Trung Quốc đã thấy chỉ hai giờ sáng, Hằng đành thu hết giấy tờ rồi dọn dẹp vào nhà đi ngủ.
Hằng nằm trên giường đã lâu mà vẫn chưa nhắm mắt được, anh cố nằm im để vợ con khỏi bị thức giấc nên chân tay mỏi dừ dẫn. Nghe tiếng vợ thở đều ngay bên tai anh chợt lại thấy thương cho cô ấy. Từ khi lấy chồng rồi có con, cô ấy cũng vẫn phải lao động đủ tám tiếng một ngày, ngoài ra lại phải phục vụ chồng con với hàng trăm những việc vặt vãnh. Nào là giặt giũ, nấu ăn, chợ búa, rồi thì thuốc men đau ốm, thậm chí còn phải xúm vào với chồng lo thiếu tiền, thiếu gạo, lo vay mượn, lo trả nợ. Biết vậy nhưng anh không muốn nói ra, bởi nói ra rồi mà không giúp được gì hơn cho cô ấy thì có khác gì nói đãi bôi. Cái sự nịnh đầm bằng những lời nói ngon, nói ngọt vốn rất xa lạ trong đời sống vợ chồng. Điều những người phụ nữ muốn là họ mong chồng tiến bộ để rồi cậy vào cái tiếng của chồng mà tự an ủi mình trước bè bạn, trước mọi người. Còn có cả sự tự hào đến rơi nước mắt vì những điều đó nữa mà chẳng cần phải phàn nàn lấy một điều gì.
Nghĩ chán chuyện vợ con Hằng lại nghĩ đến cái phao đỡ ống anh đang thiết kế vẫn còn dang dở. Anh nghĩ có thể mang theo một ít đối trọng bằng các khối sắt khác buộc thêm vào mé phao không có ống để làm cân bằng lại. Nhưng anh lại nghĩ đến việc vận chuyển phao và ống đi xa gần cây số từ xưởng ra đã vất vả lại chuyển thêm khối đối trọng kia nữa thì thật gian nan, hơn nữa nếu buộc không cẩn thận để phao lộn thì thật nguy hiểm. Còn đang nghĩ ngợi lung tung thì nghe tiếng va chạm của sành sứ ngay ở góc nhà, có lẽ là có chuột chạy qua va phải. Anh cũng đoán thế nên cứ nằm im không cựa quậy, chợt anh nghe vợ gọi nhỏ nhẹ ngay bên cạnh:
- Anh nằm ngoài dậy xem hộ em cái bát mỡ để ở góc nhà xem chuột có đẩy vung ra thì chặn lại cho em.
Nghe đến đây anh mới biết Thơ đã dậy từ lúc nào mà anh không biết. Thì ra người phụ nữ thường rất tỉnh ngủ, họ có thể giật mình tỉnh ngay khi những đồ vật của mình bị đe doạ bởi sự hư hỏng phá phách. Hằng nghe vợ nói vậy anh cũng lựa thật khẽ để tránh làm con gái thức giấc. Cái cặp lồng mỡ không còn nhiều được đặt trên một chậu nước để chống kiến đã bị nghiêng đi do một chú chuột nào đó đã cố tình đẩy cái nắp ra ngoài mép. Mỡ trong cặp lồng bị dồn về một phía chính là nguyên nhân làm cho cặp lòng nghiêng hẳn về một bên. Chỉ trong giây lát nhìn vào cặp lồng mỡ Hằng đã mơ hồ tìm ra được giải pháp làm cân bằng phao chở ống. Anh thử lại việc dồn mỡ về bên kia của cặp lồng và góc nghiêng lại chuyển về hướng đó. Thế là đã rõ rồi, anh sẽ lấy nước sông đổ vào các phi ở phía đối diện ống hút để cho phao được cân bằng.
Sáng nay Hằng sẽ tổ chức lắp đoạn ống hút tuần hoàn ngay trên bờ sông Mã đúng theo như kế hoạch. Các phao ở phía đối diện với đoạn ống hút đã được đổ nước vào làm cân bằng. Phần ống bị đứt rơi mất còn một đoạn đã được tháo ra để lắp đoạn mới. Phao chứa ống hút vẫn cứ bập bềnh trên sóng chờ nước triều lên. Gần hai giờ chiều thì mặt bích gần tương ứng với nhau, Các đầu thép nhọn đã chuẩn bị sẵn liền được lồng vào các lỗ trên bích ống và các gu giông lần lượt được thay thế bắt chặt lại.


                                                     2


Lại một năm nữa sắp qua đi cùng với bao nhiêu công việc của tập thể và của cá nhân bề bộn. So với thời gian của cuộc đời thì một năm cũng chưa dài lắm. Nhưng nếu không để ý đến thì số năm ấy cứ tăng dần và đến một lúc nào đấy người ta mới nhận ra là thời gian đi quá nhanh. Cứ mỗi năm một lần người ta phải dừng lại để làm cái việc mà người ta quen gọi là tổng kết năm. Thôi thì thượng vàng hạ cám đều được nêu ra trong các bản báo cáo của tất cả những đoàn thể có trong một địa phương hoặc một đơn vị. Có điều những công việc này thật chả đáng bao nhiêu nhưng tất cả các đoàn thể đều nói đến trong báo cáo của mình. Chi bộ Đảng thì có công lãnh đạo, chính quyền thì tổ chức thực hiện, công đoàn thì lo quan tâm đến đời sống của mọi người, thanh niên, phụ nữ thì động viên xây dựng phong trào, thành ra tất cả đều chung tất tật. Sau báo cáo là những phương hướng công tác không biết dựa vào đâu.
Tiếp theo là các buổi họp kéo dài trong suốt cả tuần, nhỏ nhất là các tổ rồi sau đó là các phòng, ban, phân xưởng và cuối cùng là nhà máy. Ai cũng phải tự mình kể ra những cái tốt và cả cái xấu rồi sau đó là tự mình nhận lấy một cái danh hiệu trong ba thứ hạng khác nhau. Những công việc như vậy người ta gọi là bình bầu danh hiệu thi đua cuối năm. Phụ nữ thì có danh hiệu của phụ nữ, nào là “Đảm việc nhà, giỏi việc nước” hoặc là phụ nữ hai giỏi, Phụ nữ tiên tiến, Phụ nữ xuất sắc vân vân. Cách đấy vài năm người ta có những phong trào riêng cho các bà, các cô là Ba đảm đang hay là Ba đảm nhiệm; những danh hiệu dành cho phụ nữ trong thời chiến.Thanh niên thì Ba sẵn sàng, Ba xung kích, Ba tình nguyện, đó là nói chung vậy. Trong thanh niên có đến chín mươi chín phần trăm là những người đã được kết nạp vào Đoàn thanh niên Lao động và bây giờ là Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Đi liền với tổ chức này bao giờ cũng có danh hiệu là Đoàn viên tiên tiến, Đoàn viên xuất sắc.
Trong cơ quan nhà nước còn có một tổ chức riêng của những người lao động đó là tổ chức Công đoàn. Những người lao động là đoàn viên công đoàn cũng phải phấn đấu thi đua sao cho đạt là Đoàn viên công đoàn tiến tiến, Đoàn viên công đoàn tích cực. Trong mỗi đơn vị còn có một tổ chức quan trọng bậc nhất đó là tổ chức chi bộ Đảng Cộng sản. Những người là Đảng viên Cộng sản càng phải cố gắng hơn trong hoạt động về công tác Đảng và cũng phải phấn đấu theo cái mức tiên tiến, xuất sắc giống các đoàn thể khác. Cuối cùng là tổ chức chính quyền, một tổ chức quản lý cơ bản của các tập thể những người lao động lúc bấy giờ. Những danh hiệu về chính quyền thì tất nhiên là rất quan trọng; trong đó danh hiệu đầu tiên là Lao động tiên tiến, trên mức đó là danh hiệu Chiến sĩ thi đua. Từng thời gian một người ta đặt ra mấy loại Chiến sĩ thi đua đó là Chiến sĩ thi đua ngành, Chiến sĩ thi đua tỉnh và Chiến sĩ thi đua toàn quốc. Trong nhiều năm về trước và cả những năm sau này với khoảng thời gian nhất định người ta có thể còn được đề nghị tặng danh hiệu Anh hùng lao động. Mỗi người công nhân thời ấy hầu như đều có đến ba tổ chức đòi hỏi họ phải thi đua, Nếu người đó là Đảng viên thì đương nhiên phải có đến bốn tổ chức.
Những cuộc họp tổng kết và bình bầu như trên cứ liên tiếp được mở ra làm cho tất cả mọi người luôn căng thẳng. Sau những báo cáo dài dằng dặc của người lãnh đạo là những bổ sung của các thành viên. Mỗi thành viên sẽ nói cái ý của mình để mà bổ sung cho báo cáo và cả bổ sung cho tất tần tật mọi cái mà anh ta chợt nghĩ ra. Tuy nhiên trong cái tập thể ấy không phải ai cũng muốn có ý kiến bổ sung mà chỉ tập trung vào mấy người đã quen thuộc từ những năm trước. Nghĩa là hình như đã có nếp từ trước rồi, những người năm trước phát biểu thì năm sau cũng lại phát biểu còn những người không phát biểu thì hình như chả bao giờ phát biểu, hết năm này qua năm khác. Sau tất cả những việc ấy tất cả mọi người đều phải có ý kiến tự kiểm điểm mình. Họ kể lể những gì mà họ đã làm được trong năm rồi tự nhận lấy một danh hiệu đã được phân ra thành ba loại khác nhau. Sau cái sự thành khẩn của người đó, chủ toạ lại đề nghị mọi người đóng góp ý kiến rồi giơ tay biểu quyết xem cái danh hiệu mà người ấy tự nhận có xứng đáng hay không. Xứng đáng hay không xứng đáng điều đó không ai tự quyết định được bởi mỗi người đều có kẻ yêu, người ghét. Kẻ yêu thì chưa xứng đáng họ cũng biểu quyết xứng đáng rồi, còn nếu ghét thì tốt mấy họ cũng chẳng tán thành dù có biết vậy những cũng chẳng ai làm gì được vì đó là quyền của họ. Có điều rất nhiều người tốt vẫn phải chờ cái sự tán thành của mấy người chưa tốt; chưa tốt hoặc cũng có thể nói là không tốt. Vậy thì người ta chờ đợi được gì ở họ? Thế cho nên cái sự được phong này, phong kia cũng phải chịu cái may rủi chứ không phải cứ đường đường chính chính mà dự phần vào đó.
Cũng chính vì thế mà cũng khối lần Hằng được bầu vào làm Chiến sĩ thi đua do có một chút công trạng và cả do cái sự yêu mến của nhiều người. Như trên đã nói, Hằng là người luôn không gặp may về con đường quan lộ, không gặp may trong cái sự được ban phát lợi lộc nên Hằng chẳng chờ đợi điều gì. Thực ra mà nói Hằng chỉ nổi trội về cái sự say mê với công việc và có nhiều thành tích vì công việc, còn nhiều thứ khác nữa cần thiết hội tụ đủ thì anh lại thiếu, thành ra mọi cái với anh chỉ chàng màng là vậy.

                       3

Mấy ngày nay Thơ có vẻ mệt mỏi khác thường, cô ăn uống kém, hay kêu bị ngứa tay chân. Nhân tiện đơn vị vãn việc Hằng xin nghỉ bù mấy ngày ở nhà trông coi con cái và nấu cơm nước giúp Thơ. Nhìn cô ấy suốt ngày gãi ngứa Hằng bảo:
- Có lẽ em bị dị ứng do thời tiết nên chỉ cần uống chút lá mát thì rồi sẽ khỏi.
- Theo anh thì uống lá gì được?
- Anh sợ hồi này đang có dịch sốt xuất huyết nên chỉ uống Kim ngân, quả Ké hoặc lá Nhọ nồi là được. Trước mắt cứ uống lá Nhọ nồi vì nó không hại gì nếu như mình bị xuất huyết.   
Thế là ngay chiều đó hai người hỳ hục kiếm lá nhọ nồi, rồi kỳ cạch giã lấy nước uống. Có lẽ phải đến mấy ngày liền mà bệnh cũng chẳng giảm đi. Chiều ấy Hằng ra nhà máy lấy tiền lương tháng, lại vui bạn vui bè mãi đến trưa mới về.
Vừa về đến nhà đã thấy Thơ nằm dài trên giường chẳng ăn uống gì cả. Hỏi mãi mới Thơ bảo sáng nay lên y tá xin thuốc thế rồi chẳng biết họ nói thế mào mà y tá cứ bảo có triệu chứng sốt xuất huyết thế là cho mấy mũi tiêm với lại ít thuốc viên. Cũng từ lúc ấy Thơ cứ mệt nặng thêm. Biết Thơ ngại đi viện nhưng bệnh cứ thế này thì chắc là không thể khỏi được. Thấy tình hình ngày càng xấu đi Hằng quyết định bắt Thơ đi viện cho bằng được. Cũng may có cô Huấn nhà trẻ sống ở tập thể rất quý Hằng và Thơ, với lại cũng thích cái bé con nhà Hằng nên giúp trông coi cái bé chứ không thì không biết gửi vào đâu.
Viện thì cũng chẳng hơn gì mấy vị y tá của cơ quan, có khi còn tệ hơn vì họ chẳng để tâm gì vào người bệnh. Cũng chẳng biết họ có khám xét gì không mà một nước đưa ngay Thơ xuống khoa lây. Chắc là họ cũng đoán là Thơ bị sốt xuất huyết.
Suốt mấy ngày liền điều trị mà bệnh của Thơ không những không giảm mà lại tăng lên. Lắm lúc hình như Thơ còn bị choáng gần như đã ngất đi. Cứ mỗi lần như thế Hằng lại lên phòng trực của bệnh viện nhưng rồi họ cũng chẳng làm gì khác được. Hằng buồn bực và giận đám thầy thuốc không sao nói lên được vì anh chả hiểu gì về bệnh tật và thuốc men. Hơn nữa anh lại ít khi ốm đau nên chả quan tâm đến việc này nhiều. Đang ngồi bần thần bên cạnh vợ anh chợt thấy Thơ mấp máy môi nhợt nhạt bảo cho cô ấy đi giải. Vừ đỡ vợ trên tay anh vừa nghĩ : nếu cứ nh thế này thì có lẽ cô ấy sẽ chết mất. Nghĩ đến đây anh thấy trong lòng mình có gì đó dâng lên đắng chát. Hai bên cánh mũi cay cay, lòng rưng rưng muốn khóc. Anh đỡ Thơ ngồi xuống để cô đi giả trong khi hai tay vẫn phải ôm ngang mình Thơ, vì nếu buông ra thì Thơ không tài nào trụ vững được nữa. Suốt ngày nay Thơ vẫn ra máu không lúc nào ngừng. Thuốc men của bệnh viện không còn làm gì được nữa sau mấy lần hội chẩn. Vừa lúc đó Hằng thấy hình như Thơ đã ngất đi sau khi có một cục máu đông bằng bao diêm rớt xuống sàn. Thế là Hằng hối hả đỡ vợ về phòng cấp cứu kêu gọi các y bác sĩ. Chính trong lúc ấy bệnh viện đã quyết định chuyển Thơ về bệnh viện tỉnh. Nhìn đồng hồ thấy đã 5 giờ Hằng lo lắng:
- Tại sao từ sáng các anh không cho chuyển? Bây giờ mới cho chuyển là thế nào?
- Anh thông cảm cho, hiện bây giờ viện không có máu để tiếp cho bệnh nhân.
- Thế sao các anh chuẩn bị lâu thế?
- Hiện nay không có người hộ tống trên đường anh ạ!
- Thế nếu không có người đi theo nhỡ người nhà tôi nguy hiểm thì làm thế nào? Tôi đề nghị các anh tập trung cứu chữa ngay tại đây.
Vừa lúc đó có một bác sỹ đứng tuổi vừa đến nói chen vào:
- Ban lãnh đạo đã hội chẩn ba lượt rồi nhưng vẫn bế tắc, có lẽ anh nên đồng ý với chúng tôi nên đưa chị ấy đi sớm may ra mới cứu được.
- Thế sao đã mấy ngày nay các anh chị không quan tâm đế cô ấy...Trong khi đó mỗi ngày tôi lên gặp gỡ đề nghị mấy lượt chứ có phải ít đâu.
- Thật tình chúng tôi cũng đã cố nhưng...việc ấy chúng tôi sẽ rút kinh nghiệm sau, anh nên cho chị ấy đi sớm thì tốt hơn, vì chị ấy đang trong tình trạng ra máu không cầm được. Chúng tôi sẽ có một y tá đi hộ tống.
- Tôi đề nghị phải có bác sĩ, tôi mới cho đưa người đi.
Hình như những cán bộ y tế của viện đã nhận thấy những thiếu sót của họ nên họ luôn mềm mỏng chấp nhận yêu cầu của Hằng. Nhìn vợ ngày một lả đi Hằng giận những người cán bộ y tế nọ không biết chừng nào nên đành thoả hieepj với họ để đưa Thơ lên bệnh viện tỉnh. Anh bỏ mặc những ngưòi cán bộ y tế đứng đó chạy vào buồng cấp cứu lấy đồ đạc. Trong đầu anh đã nghĩ đến việc có lẽ con gái anh sẽ mất mẹ vì trận ốm và sự vô trách nhiệm của mấy người cán bộ y tế nọ. Thực ra thì trong mấy ngày vừa qua Thểua máu như các kỳ kinh mà thôi. Mãi đế lúc đưa Thơ đi giải lúc chiều thì tình trạng xuất huyết mới ồ ạt đến vậy. Cũng chính trong lúc vừa lo lắng ấy không hiểu sao Hằng lại nghĩ đến lần Thơ hay bị ngứa mẩn khi Thơ mang thai con bé lớn. Thế rồi Hằng lại nghi ngờ chuyện xuất huyết khối như vừa rồi là hiện tượng sảy thai thì đúng hơn. Nghĩ đến đây Hằng lại phủ định lại mình khi nhớ rằng Thơ bảo kỳ kinh trước đó vẫn có, cho dù từ ấy đến nay mới quá chưa đến một tuần. Có thể Thơ chậm kinh do ốm mà thôi. Tuy vậy anh cũng vẫn phân vân : nhỡ ra ngay sau kỳ kinh Thơ có mang thì sao? Nhưng sao mới chỉ có một tháng mà mầm thai đã lớn như khối máu vừa rồi được chăng? Cuối cùng thì anh cũng quyết định chạy sang sản khoa gặp bà chủ nhiệm khoa sản. Tất nhiên bà bác sĩ này không lạ gì cái việc viện đã ba lần hội chẩn, nhưng khi nghe phân tích khá kỹ về các nhận định của anh thì bà đã tán thành đưa Thơ về buồng sản để thăm khám. Vừa mới xem qua trong mấy phút bà đã kêu lên:
- Đúng là sẩy thai rồi, nhân viên buồng sản đâu chuẩn bị gấp dụng cụ về phòng số 5 ngay.
Hầu như tất cả những người cán bộ y tế ở gần khu vực phòng khám, phòng trực đều đi vội đi vàng sang phòng sản. Có lẽ cái số của Thơ có thể vượt qua hiểm cảnh nên chỉ sau hai mươi nhăm phút thì việc nạo nhau đã xong. Cùng với việc nạo xong thì Thơ cũng không còn ra máu nhiều nữa. Mọi người bệnh biết việc này đều mừng cho vợ chồng Thơ, còn những người cán bộ của viện thì cũng thở phào nhẹ nhõm. Họ không bình luận gì nhiều như mọi khi, tuy vậy nếu nhìn trên nét mặt thì nhận ra rằng họ muốn nói nhiều điều trong cái sự vui mừng vừa mới xảy ra trước mắt họ. Những người hộ lý đẩy xe đưa Thơ trở lại phòng trực cấp cứu và tổ chức tiêm thuốc cũng như xếp đặt lại những đồ đạc của Vợ chồng Thơ để lộn xộn khi Hằng quăng tạm đó để tìm bà trưởng khoa sản.
Một đêm thức trắng trong lo âu về những gì có thể xảy ra đối với Thơ cũng đã đi qua. Hằng vừa chăm chú theo dõi tình trạng bệnh của Thơ vừa suy xét lại đoạn đối thoại của anh với viện xem có gì tệ hại quá hay không. Anh biết là lúc ấy anh rất khó chịu, vì ở hoàn cảnh ấy ai mà không thế. Nhưng cũng may là anh chưa có gì xúc phạm quá mức với những người cán bộ y tế của viện. Có thể nói gì được khi mỗi ngày ở cái bệnh viện nhỏ này có bao nhiêu người cần đến họ, còn họ thì túi bụi, tất bật với mọi người trong khi ở nhiều cơ quan đàn ông chỉ chuyện phiếm, đàn bà thì đan len cho mình hết ngày này sang ngày khác.
Còn chưa đến giờ làm việc mà đã có nhiều bác sĩ đến thăm Thơ. Những người này chắc là có gia đình ở ngay cạnh viện. Hằng tươi vui trở lại kể về tình trạng bệnh của Thơ cho họ nghe, mặc dù họ chỉ cần hỏi hai nhân viên trực tại phòng cấp cứu thì đã biết quá rõ chứ cần gì đến một vị người nhà bệnh nhân. Tuy nhiên Hằng nhận ra rằng trong con mắt họ có gì đó hơi nể Hằng. Chắc có lẽ là họ muốn xoá đi cảnh đối đáp căng như dây đàn buổi chiều hôm trước.
Dù Thơ đã tỉnh táo trở lại nhưng viện vẫn cho nằm tại phòng trực cấp cứu, như có ý quan tâm bù đắp cho sự chưa phải của những ngày trước đó. Thậm chí cho đến khi xuống khoa nội, cả khi về cơ quan rồi mà Hằng đến xin cho Thơ nghỉ thêm, viện cũng vẫn cấp giấy cho. Còn có một điều may hơn nữa là trong những ngày chung sống với mọi người ở công trường vợ chồng Hằng luôn tốt với mọi người nên khi nhà Hằng gặp khó khăn thì ai nấy đều ra sức giúp đỡ. Chính vì vậy mà gần nửa tháng trời Thơ bị ốm, con bé con vẫn được cô Huấn giữ trẻ cùng với mọi người chăm nom chu đáo. 

                                                           4


            Suốt năm 1978 qua đi trong nhịp sống bình lặng với những công việc cơ quan và công việc gia đình.. Thơ thì đã khoẻ lại, đi làm cùng với mọi người. Hằng vẫn bận bịu với công việc tại cơ quan nhiều hơn là chăm lo cho gia đình. Cũng may là Thơ cũng là người yêu chồng, thương con nên cô chẳng bao giờ phàn nàn điều gì cả. Có lẽ cô cũng tự hào với bè bạn khi chồng mình luôn tiến bộ trong công tác và tốt nết trong cư xử với mọi người xung quanh hàng xóm, được mọi người yêu quý.

Chiều nay Hằng được đồng chí cán bộ công đoàn mời lên gặp không biết có chuyện gì. Công việc đại tu đang vào tiến độ cuối nên mãi chiều muộn anh mới lên gặp đồng chí cán bộ công đoàn. Cũng may là anh ấy còn đang họp nên chưa về. Thế là Hằng lại phải đợi đến gần cuối giờ mới gặp được. Vừa mới gặp anh đã nói để thanh minh:
- Tớ bận họp thành ra cậu lại phải chờ, thông cảm cho tớ nhé.
- Không sao anh ạ.
- Thôi anh em mình trao đổi một tý thôi. Tinh thần công việc như thế này. Ngày kia vào bẩy giờ cậu đến hội trường hai mươi lăm bê (25 B) để dự hội nghị sáng kiến do tỉnh mời.
- Thế có ai đi nữa không anh?
- Có có, có anh Kháng phó giám đốc đại diện đơn vị là khách mời. Còn cậu là đại biểu chính thức đấy nhé. Nhớ chuẩn bị nội dung, để nếu họ yêu cầu phát biểu thì lên nói được ngay.
Cũng phải đến bẩy rưỡi hội nghị sáng kiến của tỉnh Thanh Hoá mới bắt đầu khai mạc. Sau một số công việc khánh tiết thì những đơn vị có nhiều sáng kiến lên báo cáo thành tích. Hết nông trường Sao Vàng lại đến đơn vị trong ngành công nghiệp của tỉnh và các đơn vị của Trung ương đóng trên địa bàn tỉnh. Tiếp theo là các cá nhân lên phát biểu. Có lẽ thời gian còn lại quá ít nên nhiều báo cáo hội nghị buộc phải công bố dừng lại và hứa sẽ in trên báo Thanh Hoá để mọi người đọc. Hết phần báo cáo đến phần đọc quyết định khen thưởng các tập thể và các cá nhân. Hằng được tặng một bằng khen và được nhận một món quà là một chiếc quạt điện cơ ba mươi hai oát. Quạt này là loại hàng quý hiếm khó mua được vì nó nằm trong danh mục cung cấp nên bên ngoài không có bán.
Rất nhiều năm gia đình Hằng chưa bao giờ có cái quạt nào, những khi nhìn thấy nó ở một số gia đình ở trong khu tập thể Hằng chỉ ao ước làm sao có một cái để quạt cho con bé con gái của anh, nhưng có lẽ là không bao giờ đến lượt anh mua. Cách đó hơn một năm cả đơn vị được phân một cái, phân xưởng cân nhắc mãi mới phân cho anh Cầu thợ hàn, từ ấy đến nay chẳng có thêm lần nào nữa. Hằng thật phấn khởi khi lên ban tổ chức nhận chiếc quat về. Còn gì mừng hơn khi bỗng dưng ao ước Hằng đạt được.
Khi Hằng vừa mang chiếc quạt về nhà anh đã cắm điện cho quay thử. Một làn gió mát từ chiếc quạt thổi thẳng vào mặt anh làm cho mớ tóc bù xù đã rối lại càng thêm rối. Anh ngồi nghĩ đến con gái hôm nay sẽ không còn kêu nóng, Thơ không còn phải cầm cái quạt nan phì phạch nữa mà vui ngầm trong lòng. Chiều muộn Thơ mới đi làm về. Cô đón cả con bé con về từ nhà trẻ về nhà. Vừa vào đến nhà cô ngạc nhiên sững cả người vì không biết quạt của ai lại để trên giường nhà mình. Mãi lúc sau Hằng kể chuyện quạt đó là phần thưởng của anh thì cô mừng ra mặt. Hai mẹ con cứ ngồi hóng gió và ngắm cái quạt, quên cả việc phải lo bữa cơm chiều.
Hình như nhà nước chỉ đạo tất cả các địa phương, các cơ quan triển khai cái việc tổng kết sáng kiến thì phải. Chiều qua lại thấy tổ thông báo cho Hằng đi dự hội nghị sáng kiến tại Công ty điện lực miền Bắc ở Hà Nội. Hằng càng phấn khởi hơn vì về Hà Nội nhất định Hằng sẽ được về thăm mẹ. Sau một đêm đi tàu hoả Hằng đã đến địa điểm tổ chức Hội nghị sáng kiến của Công ty. Hằng được bố trí ở một phòng trên khách sạn Giảng Võ với một người nào đó mà anh không biết. Mãi sau khi ăn cơm chiều về Hằng mới gặp ông bạn ở cùng, anh ấy là một người Việt gốc Hoa. Anh là một cán bộ chủ chốt ở phòng kỹ thuật của nhà máy điện Lào Cai. Anh có cái tên là Phùng Tầu Cam, một cái tên rất là Trung Quốc. Buổi họp cũng khá dài và nhiều báo cáo khá độc đáo ai nghe thấy cũng phấn khởi. Vui nhất là các bữa ăn tập trung tại khách sạn đều thịnh soạn không phải đóng tiền và tem phiếu, lại gặp nhiều đồng chí cán bộ to của ngành. Hằng vừa ngồi xuống ghế thì có một đồng chí béo lùn đến ngồi cạnh. Hằng đon đả mời đồng chí cán bộ ngồi xuống. Sau nhiều câu hỏi thăm mọi người Hăng mới biết đồng chí ấy là Vũ Hiền, giám đốc công ty điện lực miền Bắc...
Đúng là năm nay Hằng gặp may hơi nhiều. Mới có cái quạt của tỉnh Thanh Hoá tặng bây giờ lại được một cái quạt nữa do Công đoàn Công ty điện lực miền Bắc tặng. Thế là anh sẽ có cái quạt nữa cho mình mà không phải nằm ké hai mẹ con Thơ. Những năm này tuy cả nước còn thiếu điện nhưng các cơ quan nhà nước vẫn chưa đặt vấn đề thu tiền điện mà chỉ trừ vào lương với một chỉ số rất nhỏ còn ai dùng nhiều ít thì cũng chẳng ai bảo sao. Tuy nhiên việc dùng điện chủ yếu là cho quạt mát và thắp sáng là chính. Còn việc đun nấu bằng bếp điện thì hầu như các các cơ quan đều cấm cả.
Từ cuối năm ngoái Thơ đã được điều về xí nghiệp để làm việc ở tổ cơ khí vì bận con nhỏ. Thế là Hằng lại phải khăn gói quả mướp theo vợ con về khu tập thể của Xí nghiệp xây lắp đóng ở làng Nhồi. Gọi là khu tập thể của xí nghiệp nhưng hầu như các nhà ở cũng chả hơn ở công trường là mấy. Khổ nhất là các căn hộ đều quá chật hẹp nên nhà nào nhà nấy cứ như là cái lò nung mỗi khi hè đến. Còn mùa đông thì chả khác gì cái cửa hàng bán đồ trẻ con vì nhà nào nhà nấy đều giăng đầy khăn, tã lót và quần áo trẻ con từ ngoài hiên vào đến trong nhà
                                       

                                                        ĐI PHẢ LẠI

                                                                1

          Những người ra Phả Lại được chở trên một chiếc xe tải có mui bằng tôn hoa. Số anh em ra đi hầu hết có một mình, chỉ có Hằng và anh Khâu là chuyển cả gia đình ra đơn vị mới. Về phía gia đình Hằng thì đã rõ vì lý do thu gọn gia đình về cùng một cơ quan, hơn nữa Hằng muốn về gần nơi bà mẹ đẻ ra anh đang cư trú để có cơ hội trông nom, trong khi cụ đã già yếu. Còn anh Khâu thì chẳng có lý do nào để anh phải  mang cả gia đình ra ngoài này trong khi vợ con anh đang sống ổn định cùng một cơ quan và hình như lại đang xin đất làm nhà riêng ở gần khu tập thể. Bố mẹ anh em thì vẫn sinh sống ở Thanh Hoá, nơi mà gia đình anh đã coi như quê thứ hai của mình. Cũng có một vài dư luận cho rằng anh bị thất sủng với mấy vị cấp trên nên họ cố ý điều anh đi với danh nghĩa là điều những thợ giỏi cho cơ sở mới. Số còn lại đều là các anh em tập thể, với lý do điều động ra xây dựng đơn vị mới trong ngành. Lẽ dĩ nhiên là họ không muốn rời quê hương để đi xa như thế nhưng do chính sách của trên nên phải chấp hành mà thôi. Lần đi này chỉ có Hằng là mang theo hai đứa con gái ra cùng, còn anh Khâu thì vợ con vẫn còn ở lại ra sau. Hằng luấn quấn xếp đi xếp lại cái rương, cái tủ và mấy cái cái thùng xong thì chiếc xe tải cũng bắt đầu chuyển bánh chở theo đám người mệt mỏi vì lo nghĩ và chờ đợi. Sau một hồi léo nhéo với nhau hai đứa con của Hằng đã bắt đầu ngủ gà, ngủ gật. Hằng kéo cái Uyên ngồi gần lại bên cạnh rồi giơ hai tay ra đón cái Viên từ tay anh khâu đưa cho. Anh kéo lại quần áo cho con khỏi xộc xệch rồi để con bé vào lòng. Nó đã gà gật ngay từ lúc ra xe, nhưng vì thấy đông mọi người với lại sung sướng vì được đi ô tô nên giờ đây nó mới ngủ say hơn khi cái xe rung đều đều như đưa võng.
          Hằng tựa lưng vào thành tủ quần áo, hai mi mắt khép lại nhưng không tài nào ngủ được. Anh chưa hình dung được trong những ngày tới ba bố con anh sẽ ăn ở ra sao. Lại còn Thơ và thằng cu Tiến còn đang ở Thanh Hoá chờ quyết định ra sau. Những người giao quân số thì đi bằng một chiếc xe Com măng ca mui bạt, loại xe bốn hoặc năm chỗ ngồi do Rumani sản xuất, dành cho các cán bộ đi công tác.
          Quãng đường thật là dài bởi chiếc xe đi khá chậm chạp và xóc do đường quá xấu và có nhiều xe lưu thông. Trên dọc đường đi người ta nhận ra sự xuống cấp quá độ từ những mảng vá víu chằng chịt, cùng những cây cầu cũ kỹ còn đầy dấu tích bom đạn chiến tranh. Qua Hàm Rồng một đoạn là đến cầu Tào, cầu Đò Lèn, cho dù mới được sửa chữa nhưng cũng không khá hơn được bao nhiều.
          Hằng cũng thiếp đi cùng với sự lắc lư của chiếc xe tải trong một thời gian khá dài. Anh chỉ tỉnh dậy khi con bé cái Viên cọ quạy sờ vào bụng bố đòi uống nước. Hằng với cái phích vỏ sắt màu ghi của ông bố vợ gửi cho hồi mới có cái Uyên. Cái phích đến được với gia đình nhà Hằng cũng chẳng dễ dàng gì trong cái thời buổi khan hiếm lúc đó. Cái phích ông bố vợ cho ban đầu chỉ có mỗi cái ruột người ta quen gọi là cái Téc mốt, nếu mua phân phối chỉ độ sáu đồng rưỡi mà thôi, nhưng đây là hàng chỉ có nhà nước mới có nên rất quý hiếm. Để có thể đựng nước được, Hằng phải mua một cái vỏ đan bằng nan tre để lắp vào. Có lẽ phải đến mấy tháng sau anh mới dùng tay nghề lâu nay phục vụ nhà nước để gia công cho mình được một cái vỏ bằng tôn hoa tiết kiệm được sau những lần gò khay, gò chậu cho đơn vị. Cái vỏ phích hình ống bằng tôn không được lăn ren nên chụp trên được gò mép cố định, còn dưới đáy thì được bắt ba cái vít giữ tấm sắt lót cao su đỡ cái ruột phích. Về hình thức cái vỏ Hằng gò khá giống với cái vỏ của nhà nước nên ai cũng thích. Khối người có ý muốn nhờ anh làm giúp một cái như vậy để thay những cái vỏ tre đan. Thế mà mới chỉ dùng được hơn hai tháng Hằng đã phải cho đi vì anh may mắn được ông bố vợ gửi cho cái vỏ của nhà nước chế tạo, cho dù bông hoa phong lan không được nổi lắm trên nền màu ghi tối của cái vỏ. Giờ đây thì cái chụp và cái đế nhôm đã nhom nhem màu nước chè vàng xỉn.
          Mãi gần hai giờ chiều Xe ô tô chuyển quân của Thanh Hoá mới dừng lại trước cổng của trụ sở Công ty điện lực miền Bắc ở hai mươi Trần Nguyên Hãn. Hai đứa con gái của Hằng được một phen thả xuống đường Hà Nội cứ chạy hết chỗ này đến chỗ nọ làm Hăng cứ phải để mắt vào chúng. Hằng mua cho các con hai cốc nước chè xanh pha đường trong khi chờ cán bộ nhà máy vào liên hệ với Công ty. Lũ con của Hằng không thích nước lắm mà chỉ thích cầm các cục đá lạnh để nhai ngau ngáu để mặc cho nước chảy cả ra ngực áo. Thấy lũ trẻ thích đá, anh Khâu cũng lựa các viên đá trong cốc của mình ra đưa cho hai đứa trẻ nhà Hằng.
          Sau khi trao đổi với Công ty xong thì số cán bộ trên chiếc xe con chia tay với mọi người để quay trở lại. Chỉ có một cán bộ nhân sự lên xe tải cùng đi với mọi người về Phả Lại. Con số trên xe tải cũng bớt đi một người với lý do dừng lại ở Công ty để gặp người quen trong lãnh đạo, xin trở lại đơn vị cũ.
          Có lẽ cũng phải gần bốn giờ chiều xe mới đến được bến phà Phả Lại. Từ đây đã thấy được không khí nhộn nhịp của công trường xây dựng với những ồn ào của tiếng nói của hàng trăm con người đang gọi nhau, ra lệnh làm một việc gì đó. Tiếng ồn ào của máy móc chuyển động quay tròn, nâng lên hạ xuống, của xe rú ga lên dốc, của tiếng mìn nổ phá đất đá ở chân núi xa xa. Chiếc xe tải vẫn cần mẫn bò qua các doi đất bị dồn bởi hai lằn bánh xe đi cạnh nhau là cho mọi thứ như muốn bị xô xuống mặt đường. Hằng nghĩ có lẽ mấy thứ dễ vỡ và có phần ọp ẹp của nhà mình chắc lần này sẽ không còn giữ được nữa. Người ta nói với nhau rằng:"Ba lần chuyển nhà bằng một lần nhà cháy"có lẽ cũng đúng chứ chẳng sai. Chẳng nói gì xa xôi đến như nhà Hằng vừa qua cũng phải bán đi chiếc giường lim mới mua được, vì sợ mang đi trên ô tô sẽ bị gẫy hỏng. Rồi thì còn bao nhiêu thứ gom nhặt mua sắm để dùng cũng phải cho đi vì không mang được. Cho dù những vật vặt vãnh ấy giá trị sử dụng không là bao nhưng nếu không có là không có cái để dùng.
          Khi chuyển hết được đồ đạc từ trên xe xuống thì trời cũng đã tối. Trong lúc các anh em tập thể xuống bếp tập thể ăn cơm thì Hằng bắc bếp dầu nấu cơm cho các con ăn. Cũng may là anh đã mua sắm thức ăn trước lúc lên xe nên bây giờ có cái để nấu ăn. Cũng có một số anh em ở các đơn vị khác đến trước đến giúp anh một số việc như mượn giường chiếu. Có mấy cô gái thì đón hai cái tý con ra rửa chân tay mặt mũi. Cũng may là mấy đứa trẻ nhà Hằng không lạ người ngoài nên không quấy quả trong lúc anh bận nấu cơm. Khi hai cái tý ăn xong mấy cô lại dẫn đi chơi nên Hằng mới có thời gian để dọn dẹp tiếp những đồ đạc cất trong tủ và trong các thùng tôn. Cũng may là anh chèn chặt nên mọi thứ còn nguyên vẹn.
          Một ngày bận bịu với con cái và các đồ vật cũng đã qua đi. Khi tất cả đã chìm vào bóng đêm khá lâu Hằng mới có điều kiện ngồi một mình để rồi nghĩ lại về tất cả các công việc trong đợt di chuyển vừa qua. Anh cũng không ngờ được cái vùng Phả Lại lại cách quá xa cái làng quê nhỏ bé mà gia đình Hằng đã coi như là quê thứ hai. Gọi như vậy bởi vì ta vẫn thường coi nơi quê cha là quê chính, tuy nhiên cái quê chính ấy nhiều khi cả ông bà cha mẹ ta cũng chả ở đó được bao nhiêu thời gian. Thành ra cái ước muốn về gần nhà để có điều kiện chăm sóc mẹ trong lúc tuổi già cũng khó thực hiện được nhất là gia đình Hằng hiện vẫn phải sống xa nhau. Cái cơ ngơi mà Gia đình Hằng ở tạm cũng vẫn chỉ là một gian nhà tập thể của một cơ quan sơ tán trong thời chiến tranh nhượng lại cho nhà máy sử dụng để đón tiếp công nhân về làm việc với nhà máy sau này. Hằng còn phiền muộn hơn khiThơ và cu Tiến vẫn chưa chuyển ra được do cán bộ tổ chức của nhà máy gây cản trở. Càng nghĩ đến những ngày anh gặp ông Hiên và ông Lọng ở Công ty mấy bữa trước anh lại thấy buồn.
          Khi còn ở Thanh Hoá anh thấy nhiều người nói vùng này khá gần Hà Nội, cũng chính vì thế nên anh đã nhờ Đại gửi danh sách của anh vào nhóm đề nghị được ra Phả Lại trong khi anh Sước quản đốc phân xưởng Cơ điện thì lại muốn để anh lại làm nòng cốt cho tổ sửa chữa máy sau này. Anh có ngờ đâu sau khi lên tầu ra Hà Nội rồi phải đạp xe mấy chục cây số theo đường Dâu, Keo lên ngã tư Đông Côi rồi mới đến bến Than. Thế mà từ bến Than sang Phả Lại còn phải qua  một tầm đò dọc dài gần hai tiếng đồng hồ. Quãng đường đi tắt mà cũng đã gần năm mươi cây số như vậy thì sau này về thăm nom mẹ cũng chẳng được thường xuyên. Cái việc xa xôi cách trở ấy dẫu sao cũng không quan trọng bởi tháng tháng anh vẫn có thể về với mẹ được, không như trước đây cả năm chưa chắc đã về nổi một lần. Điều phiền muộn mà anh nghĩ đến là sự bất đồng ý kiến của anh với ông trưởng phòng tổ chức trong lần tiếp xúc ban đầu. Nơi mà sau này sẽ nắm giữ vai trò trọng yếu mọi mặt đời sống và quyền lợi của anh.
          Hằng cũng không may mắn cho lắm ngay trong buổi đầu tiên bởi mấy lần lạc đường trở đi, trở lại nên khi đến bến Đại Than thì vừa lúc nhà đò nghỉ trưa ba tiếng đồng hồ, chờ sang chiều mới lại chở tiếp. Một mình nằm bên những cây đay vừa chở từ bãi ngập nước lên bờ mà lòng buồn không bút nào tả được. Đến khi đò vượt hai sông sang đến cống Phao Tân thì đã gần ba giờ rưỡi. Hỏi thăm được đến phòng tổ chức nhà máy đóng ở Đồi Cao thì đã thấy các cán bộ nhân viên rục rịch ra về thành ra việc gì cũng vội vàng không kịp nghĩ suy cân nhắc.
          Ông cán bộ tổ chức có tên là Hiên, một cái tên nghe đến hiền lành và thân thiện. Ông có khuôn mặt đầy đặn và sáng sủa hứa hẹn một sự phát đạt cao hơn hiện tại. Hình như những người làm cán bộ tổ chức đều có vẻ mặt khá giống nhau về nhiều phương diện. Nhìn họ ta không hiểu họ yêu hay họ ghét mình. Riêng ở ông Hiên thì khuôn mặt còn tỏ ra sự dễ dãi và thông cảm đến không ngờ. Thế nhưng chỉ sau vài câu tiếp xúc ta nhận ra cái sự cứng rắn đến ghê người của ông thông qua những câu hết sức ngắn gọn. Cái sự ngắn gọn đến mức làm cho ta hết hy vọng nài nỉ, cầu xin những điều cần thiết ở nơi ông. Cũng có thể vì Hằng là người lạ mà lại chỉ là một người công nhân cấp dưới nên ông tỏ ra thế chăng. Còn khi ông gặp những người thân cận hoặc cấp trên khuôn mặt có sự biến đổi khác chăng nên mãi cho đến sau này nhiều người vẫn khen ông là người hiền lành và nhã nhặn thậm chí còn bảo ông rất tốt với mọi người. Hằng chắc cũng sẽ nhận định chung như mọi người nếu như Hằng và gia đình Hằng không là nạn nhân của ông trong mấy chục năm sau đó.
          Biết là đã muộn giờ nên sau những câu chào xã giao thông thường Hằng liền đề cập đến mục đích mà anh đến gặp ông:
          - Báo cáo anh, tôi là Hằng hiện công tác ở sở điện Thanh Hoá xin gặp anh một lát ạ.
          - Anh gặp về việc gì?
          - Hôm trước cán bộ nhà máy ta về Thanh Hoá đã đồng ý tiếp nhận nhà tôi, nhưng vì lúc ấy nhà tôi chưa chuyển về nhà máy điện Thanh Hoá nên các anh ấy bảo cứ cắt chuyển về Phả Lại rồi trực tiếp ra lấy giấy tiếp nhận là có thể chuyển cả gia đình trong cùng một lúc.
          - Thế thì việc điều chuyển này hiện nay vẫn chưa có chủ trương anh ạ.
          Nghe ông Hiên nói thế Hằng giật mình đứng ngây ra một lúc không biết ăn nói ra sao với vị cán bộ nọ. Anh lục trí nhớ trở lại mấy ngày trước và anh nhớ rằng ông cán bộ của công ty đã nói rõ về chủ trương tiếp nhận vợ, chồng công nhân ngoài ngành nhưng học và làm nghề điện đấy thôi. Chẳng những thế ông cán bộ tổ chức sở điện Thanh Hoá cũng đã nói rất rõ về điều này, thế mà sao giờ đây lại...vừa nghĩ đến đây Hằng đã nói ngay:
          - Thế sao hôm trước cán bộ nhà máy đi nhận người nói tôi có thể đến nhà máy trực tiếp lấy giấy tiếp nhận, thành ra tôi đã cắt chuyển cả rồi .
          - Thế nhưng nhà máy ta đang thiếu nơi ăn ở nên việc này tạm thời chưa nhận. Anh đợi thêm mấy tháng nữa rồi chúng tôi sẽ giải quyết.
          - Nếu thế thì đề nghị các anh cứ cho chuyển, chỗ ăn ở chúng tôi sẽ tự thuê tạm vậy.
          - Không làm thế được anh ạ.
          - Anh bảo khó khăn nơi ở thì tôi sẽ tự lo được mà.
          - Biết vậy nhưng việc này hiện vẫn phải chờ chủ trương chung rồi mới giải quyết được anh ạ.
          - Hôm gặp cán bộ nhà máy về xin người, ông ấy nói sẽ tạo điều kiện tiếp nhận ngay vợ con công nhân về ngành để cùng chuyển về nhà máy ta...thành ra nhà máy trong đó chỉ tiếp nhận rồi chuyển tiếp mà không bố trí công việc.
          - Chúng tôi cũng biết vậy nhưng các anh cũng thông cảm với nhà máy chờ thêm một thời gian nữa nhé.
          - Báo cáo anh, hiện nhà tôi đã nghỉ chờ đợi! Tôi sợ thời gian công tác của cô ấy không liên tục, với lại việc nhập và cắt hộ khẩu cùng với lương thực, thực phẩm cũng cần có quyết định tiếp nhận mà nhà máy trong đó không thể thực hiện được do giới thiệu di chuyển lại viết về nhà máy ta rồi anh ạ.
          Sau nhiều lần Hằng nói đi, nói lại về hoàn cảnh khó khăn của gia đình mình nhưng ông Hiên vẫn không thay đổi ý kiến, ông lạnh lùng đáp lại lời Hằng:
          - Tôi chỉ có thể trao đổi với anh như vậy, việc anh đề nghị hiện nay chưa giải quyết được. Anh hãy chờ đợi điều động sau mấy tháng rồi sẽ đến.
          - Thế trong mấy tháng ấy gia đình tôi sẽ lấy lương thực, thực phẩm ở đâu để sống?
          - Cái đó thì tôi không thể giải quyết được. Tôi chỉ có thể tiếp nhận chị ấy sau ba tháng nữa, đấy là thời gian ngắn nhất có thể. Nếu anh không chấp nhận thì lên gặp công ty trên Hà Nội để bàn với chúng tôi  và công ty vào sáng thứ hai tới.
          Cũng chẳng cần Hằng có đồng ý hay không ông Hiên đã kẹp cặp tài liệu vào tay quay ra cửa để lên xe ô tô về khu tập thể. Hằng buộc lòng quay ra bến phà đạp xe để về Hà Nội kẻo trời cũng đã sắp tối.

                                                                   2

          Mặc dù chân tay vẫn còn rời rã do mới đạp xe hàng trăm cây số trong ngày hôm thứ bẩy nhưng Hằng vẫn dậy sớm để ra Hà Nội. Cũng may nhà anh chỉ cách Hà Nội có non chục cây số nên anh ra đến Tổng Công ty Điện lực cũng khá sớm. Hằng gửi xe xong liền lên trụ sở của Phòng Bẩy để gặp ông Lẫm trưởng phòng. Hằng đã đến Phòng Bẩy mấy lần, ngay từ khi ông Thực người Thanh Hoá còn làm trưởng phòng nên chẳng lạ gì nơi ấy.
          - Báo cáo anh, em là Hằng ở Sở điện Thanh Hoá thuộc diện điều động về Phả Lại, xin gặp anh một lát ạ.
          Ông Lẫm còn đang ngắm nghía chàng trai đứng trước mặt để xem anh ta là ai hoặc đã gặp ở đâu chưa thì Hằng đã lại tiếp tục nói thêm.
          - Hôm trước em đã lên Phả Lại gặp anh Hiên và anh Lọng xin giấy tiếp nhận để chuyển cho nhà em và các cháu cùng ra, nhưng các anh ấy chưa nhận lời. Các anh ấy có hẹn hôm nay gặp tại Công ty để giải quyết ạ.
          - Việc này Công ty đã phân cấp cho các đơn vị giải quyết rồi em ạ. Em cứ bám sát các anh ấy để lấy giấy rồi chuyển cô ấy ra thôi mà. Ngoài này đang thiếu nhiều công nhân lắm em ạ.
          - Trường hợp của nhà em là chuyển từ một đơn vị ngoài ngành về nhà máy của em rồi mới đi Phả Lại anh ạ.
          - Thì chính vậy anh mới bảo chú gặp nhà máy Phả Lại để lấy giấy chứ trong ngành thì thì Công ty điều là xong.
          - Nhưng các anh ấy bảo sau ba tháng nữa mới tiếp nhận được anh ạ.
          - Lý do?
          - Họ bảo chưa có nhà ở.
          - Có khi họ cũng khó khăn đấy, chú cố gắng đợi một chút có được không?
          - Cái khó là cả nhà em sẽ đong gạo ở đâu để sống trong mấy tháng ấy?
          - Thôi được anh đang dở một tý việc, chú cứ ra ngoài ấy chờ họ đến rồi anh em cùng bàn xem sao. Hôm nay họ có lịch làm việc ở đây đấy em ạ.
          - Họ có hẹn gặp em ở Tổng Công ty vào hôm nay để giải quyết mà.
          Mặc dù Tổng Công ty đóng ở ngay đầu đường Trần Nguyên Hãn, cách bờ hồ Gươm có một con đường nhưng anh cũng không thể ra mà ngắm cảnh hồ được vì sợ mấy ông cán bộ Phả Lại xuống sẽ không gặp. Hết đứng rồi lại ngồi ở cổng Tổng Công ty gần hai tiếng mà Hằng vẫn chưa thấy xe của Phả Lại đến. Anh đang định vào nhà gửi xe để lấy xe ra về thì chiếc ô tô con của Phả Lại đỗ ngay trước cổng. Từ trên xe bước xuống chính là ông Hiên và một người nữa mà anh cũng đã gặp hôm lên Phả Lại đó là ông Lọng trợ lý giám đốc. Một người có khuôn mặt khá đanh thép và ẩn chứa nhiều toan tính. Con mắt nhìn vừa có tý tinh nghịch nhưng đó là sự tinh nghịch ác hiểm. Cái trán cao và hẹp trên lớp da mặt đen xạm càng làm cho khuôn mặt ông bí hiểm hơn.
          Không để mất dấu, Hằng xuất hiện ngay trước mặt hai ông và bám sát hai ông cùng vào công ty. Lẽ dĩ nhiên là hai ông này đã nhận ra Hằng, họ gượng gạo bắt tay anh và bảo anh cùng đi lên tầng hai vào Phòng Bẩy ở ngay cửa cầu thang gác.
          Sợ hai ông này bận công tác khác nữa nên vừa ngồi xuống ghế Hăng chủ động đề nghị công việc của anh ngay với ông Lẫm :
          - Em báo cáo với các anh về trường hợp của em...
          Hằng còn chưa kịp nói hết câu ông Lẫm đã giơ tay ngăn lại:
          - Việc của chú tôi nắm được rồi, tôi đã trao đổi với anh Sủng bên nhân sự, tý nữa sẽ thảo luận với các anh ở Phả Lại, cứ uống nước đi đã.
          Thế là sau một lúc hàn huyên giữa chủ và khách tất cả lại đứng lên phân tán về các nơi trong khu vực của tổng công ty. Hằng ngồi ở ghế mà trong lòng nóng như lửa đốt vì chờ đợi. Ông Sủng thì cũng đang chúi mũi vào các trang sổ sách nên Hằng cũng ngại hỏi, sợ làm ông bị phân tán. Dẫu sao thì ông ấy sẽ phải nói với Hằng về việc Hằng đã đề nghị như ông Lẫm vừa đã nói lúc nãy. Có lẽ phải đến gần hai mươi phút ông Sủng mới ngẩng đầu lên :
          - Có tý việc gấp rút phải báo cáo, cậu thông cảm cho mình nhé!
          - Không sao anh ạ!
          Nói vậy nhưng trong bụng Hằng như có muối xát. Sau khi xếp lại đống sách vở ông Sủng lại giở tiếp những quyển vừa mới lấy từ cái ngăn tủ ra. Ông chăm chú lật giở dường như muốn tìm loại văn bản nào đó mà ông đã xếp chồng đống trong đống giấy tờ nọ, cuối cùng thì ông cũng reo lên:
          - Đây rồi, danh sách của Thanh Hoá đây rồi!
          Nói là vậy nhưng ông vẫn cứ lật giở từng tờ một để tiếp tục tìm kiếm.
          - Cậu nói vợ cậu tên là gì ấy nhỉ?
          - Lê Thị Thơ anh ạ!
          - Không thấy có là thế nào nhỉ?
          - Trường hợp của nhà em được chuyển theo một văn bản riêng vì cô ấy chuyển từ đơn vị ngoài ngành điện về rồi mới làm văn bản điều động anh ạ.
          - Thì ra thế! Có lẽ các anh Phả Lại ngại nhận người không có chuyên môn chứ gì?
          - Nhà em là công nhân điện học chính quy và lại đã làm trực tiếp hơn ba năm rồi đấy chứ.
          - Thế thì tốt quá còn gì? Thế sao không bảo đồng chí cán bộ tuyển người làm thủ tục ngay cho?
          - Lúc ấy nhà em chưa có giấy di chuyển nên chưa nhập về sở điện Thanh Hoá. Đến khi lấy được giấy thì các anh ấy đã đi rồi.
          - Thế bây giờ cậu đề nghị thế nào?
          - Thì chỉ cần Phả Lại cho giấy tiếp nhận là em chuyển nhà em từ sở điện Thanh Hoá ra ngay thôi anh ạ.
          Hai anh em mới trao đổi đến đó thì ông Lẫm cùng hai ông cán bộ Phả Lại trở về. Sau khi ổn định chỗ ngồi được một lúc thì ông Sủng lên tiếng:
          - Vừa rồi tôi đã xem giới thiệu của ban tuyển dụng về trường hợp của vợ cậu Hằng rồi. Cô ấy là công nhân điện bậc ba đã trực tiếp hơn ba năm như vậy là phù hợp với chủ trương đề nghị các anh Phả Lại xem xét giải quyết cho cậu ấy.
          - Không phải chúng tôi không giải quyết nhưng nhà máy hiện không có chỗ ở nên phải chờ đợi mấy tháng.
          Nghe ông Hiên nói vậy, Hằng nhận ra sự thực là ông Hiên không muốn chấp nhận vợ anh chứ chẳng phải vì trở ngại gì mà cần phải về tổng công ty bàn bạc mới thông suốt được. Giờ đây Tổng công ty cũng đã gợi ý chấp nhận thế mà ông ấy vẫn cố tình từ chối thì cái ý của ông đã rõ rồi. Anh định nhắc lại việc anh nói với ông ấy hôm ở trên Phả Lại là sẽ tự lo nhà ở trong lúc nhà máy chưa có nhà nhưng lại thôi. Anh thở dài nói dỗi:
          - Nếu đã khó khăn đến thế thì cần gì phải ép bao nhiêu công nhân ở trong đó phải gấp rút rời bỏ vợ con để ra ngoài này...nếu đã khó khăn đến thế thì sao không nói để người ta ở lại. Đến khi đã cắt hết cả hộ khẩu, lương thực rồi mới thế này thế nọ!
          - Việc này chúng tôi chưa có ý kiến gì cả.
          - Người của các anh nói... những là vì ngành điện, vì nước vì dân, rời quê hương, gia đình...còn tôi may  là về gần nhà hơn một chút thì khó khăn đến vậy!
          Thấy Hằng có vẻ nóng nảy ông Lẫm vội lên tiếng:
          - Em cứ bình tĩnh, để rồi mọi người cùng suy nghĩ, thế nào cũng sẽ có hướng khắc phục.
          - Em đề nghị anh huỷ bỏ quyết định điều động của em để em về trong đó vậy.
          Thấy tình hình ngày một căng thẳng lại Nghe Hằng nói vậy ông Sủng cũng lên tiếng:
          - Cậu này thật là... Làm gì có chuyện đã báo cáo con số viết quyết định rồi lại huỷ đi được. Cậu phải bình tĩnh để giải quyết chứ. Mà cậu cũng biết, giám đốc tổng công ty có quyền điều động cậu mà không điều động vợ cậu! Chả lẽ cậu không sợ kỷ luật à?
          - Kỷ luật à? Bốn năm trời sống với bom đạn ở Hàm Rồng vì ngành điện. Đâu là lao động tiên tiến, chiến sĩ thi đua. Lại hơn sáu năm liền thay mặt công nhân ngành điện vào chiến trường chiến đấu. Vừa ra quân về đến nhà máy cũ lại phong trào sáng kiến, hết của tổng công ty, của bộ, lại đến của tỉnh, rồi lại lao động tiên tiến, lại chiến sĩ thi đua; đang là người như vậy bây giờ tự nhiên chống lại mệnh lệnh cấp trên, tự nhiên tiêu cực, tự nhiên trở thành người xấu. Chắc cũng có người hỏi nguyên nhân vì sao chứ, phải không anh? Với lại em nghĩ vừa rồi chỉ là anh hỏi thử vậy thôi chứ, những người như các anh đã là cán bộ tổ chức ở cấp cao... đạo lý của các anh, tâm tư của các anh làm sao có thể để một người như thế gặp cái sự bất công được?
          Trừ có ông Hiên và ông Lọng là ngồi im còn cả ông Lẫm lẫn ông Sủng đều phá lên cười. Hai ông này  buồn cười đến vậy chắc là vì động tác của Hằng giống như một chú bé đang hờn dỗi, làm mình làm mẩy hơn là đấu khẩu với các ông ấy. Sau khi hết cười ông Lẫm ghé sát vào tai Hằng nói:
          - Cậu hơi thẳng thắn quá đấy!
          - Tính em từ trước đến giờ vẫn như vậy anh ạ.
          - Tất nhiên thẳng thắn là tốt nhưng thẳng thắn đến mức như vậy làm cho người ta cảm thấy e ngại, khó gần. Thôi cứ về đi từ nay đến giữa tháng tớ sẽ điều cô ấy ra.
          Tuy là hai người trao đổi riêng với nhau rất nhỏ nhưng nếu chú ý thì cũng vẫn nghe được. Hằng đứng dậy chào mọi người ra về. Vừa nghe chào anh Sủng đã vội bảo:
          - Vào ăn trưa với các anh luôn thể, anh dặn lấy cả tiêu chuẩn cho chú đấy.
          Đến lúc này Hằng mới nhìn đến đồng hồ, thì ra đã hơn một giờ chiều rồi. Anh vừa quay ra cửa một cách vội vã vừa nói:
          - Thôi em về luôn để kịp lên tầu về Thanh Hoá.
          - Mãi đêm mới có tầu cơ mà.
          - Em phải về qua nhà ở bên kia cầu Đuống rồi mới ra tầu anh ạ!

                                                                   3

          Cuộc gặp của Hằng với mấy ông tổ chức cả cấp bé lẫn cấp lớn của ngành điện đã qua đi gần một tháng rồi mà vẫn chẳng thấy quyết định điều động của Thơ gửi về. Mấy lần anh định lên hỏi ông Hiên nhưng anh lại nghĩ chắc nếu có thì họ sẽ báo cho mình chứ họ giữ làm gì. Hay là ông Lẫm lại quên mất rồi không biết. Chờ mãi càng sốt ruột sáng nay thứ tư, anh quyết định báo nghỉ buổi sáng để lên hỏi phòng tổ chức xem sự thể ra sao. Vừa lên đến Đồi Cao anh gặp ngay ông Hiên đang đi xuống dốc, anh cất tiếng chào làm ông Hiên giật mình đứng lại. Anh sợ ông ấy bận đi nên cất giọng hỏi luôn:
          - Không biết nhà em đã có quyệt định chưa bác nhỉ?
          - Vẫn chưa thấy gì đâu chú ạ!
          - Sao thế nhỉ?... Bác ấy bảo sau mấy hôm bác ấy sẽ điều mà. Hay là bác xem lại xem có lẫn vào đâu không.
          - Vẫn chưa có mà! Nếu có thì tôi đã biết.
          - Vâng! Thế thôi chào bác.
          Vừa đi vừa nghĩ ngợi lung tung nên Hằng chẳng để ý đến xung quanh, chợt có ai đó chạm vào lưng anh.
          - Thế nào đã có giấy của cô ấy chưa?
          Vừa nghe nói anh đã nhận ra tiếng ông quản đốc của mình, anh liền quay lại:
          - Vẫn chưa có anh ạ...Có lẽ xin anh cho nghỉ cả ngày, lên tổng công ty xem thế nào.
          - Được, cứ đi đi...có xe chưa hay là lấy xe của tôi mà đi.
          - Em có xe để dưới kia rồi.
          Cũng chỉ kịp nói với anh quản đốc mấy câu như thế là Hằng cắm cúi xuống chân đồi để sang phà về Hà Nội. Gần bốn tiếng đồng hồ Hằng mới đạp xe về đến Hà Nội. Mặc dù mỏi nhừ mỏi nhẫn cả người anh vẫn cố nhảy mấy bậc lên thang gác để vào phòng bẩy. Cũng may vừa vào đến cửa thì chạm mặt ông Lẫm đang đi ra. Vừa nhìn thấy Hằng ông đã hỏi:
          - Thế nào? Vợ con đã ổn định rồi chứ?
          - Đã có giấy tờ gì đâu mà ổn được.
          - Vớ vẩn! Quyết định tớ đã có nửa tháng nay rồi cơ mà. Hay là cậu không hỏi chỗ ông Hiên?
          - Em vừa mới hỏi ông ấy trước khi về đây anh ạ.
          - Hay là họ để lẫn vào đâu?
          - Ông ấy đã khảng định là chưa có, nếu có ông ấy đã biết.
          - Cậu không tin tớ chứ gì? Tớ lấy quyết định lưu cho cậu xem.
          Đọc tờ quyết định Hằng thấy rõ ràng là quyết định đã viết cách đây nửa tháng thật.
          - Hay là các anh quên chưa gửi?
          - Quên thế nào được! Tớ viết hôm phái đoàn tớ làm việc ở dưới ấy chứ có phải viết ở đây gửi xuống đâu.
          - Thế nhưng ông ấy cứ khăng khăng bảo không có thì làm thế nào? Thôi cho em mượn mang về dưới đó rồi hôm sau em lại mang về giả.
          - Ô cái thằng...quyết định lưu có một bản làm sao lại cho cậu mượn được.
          Cũng chẳng thèm nghe ông Lẫm nói gì nữa, Hằng gấp tờ quyết định lao vội xuống cầu thang mặc ông Lẫm đứng một mình trên đó. Cũng không cần cơm nước Hằng tiếp tục đạp hơn sáu mươi cây số trở về Phả Lại. Khi dắt chiếc xe đạp thống nhất lên đến chân Đồi Cao thì Hằng mới thấy thấm mệt. Gần một trăm hai mươi cây số đạp xe trong một ngày làm gì mà chẳng mệt. Anh giận ông Hiên và chỉ mong chóng gặp để nói vào mặt ông ấy những lời thật cay độc vì những gì ông ấy đã gây ra cho anh.
          Còn chưa kịp nghĩ mình sẽ nói câu gì với ông ấy thì đã thấy ông ấy từ trên đồi đi xuống, mặt tươi hơn hớn:
          - Chú Hằng đấy hả? Lúc nãy mấy cậu ấy đã thấy quyết định của cô ấy rồi. Chú lên trên phòng lấy về để làm thủ tục chuyển cho cô ấy.
          - Tôi tưởng anh không thấy, tôi đã mang quyết định từ công ty về đây này.
          - Chú lên Hà Nội về à? Làm sao các ông ấy lại cho chú lấy bản lưu ấy được?
          Hằng không còn đủ bình tĩnh nữa anh định nói tất cả những gì tồi tệ nhất nhưng không hiểu sao anh không thể cất lời lên được. Cuối cùng thì anh cũng nói được một câu vừa như trả lời, vừa như muốn nói rằng dù thế nào thì ông cũng không cản tôi được:
          - Anh không tin à?
           Vừa hỏi Hằng vừa lôi từ trong túi ra tờ quyết định mà anh đã lấy ở tổng công ty về giơ cho ông Hiên xem. Lẽ dĩ nhiên là ông Hiên đã nhận dạng được ngay vì những tờ quyết định này chính từ chỗ ông đã phát hành ra. Họ chào nhau thật là miễn cưỡng và mệt mỏi chả thể nào diễn tả ra được.

                                                                  4

          Chiều nay Hằng đã cắt xong tất cả giấy tờ và chế độ thì đột nhiên anh thấy người gây gấy sốt. Đã lâu lắm anh không sốt rét tái lại thế mà sao hôm nay lại sốt mới chết chứ. Mà cũng lạ cho cái kiểu sốt lần này. Sốt thì cũng chỉ có ba chín độ mà sao Hằng cảm thấy thật ghê sợ. Đầu đau như có ai cầm búa bổ vào, người thì rã rượi mê man tựa như muốn lả đi. Cũng đã gần một tuần trong tình trạng  dở mê dở tỉnh hôm nay anh mới thấy hình như bệnh có giảm đi chút ít. Cứ nghĩ lại mấy ngày vừa rồi anh càng cảm thấy thật là bi quan, nhất là sau khi đã uống hết liều thuốc sốt rét mà không cắt cơn được. Nghe tin anh về đơn vị đón vợ con để chuyển ra Phả Lại mọi người trong đơn vị cũ đến thăm khá đông. Nhiều anh chị ở xa khu tập thể hàng vài chục cây số cũng cố tranh thủ lại thăm. Ai cũng muốn biết về tình hình xây dựng nhà máy ngoài Phả Lại, động viên Hằng mau khỏi bệnh.
          Chiều nay thứ bẩy cuối tuần làm việc mọi người tập trung khá đông về sân của khu tập thể để xem hai đội bóng của khối cơ quan gián tiếp và khối phân xưởng trực tiếp sản xuất đá bóng giao hữu. Hằng cũng ra trước cửa ngồi xem với mọi người. Mấy anh em vừa mới ở nhà máy về cũng lại gần với anh vừa ngồi xem vừa hỏi han tình hình bệnh tật của Hằng. Đang nói chuyện Hằng cảm thấy ngứa ở dưới bụng chân anh kéo ống quần lên để gãi. Cùng lúc ấy Quang tổ rèn chỉ trỏ vào chân Hằng ra hiệu chớ buông quần vội. Quang chỉ vào các vết chẫm đỏ dày đặc dưới chân Hằng nói:
          - Bệnh kia chứ đâu! Xuất huyết dưới da nhiều thế cơ mà.
          Nghe Quang nói vậy ngay cả Hằng cũng bất ngờ cúi xuống nhìn những chấm đỏ dày di dày dít dưới hai bắp chân. Thì ra Hằng bị sốt xuất huyết mà chính anh cũng không biết. Trong lúc sốt nhiều, lại thay nhau nóng rét nên anh chỉ nghĩ là mình bị sốt rét tái phát mà không nghĩ là mình bị sốt xuất huyết. Có lẽ vì thế mà nhiệt độ sốt không cao lắm nhưng Hằng đã thấy ghê sợ khác hẳn các kỳ sốt rét trước đây.
          Dứt cơn sốt Hằng nghỉ thêm vài ngày cho lại sức rồi mới thu vén đồ đoàn để ra Phả Lại. Buổi tối anh đi chia tay với mọi người trong khu tập thể và khu gia đình mới thực sự bồi hồi vì cái sự xa cách sắp xảy ra giữa anh cùng với mọi người trong đơn vị. Có cái gì đó như nuối tiếc, như xót xa và buồn bã. Những năm sống chết bên nhau trong thời chiến tranh; những ngày gian nan thiếu thốn nhưng vẫn vui vẻ thân thiết đầy kỷ niệm đã sắp xa rồi. Hằng là người sống thiên về tình cảm nên anh rất dễ xúc động, nhưng anh cũng là người không thích bộc lộ nên những chuyện đau buồn anh đều muốn cố giấu mọi người. Cái sự giấu kín ấy nhiều lần tích tụ lại khiến trong lòng anh càng u uất, càng lặng lẽ. Đôi khi anh cố tỏ ra ồn ào, cười nói nhưng thực ra chỉ là để che giấu những tâm sự của mình. Anh không muốn người khác luôn chú ý và lo lắng đến mình
          Sau một ngày đêm ăn chờ, nằm đợi ở các bến xe ga tầu, vợ chồng Hằng mới về đến nhà. Cũng thật ít khi gia đình nhà Hằng được đoàn tụ với đủ mọi người, nhưng rồi cũng phải chia tay vì Hằng đi Thanh Hoá cũng đã khá lâu. Mặc dù Hằng đã nói trước với đồng chí quản đốc về thời gian có thể dài hơn dự kiến do trở ngại về việc thanh toán giấy tờ nhưng anh vẫn cảm thấy nể, vì thời gian anh ở lại do sốt xuất huyết đã dài gấp đôi dự kiến mà không có cách nào báo lại được.
          Hai vợ chồng Hằng cũng phải dùng dằng mãi mới chia tay với bà mẹ được, bởi bà cháu cứ quấn lấy nhau không chịu rời ra. Sau mấy ngày các cháu ở với bà nay lại chia tay chắc mẹ anh buồn lắm, anh nhận ra điều đó khi thấy mẹ anh ôm cả hai con bé lớn cùng với cu tý vào lòng và áp bên má già nua vào hai bên má bầu bĩnh của lũ trẻ, không muốn rời ra.

                                                                   5

          Gia đình nhà Hằng được phân hai gian nhà ngói tường xây gạch xỉ ngay sau hai gian đầu hồi của một người thuộc Viện Mỏ. Đây là những căn nhà cấp bốn, xây dựng bên bờ phía đông của một hồ chứa nước dùng để tưới cho nông nghiệp của xã Văn An, nơi mà cơ quan Viện Mỏ đã sơ tán về từ năm năm trước. Những căn nhà của Viện Mỏ cũng  giống nhiều căn nhà của các cơ quan khác của nhà nước. Phần vì xây dựng cẩu thả, tạm bợ, phần vì thời gian xây dựng cũng đã lâu nên chúng xuống cấp nghiêm trọng. Cũng đã có những căn nhà như thế ở bên tây hồ đổ tường đầu hồi sau vài cơn mưa mùa hạ. Cũng may mà mọi người đi vắng cả nên không ai bị thương tích. Tuy vậy sự việc này cũng đã làm khối người xanh mắt, lo lắng không yên. Họ mong sao chóng rời khỏi cái nơi heo hút và không an toàn nọ.
          Hai gian nhà Hằng cũng không to tát mấy nhưng nhà Hằng chả có của cải gì nên cũng không chật chội lắm. Ngoài cái tủ gỗ cũ Hằng mua lại của nhà anh Khâu để dựng quần áo. Cái thùng tôn đựng gạo và đôi thùng gánh nước Hằng gò lấy từ ngày còn ở Thanh Hoá mang ra thì hai cái xe đạp của vợ chồng Hằng là đáng giá nhất. Đương nhiên còn phải kể đến hai cái quạt cóc và cái đồng hồ  Trung Quốc Hằng mới mua ở cửa hàng bách hoá Văn An dùng làm nhân vật đánh thức hàng ngày để đi làm đúng giờ, nữa chứ.
          Cũng may khi mới ra Hằng đã lên phòng hành chính mượn được hai cái giường một bằng gỗ tạp nên mới có cái để mà nằm. Đôi giường này cũng được chia ra để ở mỗi gian một cái. Cái để trong buồng được ghép thêm một miếng ván cốp pha làm chỗ ngủ cho cả nhà Hằng. Cái còn lại để ở gian ngoài phòng khi có ai đến thì nằm nghỉ trên đó. Trước nhà Hằng còn có một gian nhà tre nhỏ nữa dùng làm nơi nấu ăn hàng ngày.
          Mỗi ngày Hằng phải theo xe ô tô của nhà máy lên công trường để tìm hiểu thiết bị, còn Thơ thì dẫn ba đứa nhỏ sang nhà trẻ của nhà máy bên tây hồ rồi mới đi làm. Công việc của Thơ là phụ với mấy cô gái khác nấu ăn cho nhà ăn tập thể ngay tại Văn An. Kể ra mà nói trong thời gian này được làm việc ngay gần nhà để có điều kiện lo việc gia đình thì cũng tốt. Hằng nghĩ có lẽ tay Hiên này chắc đang mưu tính điều gì chứ chắc anh ta chả tốt đến mức tạo điều kiện để Thơ làm gần nhà tiện chăm sóc gia đình đâu. Hằng cũng đã định lên gặp anh ta xem sao nhưng nghĩ đi nghĩ lại lời anh Lẫm nói hôm trước về cái sự quá thẳng thắn của mình anh lại thôi và có ý chờ thêm một thời gian nữa xem sao. Dẫu sao thì anh cũng không muốn duy trì mãi cái sự căng thẳng vốn đã xảy ra hơn tháng qua.
          Công việc của Hằng trong thời gian này cũng không vất vả lắm nhưng hầu như không thể cứ nghỉ tràn đi được. Gần ba chục công nhân vừa mới ra trường được phân công về do anh quản lý đều mới chỉ học lý thuyết sơ cấp về vận hành một cách vội vã để kịp có người cho Phả Lại, nay đưa sang sửa chữa, hầu như chưa hiểu biết gì nhiều. Ngoài thời gian đi tìm hiểu thiết bị Hằng còn phải lên lớp thêm cho số anh em này một số bài về căn chỉnh thiết bị và thực hành các công việc bằng tay như gò, rèn, làm nguội cho quen. Ngoài công việc chuyên môn Hằng còn phải lo thêm bao nhiêu thứ khác như việc tổ chức lớp học quy trình cho cả khối công nhân vận hành để chuẩn bị cho việc khởi động nhà máy; bởi phân xưởng của Hằng là phân xưởng cấp nước cho cả nhà máy, mà nước trong nhà máy điện thì đó là thứ nguyên liệu đầu tiên cần đến nó.
          Việc Hằng về phân xưởng thuỷ lực cũng là việc hết sức miễn cưỡng, vì nghề chính của anh là sửa chữa tua bin hơi chứ đâu có sửa mấy cái bơm nước. Cũng nhờ mấy anh cán bộ lãnh đạo khuyên nhủ nên anh mới nhận lời ở lại. Dấu sao thì các anh ấy cũng rất chân tình khi nói về môi trường sạch sẽ của thiết bị nước, ngoài ra các anh ấy còn bảo Hằng cũng chẳng nên tìm đến chỗ gian nan vất vả làm gì. Nhưng điều quan trọng là khi lên đề nghị việc gì thì cũng chạm mặt ông Hiên, mà con người này thì nhiều lý lẽ lắm và chắc là chẳng dễ dàng gì.

                                                         THAM QUAN

                                                                     1

          Không biết từ đâu mà mấy hôm nay trong nhà máy chỗ nào cũng ồn ào bàn về việc đi thực tập Liên Xô. Chỗ thì nói thành phần này được đi, chỗ thì lại nói thành phần kia được đi, chả biết đâu mà tin được. Thực tình mà nói cái việc đi sang Liên Xô nói là để thực tập nhưng thực tập thì chả quan trọng gì lắm mà việc sang đó sẽ có cơ hội mang các thứ rất rẻ của ta sang bán cho bạn, rồi lại mua những thứ hiếm hoi từ bên đó mang về. Nhiều người đồn đại việc đi Liên Xô sẽ mang về được nhiều quạt điện, bàn là, tủ lạnh rồi thì sẽ giầu lên rất nhiều, chính vì thế nên ai cũng muốn được đi, thậm chí còn bày kế để giành quyền đi cho mình bằng bất kỳ thủ đoạn nào. Đã có nhiều anh tố cáo các khuyết điểm của bạn để lôi nhau ở lại bằng cách dựng lên những phi vụ không hề có.
          Hằng cũng không thể nằm ngoài cái không khí nói trên, nhưng anh không bộc lộ ra ngoài mặt như mấy cậu cán bộ đoàn thể trong phân xưởng. Ai mà chả thấy phấn khởi khi được đi máy bay trên chín tầng trời và rồi lại được đến, được biết, được tiếp xúc với con người và cảnh vật ở cái nơi mà cả đời cũng chỉ nhìn thấy qua phim ảnh thì sao chẳng thích. Chẳng những thế lại còn có được số của cải mang về cho bản thân, gia đình một cách hợp lý thế thì người ta khao khát, người ta muốn giành lấy là phải.
          Cũng có khối người gặp Hằng và có ý bàn về cái sự này, phần vì họ muốn biết quan điểm của anh trong việc xét duyệt thành phần nào sẽ đi trong đợt này. Trong suy nghĩ của họ thành phần đáng được đi phải là lực lượng vận hành vì vận hành thuỷ lực sẽ triển khai trước nhất trong nhà máy. Cũng không thiếu người khách quan hơn khi họ đánh giá sự việc khác xa  những anh em vừa nói ở trên. Họ nói trắng ra rằng cái sự hay ho kia trước hết họ sẽ ưu tiên mấy ông cán bộ với nhau chứ cái thứ công nhân thì còn xa lắm. Họ còn chỉ ra khá nhiều vụ những người là quản lý nhà ăn, rồi cán bộ công đoàn, hành chính thì có cần gì thực tập thế mà họ cũng đã đi chán ra rồi đấy. Vận hành và sửa chữa chắc chả có thể sơ mú vào được.
          Thế mà không biết từ đâu người ta đã quyết định sẽ đưa mấy vị đốc công sửa chữa vào diện mới lạ chứ. Có lẽ họ muốn những người này phải thực tập thật để biết cách làm mai này. Hằng cũng là đốc công sửa chữa nhưng anh nghĩ lực lượng của anh không phải lực lượng chủ chốt của nhà máy nên chưa chắc đã được đi. Hôm qua Hằng qua chỗ cơ khí để mượn một vài cái kìm rèn mang về cho số anh em công nhân mới tập rèn mấy buổi. Vừa vào đến tổ cơ khí, còn chưa kịp hỏi mượn kìm đã thấy anh Khâu ở đâu chạy đến vẫy ra chỗ vắng rỉ tai:
          - Này đã biết tin gì chưa?
          - Tin gì đấy hả anh?
          - Tao mới nghe tin sắp tới tao và chú sẽ bay đấy.
          - Có chắc không hả anh?
          - Sao không! Tao đã đọc được danh sách ở chỗ mấy ông lãnh đạo bên tao lúc đi giao ban buổi sáng.
          Trên đường rời phân xưởng cơ khí để về trạm tuần hoàn, Hằng vẫn cứ băn khoăn dở vui, dở buồn. Vui vì được đi còn buồn vì chả biết lấy tiền đâu để mà mua hàng hoá để mang sang đó. Về đến tuần hoàn thì Hằng được anh Tham quản đốc báo tin chính thức. Hai anh em vừa qua xem mấy cậu công nhân lắp đoạn đường ống nước dẫn vào trong trạm vừa trao đổi với nhau về kinh nghiệm đi Tây. Anh Tham đã đi hồi năm ngoái nên đúng là có kinh nghiệm.
          Cũng không biết thế nào mà Hằng cứ thấy không yên tâm lắm về cái chuyện đi Tây của anh, nên trong suốt chặng xe từ nhà máy về anh chỉ ngồi im một chỗ. Nhiều người mong manh biết tin có hỏi nhưng anh chỉ ậm ừ:
          - Tớ là thành phần không được "hảo" với lãnh đạo nên làm gì có may mắn đấy.
          - Chắc chắn đấy anh ạ, bên em họ đã thông báo cụ thể rồi mà. Bên thuỷ lực chỉ có mỗi anh là Hằng chứ còn ai nừa đâu mà bảo nhầm lẫn.
          - Nói chung là tớ chưa thật hy vọng lắm.
          Khi về đến nhà anh cũng chưa định nói với Thơ về tin này, vì anh sợ cô ấy mừng hụt. Thôi thì cứ để đến lúc nào cụ thể sẽ hay.
          Thế rồi việc gì đến sẽ phải đến không sao tránh được, khi bất ngờ sáng nay anh San vẫy Hằng ra ngoài hồi nhà:
          - Chú biết đấy anh ra đây chỉ là tạm thời thôi, chỉ đến khi máy vận hành là anh sẽ về trong đó. Hôm qua anh đã gặp kỹ sư chính và anh ấy cũng đã đồng ý để anh đi đoàn 1 còn chú sẽ chậm lại một chút đi với đoàn 2.
          Nghe đến đây Hằng thấy điếng cả người, anh  chẳng biết nói gì với anh San nữa, nhất là khi anh ấy đã thẳng thắn đến vậy. Anh San là người luôn có cảm tình với Hằng ngay từ khi hai anh em còn ở Thanh Hoá. Sau khi bị thương trong lúc phục vụ chiến đấu anh đi học đại học rồi về ban nhiệt của cục điện lực. Có lẽ anh cũng cạy cục lắm mới rời ban nhiệt để về Thanh Hoá. Anh muốn vợ bỏ nghề giáo viên về ngành điện để có điều kiện giúp đỡ nhau mà xin xỏ mãi không được. Cũng nhờ cái việc anh được ông kỹ sư chính là trưởng ban cũ xin điều động trực tiếp nên anh có cớ đề nghị xin vợ về sở điện. Tuy nhiên anh đâu có muốn ở Phả Lại lâu dài trong khi anh lấy lý do thương binh rồi cậy có thủ trưởng cũ giúp sức nên kế hoạch thứ nhất anh đã hoàn thành. Cái việc đi Tây này chỉ là sự việc thứ hai anh tính đến mà thôi. Cũng chính vì thế mà Hằng chẳng chuẩn bị tiền nong làm gì nữa.
          Mọi việc chắc chẳng còn gì thay đổi nữa nếu như đợt đi không bị hoãn lại một thời gian do chưa liên hệ được với các cơ sở bên nước bạn. Sau cuộc tráo đổi danh sách giữa anh San và Hằng, anh cũng buồn mất vài ngày rồi lại vui vẻ hoạt động trở lại. Anh mừng vì linh cảm đã cho anh biết cái sự trục trặc này nên anh đã không quá vui, quá ồn ào để rồi bị tẽn trước bàn dân thiên hạ. Câu chuyện sẽ chả đi đến đâu nếu như sau đó vài tuần có một ông giám đốc mới về nhậm chức. Theo nhiều nguồn tin thì ông giám đốc này là người Thanh Hoá, ông khá là thẳng thắn và rất quan tâm đến tầng lớp lao động bên dưới. Điều đầu tiên ông làm là ông đã đòi lại bốn xuất thực tập mà công ty cố ý để lại cho mấy vị ăn theo trong ngành. gọi là ăn theo vì họ đâu có quyền lợi gì thế mà cũng đòi đi cho bằng được. Lẽ dĩ nhiên là ông đã đòi được cả bốn xuất thực tập về cho nhà máy.
          Cũng chính nhờ có ông giám đốc mới mà Hằng lại có tên trong danh sách. Kể ra thì đây cũng là dịp may cho anh vì dẫu sao thì anh cũng được sang một nước ở rất xa với nước mình. Anh sẽ có dịp nhìn thấy những hình ảnh thật về một đất nước mà lâu nay đã được coi như cái nôi văn minh đứng hàng đầu thế giới. Điều quan trọng là anh sẽ thấy được số đông những người Nga anh dũng của cuộc chiến vì hoà bình vì Chủ nghĩa xã hội của gần bốn mươi năm trước. Tuy vậy anh cũng có cái buồn là anh không có tiền, chắc chắn là anh sẽ chả có gì quà cáp cho ai được giống như nhiều người đã đi sang trước anh.
          Từ mấy tháng trước, một lần nói chuyện với ông Đát bên Tây hồ thấy ông muốn mua một cái xe đạp tốt một chút để đi lại, nhường xe của ông cho vợ, Hằng cũng nói đùa:
          - Thế có dùng cái đồ cung cấp cũ này không ?
          - Anh bán thật chứ ?
          - Đói quá, cũng muốn bán để lấy cái ăn đây!
          Hằng nghĩ câu nói trên chỉ là nói trêu cho vui thôi, không ngờ ông Đát tưởng thật ông cúi xuống xem xét ngay. Ông lắc cái vành xe, quay cái tay láiãyem màu sơn, vết mà kền ở mọi chỗ. Anh chắc là ông thích vì cái xe của Hằng luôn được anh chăm chút chu đáo kể cả về hình thức lẫn độ chắc chắn nhằm giúp cho việc đi lại hàng ngày.
          - Thế anh định bán bao nhiêu?
          - Không biết có được độ bốn nghìn không ?
          - Cao quá! Đến cái xe của Đức còn chưa được thế nữa là.
          - Xe Đức thì chỉ đẹp dùng đi chơi thôi, chứ vật vã như cái này thì mấy mà tàng hả anh.
          - Thì có thế tôi mới kết nó chứ.
          Đến đây thì Hằng không dám đùa nữa, anh sợ anh Đát tin là thật rồi sau anh ấy sẽ giận. Người khu bốn là họ thật thà như đếm chứ không đùa cợt như người vùng ngoài đâu.
          - Nói vậy thôi chứ anh bảo ba đứa trẻ còn bé tý, nay ốm, mai đau, với lại rồi hai vợ chồng tôi cũng phải ra ngoài nhà máy, biết đi bằng gì.
          - Thế mà tớ cứ tưởng đằng ấy có cái khác nên muốn bán cái này đi.
          Câu chuyện sẽ chả có gì đáng nói nhưng đến bây giờ thì lại là chỗ anh hy vọng có thêm được ít tiền để gộp vào số tiền Thơ vay nóng được của mấy người bạn làm lộ phí cho anh đi công du ngoại quốc. Cũng thật may vì ông Đát vẫn kết cái xe đạp của Hằng, tuy nhiên nó chỉ đáng có hai ngàn rưởi mà thôi.
          Thực ra anh không muốn bán chiếc xe vì nó là vật có giá trị lớn nhất trong nhà, nó còn là vật kỷ niệm của gia đình anh. Vả lại nó cũng rất cần cho đi lại của vợ chồng anh trong những tháng ngày sắp tới khi Thơ phải đi làm ở ngoài nhà máy, nhưng trong lúc này cũng đành phải bán vậy.
          Những ngày chờ đợi ở Hà Nội giúp cho mọi người có điều kiện đi mua sắm các loại hàng hoá để mang theo sang nước bạn. Sau đợt mua hàng hoá Hằng mới vỡ lẽ ra đôi chút về trình độ cao siêu trong tính toán làm ăn của nhiều người bên cạnh mình. Họ biết rất kỹ cách mua hàng gì rẻ mà lại bán được nhiều tiền, còn Hằng thì vừa ít tiền lại hiểu gì nên cứ đi theo mang đồ hộ là chính.
          Đang bế tắc về vấn đề hàng hoá thì anh Khâu ở đâu đó sang chơi.
          - Hàng hoá thế nào rồi?
          - Em chẳng biết mua bán cái gì cả.
          - Thôi đi xuống con em dâu tao nó giúp cho. Mấy năm nay nó vẫn mua bán các loại này cho bọn đi ngoại quốc nên nó rành lắm.
          Nghe vậy Hằng mừng lắm nhưng anh lại nghĩ anh ấy là người nhà, còn mình là người ngoài nhờ cậy thế thì người ta còn kinh doanh gì nữa. Thấy Hằng còn lưỡng lự không quyết anh sốt ruột:
          - Chúng nó là em ruột tao, không ngại gì đâu. Nếu mà nó có ý kinh doanh với chú thì anh không để yên đâu mà sợ, thôi đi đi.
          Thế rồi Hằng cũng nhờ mua được ba cái quần bò Lesvit cỡ 33, đây là cỡ quần khá lớn hợp với số đo của người Nga. Cũng không biết thế nào mà đến lúc Hằng mua lại có loại quần cỡ to chứ mấy chục anh em mua hôm trước chỉ có quần cỡ nhỏ hơn một chút. Đến khi Hằng nói chuyện về đổi chọn cỡ quần mọi người mới suýt soa:
          - Chán thế không biết, tớ chỉ mua được loại nhỏ thôi, chắc chắn là sang đó bán khó hơn.
          Cũng chả biết thế nào ngay cả anh Khâu cũng chỉ mua được loại quần nhỏ, anh bảo với Hằng:
          - Thế thì tớ phải bảo bọn nó đổi lại, mà không biết có đổi được không!
          - Em thấy chị ấy bảo chị ấy lấy của người quen nên chắc là đổi được thôi.
          Chiều nay Hằng một mình qua chợ Hàng Đào để mua mành tre, đây là những cái mành nhỏ kết bằng sợi cước vẽ hình trên đó. Hình có khi là một con hổ màu trắng, màu vàng, cũng có khi là một đàn hạc đang kiếm ăn trên một dầm lầy. Cũng có loại vẽ phong cảnh mùa đông, mùa hè trên đó nhưng rất ít người mua. Kể cả về mành thì Hằng cũng chẳng biết người Nga họ thích thế nào nên anh cứ mua mỗi thứ vài bộ. Anh mua khá nhiều các loại mành phong cảnh mùa đông với các bức tranh chỉ có hai màu đen trắng. những con công, con cò và con hạc thì anh không mua được mấy vì nhiều người đã mua hết trước đó. Ngoài quần bò và mành tre vẽ hình, Hằng cũng đi mua được mươi cái kính đổi màu mắt to tướng giống như của mọi người. Sau khi xếp hàng vào hộp giấy Hằng xem lại túi thì tiền cũng đã cạn thế là Hằng kết thúc nội dung hàng hoá với ba loại vậy mà thôi.

                                                             2

           Hằng theo đoàn người lên thang để vào máy bay mà lòng còn bao nỗi ưu tư buồn bã chưa thể dứt ra được. Những làn hơi nước trắng đục, mát dịu có mùi rất lạ toả ra che phủ khắp máy bay, làm cho Hằng thấy hơi khó chịu. Hằng ngả mình trên ghế nhìn qua cửa sổ xuống dưới đường băng, nhớ về mấy đứa trẻ ở nhà. Các con anh chắc đang còn ở bên nhà trẻ, mẹ nó sẽ phải túi bụi vì chúng vào mỗi buổi sáng đi làm. Anh nghĩ nhiều đến việc làm thế nào để con anh sẽ được sung sướng hơn bố mẹ chúng. Ngày mai đây khi chúng lớn lên, xã hội có còn được như bây giờ không hay lại chiến tranh, lại thất nghiệp. Thất nghiệp, chỉ vì thất nghiệp thôi mọi giá trị nhân cách con người sẽ tiêu tan mất, giống như những ngày nào mà cha mẹ anh đã từng phải chịu đựng. Người ta cần phải sống và sự sống buộc người ta làm con mèo, con chó hay làm bất kỳ cái gì đó để có thể không phải chết đói, chết rét. Thậm chí cái chết đối với con người cũng không đáng sợ, nhất là khi người ta chỉ có một mình. Điều đáng nói là bên cạnh họ còn những người thân, những đứa trẻ mới đang chập chững vào đời, lúc nào cũng coi họ là chỗ dựa. Cái đau đớn nhất là nhìn chúng chết đi trước sự bất lực của chính mình. Có phải vì thế mà bao người đã dám chết trong cuộc đối đầu với cái ác trong suốt năm chục năm qua. Đã có lúc Hằng lấy cái ý cho rằng mình có thể chết đi nhưng những người thân của mình sẽ hạnh phúc để trấn tĩnh bản thân trước những khốc liệt của hàng trăm trận bom pháo, hàng trăm lần trong tầm đạn của kẻ thù.
          Hằng chợt bị ngắt khỏi dòng suy nghĩ khi thấy mọi thứ dưới chân đang cựa quậy đang chuyển động và từ từ cất lên cùng với tiếng ù mơ hồ trong hai lỗ tai. Chỉ đến khi hai tai anh trở lại bình thường thì anh đã ở bên trên những thành phố, cánh đồng xanh bát ngát không biết ở đâu nữa. Lần đầu cất mình lên khỏi mặt đất với một độ cao như vậy ai mà không xúc động, ai mà không thấy ngỡ ngàng.
          Không biết người ta đi tàu thuỷ ra biển thế nào chứ đi máy bay có vẻ cũng xóc chứ chẳng êm lắm đâu. Cái xóc của máy bay mà Hằng nhận thấy là những cú hẫng hụt nôn nao trong người giống như đang bị rơi trong không khí vậy. Suốt từ lúc lên máy bay Hằng hay để ý đến bên cánh luôn chắn trước mặt. Những cử động của nó làm anh luôn cảm thấy hình như nó gắn không được chặt với thân của máy bay. Mỗi lần gặp một đám mây thì cả cái máy bay dọ dẹo cứ như cái lờ đơm cá vậy. Bên cạnh anh là Kiền ở phân xưởng điện, từ lúc ngồi vào ghế đã cuộn tròn lại vì say. Bao nhiêu cơm rau, cá, thịt ăn lúc trước đã cất cả vào túi giấy rồi mà hình như vẫn còn muốn nôn thêm nữa. Hằng và anh San thì xem ra không bị cái vụ này nên chỉ ra công lau chùi, thu dọn cho Kiền.
          Sau khi ăn bữa chính xong thì ngoài trời đã tối, bên dưới máy bay là những vùng sáng rực rỡ của các thành phố nối tiếp với nhau hiện ra. Hằng thấy choáng ngợp cả người trước những cảnh hùng vĩ mà anh chưa thấy bao giờ. Trong đầu anh một vài tứ thơ bất chợt hình thành nhưng không hiểu sao anh không thể nào nghĩ ra được câu mở đầu, thế là đành để mặc cho cảm xúc trôi qua mất. Đang mơ mơ màng màng Hằng chợt thấy đầu anh lại có gì đó phát ra tiếng ù ù nhẹ. Không lâu sau là một loạt những tiếng chấn động bên dưới máy bay, rồi máy bay dừng hẳn. Có một tràng tiếng nước ngoài phát ra từ một cái loa nào đó mà anh không nhìn thấy. Có một vài người đã đi một vài lần nói đấy là thông báo về việc chờ đợi máy bay lấy thêm xăng, bổ sung các loại đồ dùng và thực phẩm. Có điều là ở ga này nhà nước ta đã thoả thuận với nước sở tại về việc không cho khách xuống đất. Lý do chính là người ta không muốn để xảy ra lần nữa trường hợp bỏ trốn của một vị cán bộ cấp cao người Việt, chính tại nhà ga này cách đây mấy tháng.
          Hết ăn, lại ngủ rồi cũng kết thúc khi máy bay hạ cánh xuống sân bay ở Mạc tư khoa. Cho dù lúc mới xuống nhiều người có vẻ lâng châng một chút nhưng rồi quãng đường đi bộ loanh quanh chờ cán bộ tiếp đón cũng làm cho mọi người nhanh nhẹn trở lại. Cũng không biết thế nào mà suốt từ lúc máy bay gần xuống thì tự nhiên Hằng thấy có gì đó như rất háo trong người. Anh muốn nhanh chóng có một cốc nước mát để hoá giải tình trạng trên mà không biết tìm bằng cách nào. Mấy anh cán bộ và phiên dịch đều bận đi đây, đi đó để tìm người đến tiếp nhận, thành ra anh chẳng biết nhờ ai.
          Đang ngó nghiêng tìm kiếm thì Hằng thấy có một người đang đẩy một cái xe thùng đi tới. Trên thùng xe vẽ một cậu bé khá to và bụ bẫm đang áp miệng vào một cái hộp nhỏ và cũng chẳng khó khăn gì không nhận ra vật đó với hàng chữ Crem tô màu sặc sỡ. Hằng đến bên người đẩy xe thùng và đưa cho họ mấy đồng tiền lẻ của Liên Xô và chỉ vào cái thùng xe nọ. Tất nhiên là người chủ nọ hiểu ý của anh ngay, mặc dù anh chẳng thể nói với bà ấy câu gì. Sau khi ngắm nghía mấy đồng tiền nọ người có cái xe thùng thu lấy một số các tờ tiền giấy và trả lại anh những đồng xu màu đồng, tiếp theo bà ta đưa cho anh một chiếc hộp giấy tựa như bánh xà phòng thơm của ta. Hằng đón lấy và cố gắng nói câu cảm ơn bằng tiếng Nga sai bét rồi mở hộp giấy, bên trong hộp là một khối kem mềm và ngọt.
          Mọi người còn đang lo lắng không biết bao giờ có người đón thì từ phía cửa ga có một người Nga cao lớn, mặt đỏ tía đang cười nói với đoàn trưởng. Không lâu sau mọi người đã biết hành trình tiếp theo là đi ăn cơm chiều rồi lên tàu hoả về vùng nào đó của Xibêri xa xôi đến cả ngàn cây số. Cho dù thế nào thì mọi người cũng đã đến Liên Xô thật sự chứ không phải là xem trên phim ảnh và vô tuyến. Sau gần ba ngày, ba đêm liên tục trên xe lửa thì Hằng và mọi người cũng đã đến khách sạn của một thị trấn nhỏ. Nơi có nhà máy điện ở vùng Belopscai thuộc tỉnh Kemerôvơ xa lơ   xa lắc.
          Hằng được ghép đôi với một cậu kỹ sư hiệu chỉnh người Hải Phòng có tên là Nhiếp vào ở cùng một phòng trên tầng ba. Chàng thanh niên này thật là trẻ và trắng trẻo, chỉ tội hơi gầy nên cậu đi đứng cứ lòng khà lòng khòng tựa như e thẹn, ngượng ngập. Tuy cùng nhà máy nhưng lại ở các bộ phận khác nên Hằng cũng không biết gì nhiều về Nhiếp. Để có thể thông cảm với nhau suốt ba tháng thực tập, trong lúc Hằng vừa dọn giường chiếu, sắp xếp đồ đạc, Hằng  cũng hỏi thăm một vài điều về gia đình của Nhiếp.
          Nói là dọn dẹp đồ đoàn chứ thực ra thì chỉ là cất đặt mấy thứ áo quần và hàng hoá cho gọn mà thôi. Tiện tay Hằng cũng giở hộp giấy đựng mành trúc ra xem có bị hư hỏng hay không. Anh lấy một cặp mành phong cảnh mùa đông treo lên cửa sổ và ngồi ngắm nghía. Cũng chính lúc này anh mới thấy bức tranh trên mành thật là đẹp. Một dòng sông nhỏ gợn sóng, bãi bồi với những nhánh cỏ dày nổi lên trên nước. Vài mái nhà tranh ẩn hiện bên cây rừng, xa xa núi non trùng điệp tạo thành đường chân trời. Những đám mây vần vũ bên trên đỉnh núi trông thật gợi cảm.
          Còn đang mải ngắm tranh Hằng không biết có người đã vào phòng. Mãi đến khi anh nghe thấy tiếng thở mạnh sát bên anh mới giật mình quay lại. Một người phụ nữ nga chừng năm mươi tuổi trông rất điềm đạm đang mỉm cười nhìn anh từ phía đằng sau. Ngay khi anh quay lại thì người phụ nữ ấy cũng lên tiếng. Có lẽ bà ấy muốn nói với Hằng một điều gì đó mà anh không hiểu, thế là cả hai đành cùng cười một cách thân thiện với nhau vậy. Hình như những điều người phụ nữ nọ nói với Hằng là những câu hỏi vì phần cuối của câu nói luôn có những âm tiết cất cao hơn.
          Đang chả biết làm thế nào để hiểu được ý tứ của người phụ nữ nọ thì Nhiếp trở về phòng. Có lẽ Nhiếp đã nghe được người phụ nữ nói những câu cuối nên vừa vào đến nơi cậu ta đã bảo:
          - Bà ấy khen tranh của anh rất đẹp và bà ấy muốn mua, anh có bán cho bà ấy không.
          - Có nên bán không nhỉ? Hằng bật hỏi lại Nhiếp
          - Thì mình mang sang để bán thì cứ bán chứ để lại làm gì hở anh.
          - Tớ sợ mình vừa mới đến...
          - Chả sao đâu anh ạ.
          - Thế thì Nhiếp bảo bà ấy giúp hộ.
          - Bà ấy hỏi anh lấy bao nhiêu tiền.
          - Tớ chẳng hiểu gì về giá cả mới chết chứ.
          - Bà ấy bảo trả năm rúp một cái anh ạ.
          - Thế có được không?
          - Tốt quá rồi anh ạ! Em nghe các anh ấy nói đợt trước họ chỉ bán được ba rúp một cái là cùng.
          - Hay là Nhiếp cứ bán trước đi, của anh có ít để bán sau cũng được.
          - Em có hỏi nhưng bà ấy không thích công, cò, hạc mà lại chỉ thích loại tranh của anh mà thôi.
          - Thế thì nhờ Nhiếp bán hộ.
          Vừa nghe Nhiếp nói đồng ý bán là bà khách đến cuộn ngay hai bức mành lại, rồi quay sang Nhiếp hỏi thêm mấy câu nữa. Nhiếp quay lại dịch cho Hằng nghe:
          - Bà ấy muốn mua nhiều để tặng bạn bè, nếu còn thì anh bán thêm cho bà ấy.
          Hằng cũng không ngờ cái thứ mà số đông các anh em cùng đi chê ủng, chê eo bảo không hợp với sở thích người Nga thì đột nhiên lại đắt hàng đến thế. Thế là có bao nhiêu mành phong cảnh Hằng mang ra bán hết. Những bức còn lại chỉ là mấy con hổ và mấy con hạc mà Hằng may mắn mua vét lại được hôm ở Hà Nội. Sau khi trả tiền xong người phụ nữ nọ hình như còn muốn hỏi điều gì đó mà Hằng không hiểu. Nhìn qua cách ra hiệu bằn tay Hằng đoán bà ấy muốn nói đến quần áo thì phải. Cuối cùng thì Nhiếp lại vẫn phải quay lại dịch cho Hằng nghe:
          - Bà ấy hỏi anh có quần bò bán không.
          - Chắc bà ấy buôn bán hay sao mà mua nhiều thế?
          - Bà ấy là nhân viên của khách sạn anh ạ, người ngoài sao có thể vào đây được.
          - Tôi bán nhiều quá rồi, còn quần bò thì nhất định nhường chú bán trước.
          - Bà ấy không mua của em vì số nhỏ, con bà ấy mặc không vừa.
          - Chả lẽ lại không có cái nào cỡ lớn hay sao?
          - Của em toàn 29, 30 thôi anh ạ.
          - Của tớ có ba cái lại toàn cỡ 33 chú ạ.
          - Thế thì tốt quá rồi còn gì, để em bảo bà ấy.
          - Bà ấy hỏi giá anh ạ.
          - Em cứ bảo hơn hai trăm một cái.
          - Sao nhiều thế anh?
          - Cái này thì anh biết, loại 31 trở xuống cao nhất chỉ độ trăm tám là cùng. Nhưng loại hàng anh mua là hàng chính hiệu nên bán như vậy mới đủ giá.
          - Bà ấy nói hơi cao nhưng nếu con gái bà ấy mặc vừa thì bà ấy sẽ mua. Bà ấy nói định mua cho con gái lâu rồi mà vẫn chưa có cái nào vừa.
          Hằng nghe vậy thì lấy trong cặp ra một cái quần ống hơi loe cho bà khách xem. Vừa nhìn thấy bà khách đã có vẻ ưng ý. Vừa xem xét bà khách vừa trao đổi với Nhiếp.
          - Bà ấy bảo anh chờ bà ấy một chút và giữ cho bà ấy để bà ấy gọi con gái lên anh ạ.
          - Thôi chờ một tý cũng được, mình cũng chẳng đi đâu mà lo.
          Bà khách đi rồi Nhiếp mới nói với Hằng:
          - Lúc em nói giá bà ta ngần ngại lắm, bà ấy bảo bữa trước bà ấy chỉ mua có độ trăm hai đến trăm rưỡi là cùng. Mãi đến khi bà ấy nhìn thấy quần anh mang ra thì có lẽ bà ấy đã nhận ra loại này khác hẳn loại bà ấy mua hộ mấy đứa cháu bữa trước nên vội hối hả đi ngay.
          Vừa nói chuyện với Hằng vừa cầm quần lên xem Nhiếp chợt nói với Hằng:
          - Anh mua cái này bao nhiêu vậy?
          - Hai ngàn ba chú ạ.
          - Em mà gặp loại này, cỡ nhỏ hơn một chút thì em cũng mua một cái để mặc... đúng là loại xịn anh ạ
          - Tớ phải nhai nát đoạn chỉ may để xem thử có phai không thì tớ mới lấy.
          - Sao lại phải thế hở anh?
          - Nói thật với chú, cái loại rởm thì chỉ may bở bục mà phai đỏ tay ra ngay. Thiếu gì các loại áo lông đức, quần bò Thái được mua vải về máy tại Việt Nam.
          Vừa nói đến đây thì hai mẹ con bà khách lúc nãy quay trở lại. cũng chẳng cần chào hỏi gì, cô con gái tốc váy lên rồi nhặt quần mặc thử ngay. Vừa cài khuy cô vừa nhún nhảy nghiêng bên này ngả bên kia rồi chạy sang nhà vệ sinh soi mình vào gương ngắm lên ngắm xuống. Cũng như khi vào, cô cứ để cả váy, cả quần bỏ đi ngay không thèm ngoái đầu trở lại. Chắc là cô ấy ưng ý vì chỉ cần nhìn cô ấy mặc vào đã thấy đẹp rồi. Vừa lúc ấy bà khách quay lại trả tiền cho Hằng đúng hai trăm rúp. Thế là chỉ mới chưa đầy tiếng rưỡi đồng hồ Hằng đã bán được khá nhiều hàng hoá. Anh đang nài Nhiếp xuống căng tin của khách sạn để ăn uống một chút gì đó gọi là mừng cho thành công của Hằng nhưng Nhiếp không đi. Còn đang nói đi nói lại với nhau thì bà khách lúc nãy quay trở lại cùng với hai người phụ nữ nữa. Lần này thì hai bà khách mới đòi lấy nốt hai chiếc quần còn lại. Hằng cũng bảo cho họ biết có một cái là ống côn chứ không loe, nhưng họ vẫn giật ngay lấy mà không cần nghe anh nói gì. Thế là chỉ trong buổi chiều mà Hằng đã hết sạch mọi thứ hàng hoá...
          Chiều tối đoàn họp để thông qua chương trình thực tập và bàn bạc về các hoạt động giao lưu giữa đoàn và nhà máy của bạn. Những thứ đoàn mua gửi mọi người hôm trước như rượu lúa mới, bánh đa nem, hạt tiêu, gừng, tỏi  được lục từ các túi cá nhân xếp thành đống trong phòng của đoàn trưởng. Đoàn cũng gửi mỗi người hai đôi mành để bán lấy tiền tổ chức tiệc mừng nhân Quốc khánh ngày 2 tháng 9.
          Mọi người đều phải tập trung thành từng đoàn để theo các cán bộ chuyên môn của bạn vào các vị trí thực tập, chỉ riêng có một mình Hằng là đi với một kỹ sư thuỷ công trong nhà máy. Ngay buổi đầu tiên ông kỹ sư thuỷ công đã dẫn Hằng xuống ba trạm bơm tuần hoàn của nhà máy. Cũng do có ít phiên dịch nên ở chỗ Hằng hầu như phải tự tìm hiểu lấy là chính, vì thực tế Hằng chỉ đọc được tài liệu một cách lõm bõm còn giao tiếp bằng lời thì anh tịt mít. Tuy vậy giữa ông kỹ sư thuỷ công và Hằng hình như có hiểu ý nhau ngay trong buổi  tham quan đầu tiên của đoàn.
           Đầu tiên ông kỹ sư đến thư viện lấy về một số tài liệu có nhiều các bản vẽ để cho Hằng xem. Vừa mới nhìn qua các bản vẽ anh đã nhận ra các thiết bị quen thuộc trong dây chuyền của nhà máy nhiệt điện. Anh lần lượt vẽ ra giấy những mô hình đâú nối của nó trong dây chuyền hoạt động và hầu như lần nào ông kỹ sư cũng chìa ngón tay cái ra có ý bảo tốt lắm. Đến khi nói về bơm tuần hoàn thì Hằng viết tên của loại bơm đang lắp tại Phả Lại. Sau khi đọc xong ký hiệu ông kỹ sư liền lấy bút vạch xoá lên dòng tên của những cái bơm của nhà máy của bạn rồi ông vẽ đôi kính vào cái bơm to chiếu thẳng vào cái bơm bé rồi ra hiệu với ý nói rằng việc nghiên cứu bơm này đã không cần thiết nữa. Ông kỹ sư thuỷ công viết mấy dòng chữ vào một mảnh giấy được xé ra từ quyển vở học trò rồi đưa cho Hằng. Anh nhìn vào thấy ngay những chữ ghi ngày giờ của buổi sáng ngày mai, anh đã đoán ra đây là giấy hẹn gặp ngày mai giữa hai người. Có điều anh không biết địa điểm ở đâu nên anh kéo tay ông kỹ sư để ông nhìn vào tờ giấy của anh với dấu hỏi to tướng trên nền bản đồ hình ảnh của nước Liên Xô. Ông kỹ sư bất chợt cười rất to và lấy tay chỉ vào trán của Hằng rồi kéo tay anh giơ lên vòng một vòng quanh hồ chứa nước, rồi chỉ tay vào trạm bơm mà hai người vừa vào lúc trước. Đến đây thì anh đã hiểu ông kỹ sư bảo sẽ đi xem các hồ chứa, kênh đập và bắt đầu từ trạm bơm vừa mới đến. Hằng gật đầu tỏ ý đã hiểu và chia tay với ông kỹ sư để về khách sạn.
          Chiều muộn Hằng mới lên chỗ anh San để đưa cho anh mảnh giấy của ông kỹ sư, anh San còn biết nhiều tiếng Nga hơn Hằng nhưng cũng chẳng hiểu ông ấy viết gì, anh lại phải nhờ phiên dịch mới biết được ông kỹ sư hẹn mai sẽ đưa Hằng đi thăm cống, kênh, đập và các công trình thuỷ công bằng chiếc thuyền máy của phân xưởng. Biết vậy anh San liền bảo mai anh ấy sẽ cùng đi với Hằng một thể để sau này có về thuỷ điện Sông Mực sẽ có kinh nghiệm hơn.
          Đúng là anh San và Hằng gặp may, được đi khắp các công trình thuỷ công của nhà máy. Nào là hồ chứa nước tái tuần hoàn để nâng nhiệt độ nước tuần hoàn vào mùa đông. Những cái cánh cống uốn cong rộng đến bẩy tám mét còng lưng ngăn không cho nước từ hồ chảy ra sông. Một vùng nước bao phủ trên khoảng đất rất rộng không có bóng dáng một thôn xóm nhỏ bé nào.
          Chiếc thuyền máy vẫn tiếp tục lao đi dọc theo kênh dẫn nước tiến dần ra một hồ lớn khác nữa. Từ xa đã nhìn thấy những cái cột dựng đứng cạnh nhau trên bờ hồ. Phía dưới mặt nước là những đoạn cầu phao bằng gỗ nối vào một trục chính chạy dài hàng năm bẩy trăm mét. Nhìn xa như cái xương sống của một con cá với rất nhiều những xương con gắn vào nó. Chiếc thuyền máy gần như giảm tốc độ đến mức tối đa để tấp vào một đầu cầu phao cho cả bọn lên cầu. Hai người cán bộ của bạn đi trước dẫn Hằng và anh San tiếp tục đi bộ trên sàn gỗ tiến sâu vào đoạn giữa của cái xương sống. Loáng thoáng trong tiếng nói chuyện ồn ào của hai đồng chí bạn Hằng nghe như ở đâu đó có rất nhiều tiếng vùng ở dưới nước. Anh đoán trong những ô vuông dọc theo cái xương sống chắc có cá ở bên trong. Vừa khi vào sâu trong cầu thì Hằng nhận ra là mình đã đoán không sai. Những cái ô vuông kia thực chất là những cái lồng bằng lưới dùng để nuôi cá. Trong mỗi cái lồng có đến hàng trăm con cá chép đang lượn lờ đợi bữa ăn trưa. Anh cũng nhận ra những cái ống cao chót vót mà anh nhìn thấy hôm qua chính là khu vực chế biến thức ăn cho cá. Những mẩu thức ăn được đúc thành thỏi như những viên phấn gãy ra từng mẩu bằng đốt ngón tay được đổ vào những cái thùng sắt treo lơ lửng trên mặt nước. Mỗi thùng lại có những cái đáy thả tự do trong đó để khi cá nhao lên chạm vào những cái chuôi gắn ở đáy làm cái đáy bị kênh lên thế là lại có những mẩu thức ăn rơi xuống. Lẽ đương nhiên là hàng trăm con cá lại quẫy đuôi thùng thùng chồng chận lên nhau để tranh ăn. Có lẽ lũ cá đã quen với việc động chạm vào cái đáy thùng để cho thức ăn rơi ra, nên cứ hết thức ăn lại có vài chú cá chạm vào tấm đáy. Cách nuôi cá bằng thức ăn làm sẵn ở đây thật là hiện đại, Hằng chưa thấy ở đâu trên đất Việt Nam có cách nuôi cá như vậy cả.
          Về đến nhà rồi Hằng vẫn thấy vui như đang đi trên thuyền máy đến trại cá, anh rất muốn mọi người trong đoàn đều được xem cách tổ chức nuôi cá ở nước bạn để rồi sau này nếu ai đó có điều kiện thì học cách này mà làm ở nước mình. Chiều hôm ấy anh gặp cậu phiên dịch chính của đoàn và nhờ câu ấy đến gặp ông đốc công thuỷ lực để đề xuất việc này. Rất may là ông ấy đã nhận lời đưa cả đoàn đến thăm hồ cá. Chỉ có điều là mọi người phải đi bằng xe ô tô, vì thuyền máy bé quá. Hằng nghĩ dù sao thì cũng có được chuyến đi vãng cảnh nên anh cũng tán thành rồi về trao đổi với đoàn trưởng.
          Thế là sớm hôm sau hơn hai chục người trong đoàn đều lên ô tô để đi thăm hồ cá. Tất nhiên là mọi người đều rất thích thú về chuyến đi chơi ngoại khoá không phải đoàn nào cũng may mắn có được. Một số người đi vắng nghe kể lại chuyến đi thăm hồ cá cứ xuýt xoa tiếc mãi. Những người bạn Liên Xô cũng vui lắm, họ thấm thía về tình cảm của những người bạn Việt Nam xa xôi. Những người bạn không những luôn  yêu mến con người của bạn mà còn thích thú và trân trọng đến cả những công việc thường ngày của bạn. Từ phía bạn, một sự cởi mở hết sức mới đã được mở ra cùng với sự giúp đỡ thật là thiết thực cho những người bạn Việt Nam. Nhiều thứ hàng hoá to lớn như tủ lạnh đều được bạn giúp mang về kho vật tư của nhà máy để bảo quản hộ. Sau này trong lần cân hàng để gửi qua đường biển, nhiều người lo quá trọng lượng sẽ phải để lại, người phụ nữ làm việc này đã nói:
          - Các bạn Việt Nam đang khó khăn, họ chỉ có một cái thùng hàng nhỏ. Cho dù mua quá một số đồ dùng cũng không làm cho Liên Xô nghèo đi. Vài chục cân quá tải trọng cũng không chìm tầu được, cứ để thế mà chuyển không cần cân nữa. Thế mới biết khi đã yêu mến nhau, người ta dễ bỏ qua cả nguyên tắc để vì nhau là vậy.
          Hàng hoá đã hết nên Hằng chẳng bận gì, suốt ngày anh đi theo các nhóm sửa chữa trong nhà máy để xem cách làm một số công việc mà anh chưa có dịp làm tại Việt Nam. Anh đã leo lên tận đỉnh nhà máy để chui vào các buồng phân ly than, chui sâu vào buồng lò đang đại tu để ngắm các giàn ống đỏ như tôm luộc. Xuống gian máy anh cũng vào đẩy cần mở các đai ốc của bơm nước cấp, giữ khoan ngang để khoan chốt cánh tua bin. Còn một cái may mắn nữa là anh đã cùng với bạn tiến hành cân bằng tĩnh và cân bằng động tua bin mới sửa chữa. Anh tự tay đi lấy độ rung ngang, độ rung dọc và ghi vào bảng thông số. Những  chuyên gia cân bằng từ Trung tâm sửa chữa của ngành điện Liên Xô đã chỉ bảo cho anh rất nhiều trong công việc.

                                                                3

          Chiều nay tất cả đoàn đều được nghỉ thực tập để đi nhận quần áo rét từ một cửa hàng bách hoá ở ngay trong thị trấn. Hằng đến cửa hàng thì số đông anh em đều đã nhận xong mọi thứ. May mà chỉ còn một vài người do số quá to đang tìm đổi lại nên công việc mới chưa kết thúc.
          Việc Hằng đến muộn không phải do lỗi ở anh mà vì đoàn báo giữa buổi trưa, trong khi ấy thì Hằng lại đi thăm một bà mẹ người Nga mà Hằng đã gặp hôm thứ tư tuần trước. Hôm ấy anh đi ra khu vực ngoại ô thị trấn để xem quang cảnh làng xóm và đồng ruộng của bạn thì gặp một bà mẹ người Nga đang xách hai cái túi lưới khá to với nhiểu hoa quả ở trong đó. Hình như bà cụ thu hái hơi nhiều nên quá sức mang vác của mình. Thấy tình cảnh ấy Hằng đã đến bên và xách đỡ bà cụ một túi. Mặc dù chỉ có thể nói chuyện ra hiệu bằng tay với bà cụ nhưng cụ cũng biết anh là người ở khách sạn điện lực trong thị trấn. Hình như bà cụ bảo chỗ ở của cụ gần đó nhưng anh chẳng hiểu gì. Chỉ đến khi bà cụ bắt anh cởi áo ngoài ra, dốc vào đó hàng tá dưa chuột và táo rồi lại đưa cho anh miếng giấy mà cụ ấy mới viết thì anh hiểu là cụ ấy cảm ơn và hẹn thứ tư tuần sau gặp lại. Chính vì thế mà khi Hằng về đến nhà thì mọi người đã đi hết cả. Cũng bằng ra hiệu với mấy bà nhân viên khách sạn mà anh biết được đoàn của anh đến cửa hàng để lấy áo rét.
          Vừa gặp số anh em mang áo rét và dầy dép đi ra Hằng đã thấy buồn cười không sao dừng lại được. Cũng vì sợ ảnh hưởng đến mọi người nên anh cứ phải bịt mồm lại và khùng khục ở trong đó. Hằng không cười sao được khi hầu hết anh em Việt Nam người thì nhỏ bé lại mang những cái áo to xụ dài đến quá đầu gối. Hằng hình dung họ như những chú chim cánh cụt của miền bắc cực đang đi lại giữa các quầy hàng hoá. Cũng có một vài người đổi được một vài cái áo ngắn hơn nhưng lại quá mỏng mảnh và hình như là của nữ giới vì cúc cài đều đơm ở bên vạt trái. Đến lúc Hằng vào thì số quần áo to dài kia cũng không còn nữa, anh nhờ phiên dịch hỏi hộ xem nên giải quyết như thế nào. Thế là cửa hàng bảo anh cứ lấy một cái đắt nhất để sau này cất về nhà hai hôm nữa sẽ mang sang đổi lại. Hằng nghĩ lúc đi anh đã mượn được cả một cái áo len dày , với lại trời cũng chưa rét lắm nên anh đồng ý làm như vậy. Anh đi dọc mấy hàng quần áo nhìn mãi mới thấy có một cái áo to lớn nhưng dáng áo và các túi thiết kế khá cách điệu với đường may khá đẹp, giá đến một trăm lẻ bốn rúp, thế là anh quyết định lấy chiếc áo này. Giầy thì anh chọn một đôi giá sáu mươi bảy rúp khá đẹp, tất nhiên là anh đi không được vì quá rộng. Thế mà số tiền quần áo được phép lấy là hai trăm rúp vẫn chưa hết được. Anh buộc lòng phải lấy thêm một cái mũ lông độ mười lăm rúp nữa  rồi trở về nhà.
          Ba hôm sau anh mang gói quần áo sang cửa hàng để hỏi xem đã có hàng mới về chưa để đổi thì vẫn chưa có. Phiền lòng quá anh liền cứ xách cả đống quần áo ấy để lên xe buýt đi huyện lỵ Belovo. Thực ra thì anh cũng chỉ muốn lên trên ấy xem có loại quần áo nào phù hợp với mình không chứ cũng chẳng định mua gì. Huyện lỵ nhiều cửa hàng chắc là có đủ các loại chứ chắc không thiếu như dưới thị trấn.
          Hằng cũng đã lang thang vào mấy cửa hàng nhỏ nhưng những thứ anh cần hầu như cũng không có. Lần này anh quyết định vào một cửa hàng thật lớn xem sao. Bước chân vào cửa hàng lớn chưa được mươi bước đã thấy một người mặc đồng phục màu xanh, đội mũ lưỡi trai đi đến chạm tay vào người anh chỉ trỏ và nói như máy. Mãi đến khi anh ta biết là anh không biết tiếng Nga thì anh ta phì cười giơ hai tay lên và dang ra ngang ngực tỏ vẻ không biết giải thích thế nào. Thấy người đàn ông không thể diễn đạt được cho ông khách này hiểu thì đến một người phụ nữ tiến ra. Chị phụ nữ không nói mà chỉ khẽ cười rồi giơ tay chỉ vào một cái biển rồi cầm tay Hằng kéo nhẹ dẫn anh đến trước hàng loạt các tủ sắt có chìa khoá rồi chị ra hiệu đưa cái gói giấy của anh vào đó khoá lại và bỏ chìa khoá vào túi. Đến đây thì Hằng biết là người phụ nữ nọ bảo anh cất đồ vào đó rồi hãy vào cửa hàng. Hiểu thì đã hiểu nhưng Hằng không làm theo vì anh thấy phiền phức quá, hơn nữa anh cũng chẳng mua gì thế thì ra thôi chứ vào để làm gì. Nghĩ thế nên anh giơ tay chào mọi người rồi quay ra cửa. Vừa ra đến cửa thì anh thấy từ phía sau lại có ai đó kéo anh trở lại. Anh quay lại đang định tìm cách phân bua với họ thì anh thấy hầu như gần hai chục nhân viên đều im lặng quay về phía anh như chờ đợi phản ứng của anh. Vẫn cô gái lúc nãy khẽ cười và chỉ vào cái gói giấy của anh rồi vẽ một dấu hỏi vào không gian trước mặt anh. Cũng không hiểu cô ấy nói gì nhưng anh đoán họ nghi ngờ về cái gói của anh nên anh đành phải giải thích cho họ hiểu vậy.
          Anh nghĩ đầu tiên có lẽ mình phải cho họ biết mình là ai rồi mới giải thích được. Thế là anh vẽ hình ảnh lá cờ sao vàng của Việt Nam rồi chỉ vào mình. Điều này thì họ hiểu ngay và quay lại nói với nhau rất nhiều. Anh chờ cho họ thôi bàn bạc rồi đọc tên cái khách sạn mà anh đang ở. Lẽ dĩ nhiên là họ gật đầu tỏ vẻ rất biết. Tranh thủ lúc còn yên lặng anh lấy tay vẽ hình một cái áo rồi làm ra vẻ khoác lên mình nhưng rồi cúi xuống ra hiệu rằng nó quá dài rộng rồi làm bộ cởi ra và lắc đầu tỏ vẻ không thể sử dụng được. Nói đến đây thì anh hết cách giải thích vì làm thế nào để nói cho họ biết việc mang tạm đồ không dùng được để đổi lại sau. Đang còn lúng túng không biết diễn đạt thế nào anh liền đến mở gói giấy ra lấy cái áo khoác lên người rồi chỉ cho họ thấy cái trở ngại của nó là vậy. Cô gái lúc nãy đến cầm lấy chiếc áo Hằng mới cởi ra và xem xét khắp lướt. Cô gọi thêm hai người bạn nữa đến xem rồi cầm áo treo vào mắc của cửa hàng. Hằng còn đang ngơ ngác chưa hiểu ra sao đã thấy cô ấy kéo tay dẫn anh đến các quầy để xem hàng tại đó. Đến lúc này thì anh hiểu là họ đã bàn nhau đồng ý đổi cho anh một cái áo khác trong quầy của họ. Thế nhưng tìm đến trợn cả mắt Hằng cũng không thấy cái nào vừa cho anh cả, anh đành rời các quầy trở lại gặp lại họ. Khi thấy anh không tìm được cái áo nào vừa với mình thì họ cùng cười rồi chỉ cho anh thấy bức hình một chú bé trong quầy dụng cụ thể thao cạnh đó rồi chỉ sang cửa hàng ở cuối đường phố này. Đến đây thì anh cũng đứng ngây ra rồi cười cùng với họ. Ngay sau đó cô gái lúc nãy lại cầm tay anh đưa đến chỗ cô gái đang ngồi cạnh cái máy tính. Cô gái nhấn tay vào các nút trên máy rồi quay cái tay quay làm cho cái máy kêu xoành xoạch, lát sau nó nhả ra một tờ giấy nhỏ, cô gái trao cho anh và dẫn anh đến góc quầy nhận tiền. Số tiền anh nhận được là một trăm lẻ bốn rúp, đúng bằng giá tiền cái áo của anh. Anh cảm ơn họ rồi đi ra khỏi cửa hàng, họ cũng đáp lại lời anh nhưng vì họ đông quá nên anh cứ nghĩ họ đang hô khẩu hiệu để chào anh. Trên đường về anh thầm nghĩ có lẽ mình sẽ là câu chuyện vui của họ sau nhiều ngày nữa. Tuy nhiên anh nhận thấy những người Nga anh đã gặp sao mà thân thiện và nhiệt tình đến vậy. Đâu là sự vui vẻ của bà già hái trái cây, nay lại có thêm các cô gái bán hàng bách hoá suốt cả tiếng đồng hồ giúp anh tìm áo.
          Theo sự chỉ dẫn bằng hình của những người bán hàng Hằng tìm đến cửa hàng quần áo trẻ em và cũng không khó mấy khi chọn được một bộ comlê màu xám và một chiếc áo man tô dày và nặng. Trước lúc ra về anh còn vào một cửa hàng giầy để đổi đôi giầy quá khổ mà anh lĩnh hôm trước. Đôi giầy mới anh chọn không những vừa chân của anh mà lại còn có lớp lông bên trong rất dày. Người bán hàng cũng cầm đôi giầy của anh xem kỹ rồi đặt vào giá xếp giầy của cửa hàng. Hằng biết đôi giầy anh lấy khá tốt nhưng không hiểu tại sao giá lại rất rẻ. Anh nghĩ có lẽ chính phủ Liên Xô có trợ giá cho các thiếu nhi nên mới có giá ấy. Dẫu sao thì anh cũng đã có giầy mới thay cho đôi giầy mang từ Việt Nam sang bây giờ đã cứng quèo vì lạnh.
          Vừa bước chân ra khỏi cửa hàng thì chị hàng giầy túm áo lôi lại. Hằng giật cả mình nghĩ không biết mình có sai sót gì không, hay là đôi giầy của mình đã có vết cọ sát nào đó trong quá trình đi thử mấy vòng ở khách sạn. Cuối cùng thì anh nhận ra những lo nghĩ của anh cũng bằng thừa vì chị bán giầy kéo anh vào là để lấy lại số tiền chênh lệch của hai đôi giầy. Thế là anh lại có thêm một khoản tiền nữa để mua sắm thêm một vài thứ cho nhà.
          Về đến khách sạn thì anh thấy Nhiếp đang lấy chìa khoá phòng. Khi đã nằm dài trên giường xả bớt cơn mệt mỏi Hằng mới kể cho Nhiếp nghe câu chuyện đổi áo, đổi giầy. Đầu tiên Nhiếp còn cười vì các chi tiết ngô nghê của Hằng khi chạm trán mấy cô bán hàng, Nhưng đến khi câu chuyện kết thúc thì Nhiếp tròn cả mắt vì ngạc nhiên:
          - Em không ngờ anh chả biết một tý nào tiếng của họ mà lại thành công đến thế.
          Ngừng một lúc Nhiếp lại nói tiếp:
          - Trong khi đó suốt buổi sáng nay, em đi tìm cách đổi hoà mà cũng không ai đổi cho.
          - Có lẽ anh là loại khù khờ nên được thánh nhân đãi chăng.
          - Cái đó thì chưa hẳn! Nhưng có điều trông anh hiền lành mà lại chậm rãi nên chắc là họ có cảm tình?
          - Anh cũng chịu... Nếu thế mai anh dẫn chú đến đó xem sao.
          - Có lẽ em không đổi áo nữa vì chiếc áo này tuy rộng nhưng em cao nên trông cũng khá vừa.
          - Thế thì đổi giầy vậy?
          - Nhưng mà... Anh chỉ cần ghi địa chỉ cho em là được.
          - Anh đâu có để ý đến tên cửa hàng, chỉ biết nó là cửa hàng to nhất thị trấn là được. Nhưng tốt nhất là anh dẫn chú đi.
          - Em sợ nếu anh đi cùng với em, có thể họ cho là buôn bán thì chưa chắc họ sẽ đổi cho đâu.
          - Thế thì chú đi một mình và nhớ đừng nói gì cả mà chỉ có ra hiệu thôi đấy nhé.
          Nghe tin Hằng đổi được quần áo và giầy tốt mà lại có thêm tiền chênh lệch, nhiều anh tiếc vì đã đổi chác ở đâu đó mà không biết làm theo cách của anh.
          Mùa đông đã bắt đầu đến làng Iscoi, nơi có nhà máy điện Hằng đang thực tập. Đầu tiên là những mảng nước đã đọng lại trên đường mỗi buổi sáng, cùng với những cơn gió lạnh và khô. Những ngày sau đó lớp nước đá trên đường cứ dày thêm và một tuần sau đó thì trên cây và trên các bức tường dọc đường vào nhà máy đã có nhiều bông tuyết trắng mềm đậu lại. Hằng cũng không thấy rét lắm có lẽ vì anh được ăn nhiều chất và đã có đủ quần áo ấm. Mỗi ngày anh vẫn đến nhà máy đều đặn mà chẳng phải đi bán hàng như nhiều anh em khác. Có chăng là anh cũng ra chợ bán giúp cho đoàn một số mành mà thôi. Cũng không hiểu sao anh bán rất chạy trong khi các anh em khác cũng bán cùng một thứ.
          Sau khi thống nhất với anh San và phiên dịch Ích, ngày mai mấy anh em sẽ đến thăm nhà ông kỹ sư thuỷ công đang hướng dẫn Hằng thực tập. Chương trình chính là thăm hỏi và tổ chức làm một bữa cơm Việt Nam mời ông bà kỹ sư, luôn thể cảm ơn ông bà đã nhiều lần tổ chức tiếp mấy anh em trong suốt mấy tháng qua. Cũng may là Hằng khá thành thạo trong chế biến các món ăn chứ nếu cứ như anh San thì chắc là cũng chịu.
          Chiều qua Hằng đã đi mua thịt bò và một số gia vị ở chợ. Nói là mua gia vị chứ cũng chỉ là mấy củ tỏi, củ hành mà thôi. Còn gừng, húng lìu, bánh đa nem, miến và mộc nhĩ thì Hằng đã mang từ Việt Nam sang từ lúc rời quê Việt. Tất nhiên là Hằng đã chế biến theo đúng quy trình của Việt Nam với món xào thịt bò với hành tây. Món nem Sài Gòn với nhân là thịt băm cùng miến trứng và mọc nhĩ. Hằng còn bóp gừng và húng lìu với thịt bò rồi nướng trên than hoa thơm đến nhức mũi. Anh cũng chế thêm món bắp cải trộn dấm và muối giả làm dưa chua để chống ngán thức ăn có nhiều dầu mỡ. Đương nhiên là hai vợ chồng ông kỹ sư lúc nào cũng chỉ còn biết giơ ngón tay cái ra để mà xác nhận cái lạ, cái ngon của món ăn thuần Việt. Ông cũng mang ra nhiều thức ăn khác của nhà nhưng hầu như ít ai đụng đến. Thực ra thì Hằng khá thích thú với món đậu Hà Lan đóng hộp vì ăn nó rất bùi và món dưa chuột muối đóng lọ do bà kỹ sư chế biến. Vừa vui vẻ tâm sự trong khi ăn nhưng bà kỹ sư cũng luôn để ý xem các món bà chuẩn bị các bạn Việt Nam có thấy thích hay không. Khi thấy Hằng ăn nhiều hai món đó thì bà mừng lắm. Bà cười luôn miệng và không ngăn ông kỹ sư chúc rượu với mọi người. Cũng đã có đến vài lần bà kỹ sư cố ý nhìn ông hơi lâu như ngầm ra hiệu điều gì đó nhưng ông cứ mặc kệ. Ông khề khà nói với anh phiên dịch về ý tứ của bà ấy và ông mạnh dạn tuyên bố rằng hôm nay ông không chấp hành nghị quyết của bà nữa vì cái món rượu cô nhắc ba trăm năm rất quý. Tất nhiên là bà kỹ sư cũng cười vui rồi quay sang thì thầm chuyện gì đó mà Hằng không thể biết được. Bữa cơm khách kéo dài hơn ba tiếng mới xong. Ai cũng vui, cũng thân tình và cởi mở. Bà kỹ sư cứ bắt Hằng ôm về sáu bẩy lọ mứt quả mà bà tự tay chế biến.
          Chiều nay Hằng mới có thời gian rỗi rãi một chút để chuẩn bị chuyển sang thực hành sửa chữa bơm cấp nước. Thực ra thì Hằng đã làm chán các bơm cấp khi còn ở Thanh Hoá, nhưng biết đâu các nhà máy lớn bơm sẽ khác đi chăng. Nhưng mà thôi chả nghĩ làm gì nữa vì dù sao thì ngày mai anh sẽ được thấy hết, bây giờ cần thiết là phải tăm xem ở đâu có quạt điện để mà mua chứ không thì lại về nước tay không thì chán chết. Hằng cũng biết đi tìm mua quạt trong mùa rét cũng là chuyện ngược đời, nhưng nếu không thế thì biết mua gì.
          Từ lúc xuống xe buýt Hằng đã đi đến ba cửa hàng công nghệ phầm nhưng cũng chỉ thấy có mấy cái quạt nhựa Orbita hỏng mà cửa hàng chưa cất đi. Biết vậy nhưng Hằng vẫn cứ đòi cửa hàng cho xem bằng được bất chấp mấy cô cửa hàng hết nói lại giơ tay làm hiệu. Thấy anh quyết tâm quá thế là cô gái cứng tuổi nhất cũng đành lôi ra một cái đưa cho anh xem. Vừa cầm lấy cái quạt Hằng đã nhận ra cái quạt chẳng hỏng gì cả mà chỉ bị lỏng hai cặp ốc gông mà thôi. Tiện tay anh mượn cái tuốc nơ vít bắt lại rồi mang ra gần cửa cắm vào ổ điện chạy thử. Mấy cô nhân viên tròn cả mắt khi thấy cái anh chàng nhỏ bé da vàng này chỉ mới loáng một cái đã làm cho cái quạt chạy được. Cũng có một cô tiến đến ra hiệu hỏi Hằng vì sao mà lại cần mua quạt đến thế. Hằng chỉ cần nhìn nét mặt cô gái đã hiểu ý, anh lấy một mảnh giấy rồi vẽ vào đó một ông mặt trời rồi ghi vào đó con số 38 có ý muốn nói ở nơi chúng tôi rất nóng. Tuy vậy cô vẫn ra hiệu to ý hỏi vì sao có nhiều người mua và lại mua nhiều đến thế. Hằng cũng chỉ cười rồi vẽ lên giấy hai hình người to và sáu bẩy người bé từ cao đến thấp ra ý bảo nhà tôi đông người lắm. Khi anh ngước lên nhìn cô gai thì thấy cô vừa cười vừa le lưỡi tỏ vẻ ngạc nhiên lắm. Hằng cũng cười theo rồi tiện bút khoanh nhóm người kia lại rồi viết thêm con số hàng chục vào đó có ý bảo chúng tôi còn có nhiều anh em và bè bạn khác nữa. Có lẽ cô gái cũng hiểu, cô gật đầu mỉm cười và giơ tay nắm lấy tay Hằng mà chẳng có gì ngại ngần rồi cứ thế cô kéo anh ra bàn làm việc của cô. Sau khi đã buông tay Hằng ra cô lại lấy bút giấy và viết vào đó mấy hàng chữ rồi gấp nhỏ lại bỏ vào túi anh. Hằng đoán cô muốn bảo anh mang giấy về cho người khác đọc hộ cho anh. Anh cũng lại đọc một câu cảm ơn bằng tiếng Nga duy nhất mà anh thuộc rồi rời cửa hàng lên xe buýt về khách sạn. Vừa về đến cửa khách sạn thì Hằng gặp anh San cũng từ nhà máy về đến đó, Hằng liền móc túi lấy tờ giấy lúc nãy đưa cho anh San. Có lẽ cũng phải đến gần mười phút vừa đọc vừa luận anh San mới biết nội dung tờ giấy, anh nói:
          - Thế ai đưa cho cậu tờ giấy này thế?
          - Một cô nhân viên ở cửa hàng công nghệ phẩm anh ạ... thế họ bảo gì đấy?
          - Tớ cũng chỉ hiểu họ bảo chú đến một chỗ cửa hàng to nào đấy vào ngày thứ tư tuần tới cùng với họ. 
          - Thế thì em hiểu rồi.
          Anh San nghe Hằng nói có khi còn ngạc nhiên hơn cả khi anh đọc được mấy chữ trong tờ giấy Hằng đưa cho, anh nói:
          - Tớ vẫn chả hiểu gì cả thế mà cậu lại bảo đã hiểu rồi, thế là làm sao?
          Hằng cười thành tiếng rồi ghé tai anh San nói nhỏ:
          - Họ hẹn đến cửa hàng chính để mua quạt vào thứ tư tới đấy anh ạ.
          - Thật thế hả?
          - Em đoán như vậy.
          - Thế thì may quá, tớ vẫn chửa mua được cái nào.
          Mặc dù suốt ba ngày nghĩ ngợi lung tung và không tin lắm vào tờ giấy hẹn, bởi chưa chắc cô gái ấy đã nhớ và giữ đúng lời hứa vì có bao nhiêu việc sẽ đến với cô trong mấy ngày qua. Thế rồi mọi lo nghĩ của anh cũng bằng thừa, vì thứ tư ấy Hằng và anh San đã có xe đưa đến tổng công ty để lấy quạt điện.
          Không những thế Hằng còn phát hiện ra tại nơi này còn có rất nhiều tủ lạnh Saratop, thứ mà đoàn đã tìm mãi vẫn chưa có chỗ nào đủ ba mươi cái để mua đồng loạt cho cả đoàn. Chỉ hai ngày sau đó nhờ Hằng giới thiệu đoàn thực tập đã mua được đủ ba mươi cái tủ lạnh trong sự hoan hỷ của tất cả mọi người.
          Những ngày thực tập đã kết thúc nhanh chóng mặc cho những người bạn Việt có hiểu được gì không khi chữ thì không biết và tiếng thì cũng chẳng thể nghe. Điều quan trọng là mỗi người đều đã nhìn thấy những cái máy mà cả đời người mới gặp được tại đây và rồi mai ngày không đến nỗi phải bỡ ngỡ khi nhìn thấy  những đồ vật mới này. Việc trông coi vận hành thì cứ theo sách để mà thuộc lòng, việc sửa chữa thì đã có chuyên gia kèm ngay bên để mà chỉ dẫn. Thế thì việc đi học vốn dĩ đã không còn là chủ yếu mà nó đã phải xuống hàng thứ yếu. Cái chủ yếu lại là việc mua được bao nhiêu thứ để mang về nước sử dụng và bán đi một ít lấy tiền dùng vào việc cải thiện đời sống sau này.
          Sau mấy tháng thực tập ở tận miền Xibêri giá lạnh và heo hút, đoàn đư­ợc nghỉ tại Mạc tư­ khoa ba ngày để tham quan và chờ máy bay về n­ước. Do có kế hoạch báo tr­ước nên mỗi ngư­ời đều giữ cho mình chút ít tiền để mua sắm, chính vì thế mà vừa về đến khách sạn Vostok họ đã kéo nhau ra xe để lên Gum, Sum ngắm cảnh và mua hàng hoá.
          Hằng cũng còn khá nhiều tiền nên anh mua thêm đ­ược một vài thứ. Nh­ưng cái chính là anh mua thêm một ít quà bánh về cho con, vì các thứ ở bên này rất ngon mà về nhà thì không sao có đư­ợc. Anh cũng mua thêm mấy cây thuốc lá ngon để về làm quà cho bạn bè. Cũng không thiếu ng­ười chỉ đi ngắm không vì chẳng còn tiền nữa. Họ đã cố mua thêm một ít hàng hoá để gửi tầu biển mang về bán lấy tiền.
          Khó có thể nói các gia đình có ng­ười đi thực tập vui nh­ư thế nào khi sau mấy ngày tết họ lại đư­ợc đón ng­ười thân trở về. Một điều quý hơn nữa là về cùng với những ng­ười thân là số hàng hoá họ mang theo về n­ước. Các con của Hằng sư­ớng nhất là là bố mang về cái đài đĩa xinh xắn và nhiều bánh kẹo. Những cái kẹo thật ngọt và thơm mà chúng chỉ đ­ược ăn vài lần khi bố chúng mang từ nhà máy về trong các dịp lễ tết mà các chuyên gia làm quà cho số cán bộ lãnh đạo trong đơn vị. Hôm nay thì khác vì chúng đ­ược ăn thoải mái hơn trong lúc nghe đài ca hát. Hằng cũng cố mang về cho vợ con mấy quả táo của Liên Xô, thứ mà nhiều ng­ười Việt Nam ch­ưa bao giờ nhìn thấy. Những ng­ười bạn xung quanh cũng vui lây cùng với họ khi nhận đư­ợc những phần quà thật là bé nhỏ. Cho dù chỉ là m­ươi cái kẹo cho trẻ con và một vài sợi dây điện trở làm bếp đun nấu hàng ngày.

                                                               4

          Hằng trở lại công việc của mình với chức danh đốc công sửa chữa như­ đã có từ lúc hình thành đơn vị. Đây là chức danh mới có ở một vài nhà máy trong ngành điện. Một chức danh thật chả đáng có vì ngư­ời ta chẳng có ch­ương trình cụ thể nào cho chức danh này. Nói cho đúng ra thì chức danh này chỉ là tổ trư­ởng của một tổ sản xuất lớn mà thôi. Tuy nhiên trong thời điểm hiện tại nếu không có những ngư­ời đã có kinh nghiệm trong thực tiễn thì cũng khó có ai dám đảm bảo rằng số học sinh mới ra trư­ờng với một mớ lý thuyết sẽ làm đ­ược mọi việc khi họ còn ch­ưa biết cái máy nó hoạt động cụ thể ra sao.
          Bên d­ưới chức danh này là các tổ sản xuất mới hình thành do những công việc cụ thể của đơn vị mà đồng chí quản đốc đã giao cho Hằng lựa chọn. Đành rằng Hằng chư­a hiểu gì nhiều lắm về chủng loại máy móc hiện nay của Phả Lại nh­ưng anh đã kinh qua rất nhiều các loại máy khác ở nhà máy cũ nên cũng đã hiểu đư­ợc những phần cơ bản của thiết bị. Bản thân anh cũng đã nhiều lần tổ chức các đợt sửa chữa, đại tu nên anh biết cần gì cho công việc và cách quản lý mọi ng­ười d­ưới quyền mình. Ngoài ra kinh nghiệm tổ chức các hoạt động đoàn thể, các hoạt động xã hội từ khi còn là một cậu niên đội tr­ưởng, một cán bộ đoàn cũng đã giúp Hằng một phần trong công tác quản lý mới mẻ này.
          Việc tuyển chọn số công nhân cho các kíp vận hành thì Hằng đã cùng với anh San phó quản đốc và anh Tham duyệt từ khi mới tập kết quân từ các nơi về đơn vị. Thực ra thì lúc ấy Hằng cũng mới chỉ đư­ợc phân x­ưởng đề bạt lên làm đốc công và có khác một chút là anh cũng là một trong bốn đảng viên trong đơn vị nên mới đ­ược bàn bạc công việc này.
          Sau nhiều lần di chuyển qua các đơn vị khác nhau, kẻ cả những đơn vị có sẵn phiên hiệu và quân số đến những đơn vị mới b­ước đầu thành lập thư­ờng thì rất đơn giản vì ch­ưa có ông cán bộ nào muốn ra mặt độc đoán để quyết bao giờ trừ vài trường hợp anh ta có những ng­ười thân cận cần đ­ược xếp đặt để tạo sự liên minh sau này. Cũng chính vì thế mà số công nhân từ các đơn vị chuyển về đ­ược coi là những ng­ười đã có kinh nghiệm và phải đư­ợc chọn trư­ớc. Số còn lại chắc chắn rằng phải chọn theo kết quả học tập hoặc chọn theo một tiêu chí nào đó cao hơn mà mấy ông cán bộ ban đầu này cùng thống nhất. Cũng chính vì suy nghĩ nh­ư thế nên Hằng đề xuất đến đâu là mọi ng­ười đều tán thành cả.
          Lần này việc chọn các tổ trư­ởng, tổ phó cho bốn tổ sửa chữa quả có làm Hằng bận tâm hơn hồi tr­ước. Cũng may là có ít công nhân cũ và một số học sinh đư­ợc đào tạo từ Liên Xô về nên anh dễ lựa chọn hơn. Không quá hai ngày sau Hằng đã có thể hoàn chỉnh danh sách cơ cấu của bộ phận sửa chữa và cũng chẳng cần gì mà anh Tham không duyệt ngay danh sách đó. Có điều là cả Hằng và bộ phận lãnh đạo đều không biết rằng bên trong cái sự chấp hành kia cũng còn có nhiều những phản ứng âm ỉ đã bắt đầu hình thành do quan niệm họ cũng chỉ là cá mè một lứa mà thôi.
          Cũng không biết các đơn vị khác lớn hơn họ làm những công việc gì trong suốt thời gian chờ đợi khởi động tổ máy đầu tiên ngoài việc đi thâm nhập thực tế ngoài công tr­ường lắp ráp thiết bị. Còn phân x­ưởng của Hằng thì rối hết cả lên vì nơi ăn chốn ở và cả kế hoạch vận hành thiết bị cấp n­ước cho thi công và sinh hoạt. Cũng phải thôi vì phân xư­ởng của Hằng là khâu đầu tiên trong dây chuyền vận hành thiết bị.
          Đã có vận hành là phải có hư­ hỏng và những điều chỉnh, sửa chữa cần thiết cho các thiết bị ấy. Những đợt sửa chữa nhỏ trong đơn vị bất đầu thì Hằng nhận ra rằng số công nhân của mình hầu nh­ư chư­a quen lắm với các việc về cơ khí, một trong những kỹ năng tối thiểu để hoàn thành công việc. Những ng­ười công nhân mới chỉ đ­ược vài lần đứng bên bàn nguội để thay nhau sử dụng mấy cái dũa cũ thì làm sao đã quen công việc được. Thảm hại hơn là cả việc cầm cái búa để đóng vào một vật có bề mặt khá lớn mà cũng trư­ợt ra ngoài. Còn việc cầm búa cái thì không thể nói gì hơn vì nếu không cẩn thận là họ choảng vào đầu thợ cả chứ chẳng chơi. Chư­a nói đến chuyện họ quai búa xuống đe cứ nh­ư là đập đất vậy, nhát nặng, nhát nhẹ hụt hẫng chả ra kiểu cách gì. Mỗi khi nhìn thấy cái sự ấy là Hằng lại nhớ đến những ông thầy của mình ngày x­ưa để rồi buồn bực không gì tả nổi.
          Hai tuần sau Hằng bắt đầu cho nổi lửa học rèn bằng những cái lò, cái quạt và cả những cái kìm, cái búa do anh tự chế lấy. Anh cũng dần vui trở lại khi đã có vài cậu học trò thay anh cầm kìm cho bạn nghề đánh búa rèn ra vài cái đục để dùng. Anh cũng dạy họ rèn những con dao để dùng trong công việc của đơn vị như­ anh đã rèn ngày nào trong quân đội, cùng với kinh nghiệm mà anh đã đổ mồ hôi sôi máu mắt bao năm qua mới có đ­ược để bảo cho họ cách tôi, ram dụng cụ mà hầu như­ họ ch­ưa có một chút khái niệm thực tiễn nào.
          Công việc từng lúc đã dần dần ổn định về mọi mặt dù đơn vị bây giờ chỉ có anh Tham quản đốc và Hằng là đốc công vừa lập kế hoạch vừa triển khai thực hiện.  Số cán bộ kỹ thuật cho dù có tham gia chỉ đạo thì cũng chỉ với danh nghĩa kỹ thuật đơn thuần trong vận hành thiết bị. Anh Tham thì lo đi họp suốt cả sáng, trưa, chiều, tối chẳng còn thì giờ đâu mà dòm ngó đến công việc, cũng chính vì thế mà trăm công ngàn việc đều do Hằng cáng đáng. Hàng ngàn phiếu công tác trong mỗi năm, chưa kể những việc chỉ trao đổi bằng miệng hàng ngày đều qua tay Hằng cùng bộ phận sửa chữa thực hiện.

                                                                     5


          Để chuẩn bị tốt thiết bị cho tuần tới và tránh phải huy động sửa chữa trong ngày chủ nhật, Hằng đã cho củng cố tất cả các thiết bị dự phòng. Sớm nay thứ bẩy dưới vận hành chỉ yêu cầu sửa chữa phần chèn của bơm cứu hoả số hai, thì Hằng đã giao cho tổ 1 thực hiện chắc giờ này họ đang khoá phiếu công tác rồi cũng nên. Đang thu dọn những quyển sách trên bàn lại để xuống kiểm tra lần cuối trước khi về nghỉ thì Tuần vội vã bước vào. Nhìn vẻ mặt hơi tái cùng với chân tay dính đầy cáu bẩn Hằng đoán chắc có trở ngại gì đó trong công việc. Anh lặng lẽ tiến ra cửa như có ý đón  đợi cậu ta vào phòng. Vừa đi ra anh cũng vừa chăm chú nhìn vào mặt Tuần như có ý dò hỏi xem đó là việc gì. Vừa đi gần đến, anh đã nghe Tuần nói như đứt hơi:
          - Anh..anh ạ... Cái đĩa chặn tét bị gẫy mất rồi...
          Hằng vừa nghe đến đấy đã sững người lại và lo hoảng còn hơn cả Tuần nữa. Anh cũng không ngờ sự việc lại xảy ra lớn đến thế.
          - Cái đĩa chặn to và dầy thế mà sao các cậu lại bẻ ra được thế hả?
          - Em cũng không biết nữa...Tuần nói như người hết hơi, cậu ta phải dừng lại một lúc mới lại nói tiếp được ... Em thấy vẫn rò, xiết thêm có một một cái thế mà đã gẫy rồi...
          - Dặn mãi rồi...nó làm bằng gang nên dễ gãy...bây giờ biết làm sao được (?)
          Tuần biết là Hằng giận lắm nên cậu ta im bặt không dám trả lời cứ đứng lòng khòng giữa nhà trông thật thảm hại.
          Thực ra thì Hằng cũng chỉ nói để mà nói vậy thôi chứ trong đầu anh đang cố lục tìm xem có cách nào để khắc phục hay không. Anh chẳng lạ gì cái việc hàn gang chẳng qua chỉ để liền lại thôi chứ mối hàn đâu có chịu nổi sức ép của hai cái gu jông M16 vẫn dùng để ép nó vào các dây chèn cổ trục giữ cho áp lực nước trên 10 ký không chảy ra ngoài. Chưa nói đến việc hàn gang không phải ai hàn cũng được và cứ hàn là được nếu không sấy ủ vật hàn đúng cách thì mối hàn vừa nguội đã lại gẫy rời ra. Rồi thì mối hàn ấy có thể còn bị vướng không lắp vào ổ trục đượcđể mà dùng.

          Nhìn hai miếng gang mỏng mảnh với các vòng tiện tròn của ống nén bị gẫy làm đôi, Hằng càng chán nản. Anh giận Tuần và mấy cậu sửa bơm hôm đó không biết để vào đâu. Anh không lạ gì mấy ông cán bộ cấp trên luôn thích nâng cao quan điểm và cũng thích phê phán và phạt phiệc đối với những người có lỗi. Trong thời điểm nhạy cảm lúc đó việc làm hỏng thiết bị là một tội khá nặng. Loại trừ việc cố ý phá hoại sản xuất thì cũng là tội vô trách nhiệm rất nghiêm trọng. Với Hằng thì có chăng chỉ bị nhắc nhở là thiếu kiểm tra mà thôi, nhưng với Tuần thì khác hẳn. Tuần có thể bị phê bình, cảnh cáo, hạ bậc lương; nhưng những điều tệ hại còn ở phía sau kia mà không ai biết sự việc sẽ làm khổ cậu ấy đến bao lâu nữa. Mỗi khi xét thi đua, xét lương hình như người ta vẫn hay nhớ đến những thiếu sót để mà cảnh tỉnh và cả để gieo vào công chúng cái sự phải cân nhắc với trường hợp này cho dù cái việc ấy đã xảy ra ba, bốn năm về trước. Càng nghĩ Hằng càng thương Tuần, nếu như anh không nghĩ ra được cách khắc phục nào khả dĩ giải quyết được và sẽ phải báo cáo lên anh Tham quản đốc và cả trên nhà máy để đặt hàng hoặc gia công chế tạo mới. Cũng phải đến hơn nửa tiếng xăm soi với hai mảnh gang gẫy Hằng mới tìm ra giải pháp khắc phục. Anh cũng chẳng lạ gì khả năng tay nghề của Tuần nên đành sắn tay áo để mà làm hộ cho cậu ta vậy. Có lẽ cậu ấy cũng rất lo sợ nên khi Hằng bảo đi kiếm vật liệu và lấy dụng cụ thì hối hả đi ngay.

          Gần hai giờ cặm cụ chặt tôn, dũa lỗ Hằng đã lồng được một vòng thép vào ống nén khá căng chặt. Đây cũng là điều khó nhất trong việc cố định hai miếng gang thành một. Việc tiếp theo là chặt tấm ốp ngoài và khoan các lỗ kẹp cái đĩa này vào giữa. Mãi đến khi bắt chặt cái đia chèn Hằng mới ngước lên tìm Tuần. Anh vừa bắt êcu hãm vừa giảng giải thêm cho Tuần về cách bắt sao cho đều cả hai bên. Tất nhiên là cậu ta chỉ còn biết đứng im mà nghe vậy.
          Về đến nhà thì trời đã tối, Hằng lặng lẽ ngồi ăn bát cơm đã nguội và nghe lũ trẻ con trêu ghẹo nhau. Kể từ khi đưa vợ con ra Phả Lại, cuộc sống gia đình Hằng đã khá hơn chút ít bởi kinh tế đã có sự tập trung. Tuy vậy hàng ngày anh vẫn chẳng giúp đỡ được gì cho Thơ vì công việc ở đơn vị cứ nối nhau không dứt. Thường thì mọi người chỉ cần lo xong công việc trong ngày là có thể phó mặc cho mọi sự, thế nhưng với Hằng thì hình như anh luôn có cách làm việc khác hẳn mọi người. Cho dù chả phải chịu trách nhiệm gì nhưng anh vẫn cứ lo lắng công việc của đơn vị như là của mình vậy. Chính vì thế mà anh luôn tính sao cho mọi việc đều hoàn thiện, thậm chí trên cả hoàn thiện anh mới yên tâm. Phải chăng vì thế mà dây chuyền vận hành  cho dù rất phức tạp nhưng vẫn chu đáo hơn nhiều đơn vị khác. Ngược lại với điều đó thì Hằng lại rất kém trong công việc của chính nhà mình. Trong khi nhiều người chỉ cần thoát ra khỏi công việc là họ đã mưu tính cho gia đình họ. Họ nhặt nhạnh những gì có thể dùng được cho dù rất nhỏ bé như là vài tấm gỗ thùng, mấy đoạn giây thép, thậm chỉ vài cái đanh hay một tý dầu nhờn thải ra đã đen xì đen xịt. Số người cần cù hơn thì suốt ngày lo rau bèo cám bã để nuôi lợn, nuôi gà. Nhưng người có mánh, có mối thì rang lạc cho vào túi hoặc cuốn thuốc lá bán giao cho các quán quanh vùng. Những người có đầu óc hơn thì mua đi, bán lại một vài thứ đồ dùng để kiếm lời.


                                                               MẤT MẸ

                                                                       1

          Tết năm 1985 đã qua đi không lấy gì làm vui lắm vì Hằng bị chó cắn vào chân . Ngay ngày mồng 2 tết anh cũng phải sang Hải Dương để tiêm phòng. Cũng may là nhà máy cho anh Miễn lấy xe ô tô chở đi chứ nếu đạp xe thì chả biết có tiêm được hay không vì tết nhất, thế nào những người trực chả hay đi muộn về sớm, thậm chí chỉ đến cho có mặt rồi biến đi chơi khắp đường cùng, ngõ hẻm, chẳng ai tìm được.
          Công việc trong tết cũng có chùng xuống một chút để mọi người cùng vui, đến bây giờ thì không khí làm việc bình thường đã bắt đầu trở lại. Hàng ngày các cán bộ, công nhân lại leo lên những chiếc xe tải để ra nhà máy làm việc. Những cánh đồng lúa hai bên đường đang bắt đầu bén chân xanh lên từng đợt. Đây đó còn vài dược mạ làm đất cấy muộn cũng đã kín cả rồi. Xa hơn về phía đông là khu phố mới Sao Đỏ cũng đang vào kỳ xây dựng tấp nập xe cộ qua lại trên đường. Những vườn cây đang ra tiếp những đợt lá mới xanh xanh, vàng vàng bên những mái nhà tranh. Xa hơn nữa là con sông Thái Bình đầy những xà lan đưa than về nhà máy. Những đống than bên trong nó phản ánh trời tạo lên trước mắt những tia chói loá. Lúc một từ bên kia đường Mười tám những chiếc đầu tầu đang kéo cả một dãy toa thấp chở than từ Quảng Ninh lên. Thoảng hoặc một hồi còi báo ré lên những tiếng u... u...
          Ra giêng được gần tháng thì mẹ lên chơi với với vợ chồng Hằng. Xem ra kỳ này có thể cụ ở lại khá lâu hay sao mà mang theo khá nhiều đồ dùng và quần áo. Cứ nhìn một đùm lớn những gói cau và sợi vỏ khô thì biết cụ đã chuẩn bị khá chu đáo cho những ngày ở lại sắp tới. Cũng đã mấy lần vợ chồng anh bảo cụ trả ruộng hợp tác rồi lên ở với con cháu nhưng chưa lần nào cụ chịu nhận lời. Cứ mỗi lần cụ lên là Hằng lại giở cái điệp khúc ấy ra để nói với cụ:
          - Chúng con ra đây cốt là để trông nom mẹ, chứ không thì chúng con ra làm gì.
          Và rỗi cụ lại thẽ thọt nói với con trai:
          - Thì tao còn làm được, cũng cố một tý để đỡ cho vợ chồng mày. Chứ lên đây rồi miệng ăn núi lở, hết phần con phần cháu, để chúng nó nheo nhóc tao không chịu được.
          - Thì cụ ăn uống hết bao nhiêu mà cứ phải lo?
          - Ăn đã vậy, còn mặc, còn giầu vỏ. Anh tưởng ít lắm đấy à.
          - Thì cứ có đủ giầu vỏ cho cụ là được chứ gì?
          - Dưng mà còn giỗ chạp, nhà cửa dưới đấy ai lo hộ cho tôi.
          - Thì đã có anh chị Mão ở ngay đó trông coi là được chứ gì.
          - ...
          Cứ mỗi lần như thế mẹ anh đều không nói thêm gì nữa. Hai con mắt lờ mờ của cụ như nhìn vào đâu xa lắm. Khuôn mặt như già nua hơn cả ngay trước đó vài giây. Cũng không biết vì sao trong lòng Hằng chất đầy tình thương yêu mẹ nhưng anh lại không thể tỏ ra mềm mỏng âu yếm như nhiều người con khác. Đau buồn đấy, tê tái đấy nhưng anh cứ đè nén bên trong mà không muốn nói ra. Có lẽ anh thừa hưởng ở bố anh cái tính cao ngạo, trọng nghĩa khinh tài và cả cái sự chịu đựng đến tím tái trong lòng bởi những mất còn, sống chết mà đời cụ đã trải qua...
          Riêng lần lên chơi cuối năm ngoái thì khác hẳn mọi lần. Chỉ vừa mới nghe Hằng nhắc lại cái câu muôn thuở kia thì cụ đã vừa cười vừa nói:
          - Tôi chỉ sợ anh chị nuôi tôi được mươi bữa đã kêu trời kêu đất lên chứ lại...
          - Thì cụ đã lên đâu mà biết.
          Cụ cười hể hả với vẻ như vừa có ý xí xoá câu nói vừa rồi vừa như muốn trêu lại anh cho vui:
          - Được thôi, để rồi tôi thử xem sao.
          Cũng may hồi cuối năm ngoái có gia đình nhà Lang, Biện chuyển từ Lạng Sơn về đổi cho một cái giường đôi bằng gỗ muồng để lấy hai cái quạt nhựa Liên Xô nên nhà Hằng mang cái giường một ghép ra gian nhà ngoài làm chỗ cho mấy bà cháu cái Uyên nằm ở đấy. Cứ tối đến là mấy bà cháu lại rì rầm to nhỏ kể chuyện, còn cụ kể những gì thì anh cũng không sao biết được.
          Đã nhiều năm qua rồi nhưng Hằng vẫn còn nhớ như mới hôm qua vậy. Hồi ấy có một lần anh thấy chị Mão và cô em gái rí ráy cười với nhau khi nhìn thấy Hằng mắt nhắm, mắt mở vừa từ trong buồng bước ra lấy khăn đi rửa mặt. Gặng đi gặng lại cô em mới thì thào vào lỗ tai:
          - Chị ấy bảo anh ứ được nghe bu kể chuyện Thạch Sanh vì ngủ sớm quá.
          - Thế bu kể lúc nào?
          - Thì lúc tối ấy.
          - Thế sao mày không gọi anh?
          - Em gọi mãi mà anh cũng chỉ lăn qua, lăn lại rồi lại nằm im như thóc ấy lại còn.
          - Thế hôm nay bu có kể nữa không?
          - Hết rồi.
          - Sao ngắn thế?
          - Thì em cũng chẳng biết nữa.
          Đã hơn ba mươi năm rồi nhưng những câu chuyện mẹ anh kể vẫn cứ văng vẳng bên tai như những ngày nào. Cho dù nhiều năm sau này anh đã đọc nguyên vẹn tất cả những câu chuyện mà mẹ đã kể nhưng sao những gì nhớ được lại chỉ là những đoạn vắn tắt của mẹ kể cho mấy chị em nghe từ những đêm đông năm ấy mà thôi. Lắm lúc anh cũng tự hỏi không biết mẹ mình nghe những chuyện này từ đâu mà sao bà cụ kể lại hầu như không thiếu đoạn nào, không những thế bà cụ còn kể rất hay là đằng khác. Cứ như cụ nói thì may lắm cụ cũng chỉ nguệch ngoạc viết ra được cái tên của cụ để được vào chợ trong thời diệt dốt hồi đầu cách mạng chứ cụ đâu có được học, đâu có biết được chữ gì. Mải suy nghĩ về những chuyện ngày xưa đến khi anh định quay vào nhà hỏi lại cái thắc mắc vừa rồi thì đã thấy cả mấy bà cháu đã ngủ tự bao giờ...

                                                                  2

          Năm nay không hiểu vì sao mà thời tiết nóng sớm hơn mọi năm khá nhiều. Mới hôm nào mấy mẹ con bà cháu kéo nhau đi hội Côn Sơn rằm tháng giêng, thế mà đã sắp sang tháng ba nóng nực kinh người. Nhà máy đã hoạt động gần ba năm rồi thế mà vẫn chưa có một khu công nhân nào cho nó tử tế. Những gia đình sống ở bên hồ thuỷ lợi Văn An cũng đã dần quen hầu như chẳng chờ đợi để rời đi đâu nữa. Đang lúc ấy thì nhà máy lại phát ra cái tin sẽ cho một số cán bộ các phân xưởng ra ở khu nhà ngói mới xây bên dưới khu Đềpô cứu hoả. Tất nhiên là Hằng chẳng chờ đợi gì trong cái tin mới ấy vì gia đình anh nằm ngoài diện.
          Thế mà không biết thế nào chiều qua anh Tham lại mang về cho anh một tờ quyết định phân phối nhà ở khu vực Đề pô, nơi đã định phân cho các chánh phó phòng, chánh phó quản đốc như tin đồn từ mấy hôm trước. Thắc mắc mãi thì rồi anh cũng tìm được câu trả lời. Số là các cán bộ phân xưởng lại chỉ thích gần ban giám đốc chứ không thích gần nơi làm việc như ý định tạo điều kiện của lãnh đạo cấp trên. Chính vì thế mà khu nhà mới này lọt xuống đến các vị đốc công và cũng với mục đích là gần nơi làm việc cho dễ điều hành sử lý sự cố.
          Sáng nay, ngày mười tháng ba âm lịch, nhà Hằng chính thức được chuyển đến một gian rưỡi nhà ngói mới tinh chưa ai đến ở. Chỉ có điều là nhà thì có nhưng mà không có bếp thành ra hai vợ chồng Hằng đành phải mang số tre luồng kiếm được cùng với những đoạn sắt phế liệu dựng tạm lên để mà đun nấu. Vì nhà Hằng không có mấy đồ đạc nên chỉ một chuyến xe đã chở hết mọi thứ. Không những thế còn mang theo được mấy khung phên ghép vào làm chuồng nhốt con lợn bột.
          Gần một tuần dọn dẹp mọi việc mới tạm ổn về nơi ăn chốn ở. Chỉ có điều là có đàn gà đến kỳ thịt được thì cứ lăn ra chết. Tức mình Hằng bàn với vợ đem thịt trước đi bỏ vào tủ lạnh mà ăn cho khỏi phí, vì khi nó đã ốm thì nhà đã chẳng ai muốn đụng đến rồi. Trái lại mẹ Hằng thì lại không cho thịt, cụ bảo cứ để đấy cụ cho nó ăn cơm nóng vài bữa là chúng sẽ ổn thôi. Thực ra thì lứa gà này đều do bà cụ mang lên kỳ trước chứ gà nhà Hằng nuôi thì đã bị lũ trộm bắt sạch nhẵn từ hồi trong năm rồi.


                                                          2

          Từ hôm nhà Hằng chuyển ra khu nhà mới vừa bận với việc dọn dẹp lại thêm công việc nhà máy cũng nhiều nên khi rời nhà máy về nhà là anh mệt mỏi chả muốn làm gì. Hơn nữa mấy ngày gần đây thời tiết thật là khó chịu cho mọi người. Chả riêng gì người già ngay cả những người trung tuổi như Hằng và cả mấy cậu thanh niên ngoài đơn vị của Hằng cũng kêu mệt mỏi, hễ cứ ngơi ra là tìm chỗ dựa mình.
           Còi tầm nhà máy vừa vang lên Hằng mới dọn sách vở lại rồi vội vàng ra về. Cũng không biết làm sao mà suốt mấy hôm nay anh cứ thấy bức bối trong lòng, hình như có sự gì đấy sắp sửa xảy ra. Bước chân về đến cửa thì mẹ anh từ cửa chuồng lợn đi lên, vừa đi cụ vừa hỏi:
          - Không biết cái cuốc của nhà mày để đâu ấy nhỉ?
          - Đang nắng thế, cụ định làm gì mà hỏi đến cuốc?
          - Tao định cuốc chỗ đất cạnh chuồng lợn lên để mấy bữa nữa gơ ít giây củ lấy cái cho lợn nó ăn.
          Cuốc thì vẫn ngoắc trên mái chuồng lợn nhưng có lẽ do để ép sát vào thành chuồng nên cụ không thấy. Đã thế cứ bảo không biết cho cụ ấy khỏi ra rãi nắng:
          - Chắc ai mượn đâu đấy, nhưng mà cụ vào nghỉ đi đừng ra nắng rồi ốm ra đấy.
          Vừa nói với mẹ xong Hằng cũng bước chân vào trong nhà dựa lưng vào thành ghế đón gió từ cái quạt nhựa thổi ra. Có lẽ đến mươi phút sau Hằng không thấy mẹ hỏi gì thêm nên anh chắc cụ đã đi đâu đó chứ không ra cuốc đất nữa. Cũng vừa nghĩ đến đó anh chợt giật mình khi nghe tiếng của mẹ gọi anh trong sự thảng thốt đến lạc cả giọng đi:
          - Thằng Hằng đâu rồi... không ra mà đỡ mẹ mày đây này...
          Hằng vội bật dậy bước ra khỏi cửa thì đã thấy mẹ anh quăng cái cuốc không biết mượn của ai để nhào vào trong thềm nhà. Hằng hoảng hốt đỡ và dìu mẹ vào trong nhà. Từ lúc nhìn thấy bà cụ quăng cái cuốc xuống anh đã nghĩ là cụ bị say nắng, anh đặt cụ nằm hẳn vào trong buồng rồi vội lấy cái quạt bật lên thổi vào tường để lấy tý gió bạt từ tường ra cho cụ đỡ choáng. Ngay lúc đó Thơ cũng hối hả vào nhà tìm dầu cao để đánh cảm cho cụ. Sau khi đã xoa dầu lên thái dương và dưới mũi cho cụ anh lại dùng tay day ấn huyệt nhân trung, huyệt thái dương và cả trên huyệt ấn đường cho cụ. Một lúc sau Hằng thấy mẹ bình tĩnh lại hơn, khi anh hỏi thấy cụ bảo có đỡ hơn làm Hằng đã thấy mừng. Nhưng chỉ ngay sau đó anh thấy cụ bảo rất đau đầu và muốn anh đỡ cho cụ đi ngoài. Sợ ra ngoài gió độc anh liền gọi Thơ mang cái chậu tôn vào để cụ đi ngoài vào đó. Mãi đến lúc này anh mới để ý thấy hình như lúc anh chưa về, cụ đã tắm rửa thay quần áo và cả gội đầu sạch sẽ. Hằng đỡ cho mẹ đi ngoài rồi  lau chùi cẩn thận cho cụ. Trong lúc đỡ cụ nằm xuống anh chợt thấy không hiểu sao mà cụ ra nhiều mồ hôi đến thế. Anh dùng cái áo ngoài của cụ lau mãi mà không hết, trong lúc đó thì cụ kêu đau đầu ngày một dữ hơn. Vừa lúc ấy mấy anh chị hàng xóm đã đón chú y sĩ của đơn vị bộ đội ở cạnh khu công nhân lên xem bệnh giúp. Thăm khám một lúc thì anh y sĩ bộ đội tiêm cho cụ mấy ống thuốc. Nhưng rồi không lâu sau cụ lại kêu đau đầu hơn nữa. Đến lúc này thì Hằng cuống lên thật sự, anh bảo vợ nhờ mấy người hàng xóm ra nhà máy xin xe để đưa mẹ đi viện.
          Chờ mãi vẫn chưa thấy có xe, mẹ anh thì ngày một nguy kịch hơn, Hằng càng thấy sốt ruột mà không biết tính sao cho được. Khi chiếc xe ca màu vàng đỗ ở phía đầu hồi nhà thì mẹ anh đã yếu lắm rồi, cụ thở dốc và lẩm bẩm những điều không rõ nữa. Tất cả những câu anh hỏi nhằm cố đánh thức sự cố gắng chịu đựng của cụ để mong đến kịp bệnh viện ngõ hầu gặp được người thầy thuốc nào đó có thể giúp cụ thoát qua cơn nguy biến này. Khi anh cúi sát người xuống để đỡ cụ lên để mang cụ ra xe thì anh chợt nghe cụ lên tiếng thật nhỏ như nói vào nơi xa vắng. Anh lắng tai và nghe cụ gọi bốn tiếng tuy bé nhưng khá rành rọt:
          - Anh ơi... đương ơi...
          Đây cũng là câu nói cuối cùng trước khi cụ đi vào trạng thái hôn mê và thở dốc. Hằng thấy mẹ mình ngày càng khó thở hơn nên anh đành ngồi trên ghế đỡ cho mẹ nằm trên hai đùi rồi đỡ cụ giống như một người đang bế trẻ em vậy. Có điều mẹ anh có dáng người đậm và hồi ấy cụ lại khá đẫy ra nên anh cảm thấy khá nặng.
          Khi Hằng và Định, một người công nhân trong khối sửa chữa của anh đưa cụ vào đến một phòng bệnh của bệnh viện thì trời tối cũng đã khá lâu rồi. Những người bệnh trong phòng tuy rất muốn hỏi han anh về tình trạng bệnh của cụ nhưng họ thấy anh đang bận rộn thu xếp mọi thứ thì họ đành ngồi im lặng để nhìn vậy thôi. Khi anh đặt cụ ngay ngắn trên giường thì cán bộ y tế của bệnh viện cũng vào tới. Anh cán bộ y tế xem mạch và nghe tim phổi một lúc thì quay ra nói với Hằng:
          - Anh là người nhà của cụ?
          - Vâng tôi là con trai của cụ!
          - Bệnh của cụ quá nặng, chắc cụ không qua được anh ạ!
          - Dạ...! Chúng tôi chỉ còn trông cậy vào bệnh viện, mong bác sĩ cố gắng tìm cách cứu chữa giúp... được phần nào hay phần ấy...
          - Chúng tôi rất muốn giúp đỡ anh... Nhưng theo kinh nghiệm của chúng tôi thì anh nên chuẩn bị mọi việc ngay đi mới kịp. Không quá mười phút nữa là cụ sẽ đi đấy anh ạ!
          - Mong bác sĩ cố gắng...
          Nhìn nét chân thành và bình tĩnh trên mặt người cán bộ y tế Hằng hiểu anh là người có kinh nghiệm và thật lòng cùng anh, Hằng vẫy tay gọi Định đi về phía mình.
          - Định cố gắng ra ngoài xem có ai về Phả Lại thì nhờ về báo hộ cho vợ tớ và anh Tham quản đốc về tình hình của cụ giúp mình một chút.
          Định vừa quay ra đến cửa thì tiếng thở của Mẹ anh ngày một nhẹ đi. Anh hốt hoảng đặt hai tay lên người mẹ sờ nắn và lay đi lay lại như cố giữ cho cái tín hiệu sống được kéo dài thêm. Bàn tay anh ngày càng run lên và nước mắt trào ra chảy dài trên má. Hai bàn tay anh dường như cố tác động thêm trong khi cơ thể của mẹ anh hoàn toàn im lặng. Người cán bộ y tế gạt anh ra và áp dụng biện pháp hô hấp nhân tạo thêm một lúc nữa. Anh dừng lại vừa thở vừa ngước mắt tìm Hằng, cùng lúc đó bàn tay anh nhẹ nhàng vuốt mắt cho cụ. Anh nói với Hằng câu nói thật là buồn thảm:
          - Cụ đi rồi anh ạ!
          Hằng cũng chỉ biết nấc lên mấy tiếng rồi quỳ bên giường gục đầu vào mẹ. Một người nào đó trong phòng bệnh lên tiếng như để thông báo cho Hằng và mọi người cùng biết:
          - Cụ đi lúc chín giờ mười phút! (nói thật đúng là hai mốt giờ mười phút). Cùng lúc ấy anh cán bộ y tế cúi xuống nâng vai Hằng lên và nhỏ nhẹ:
          - Anh đừng khóc trong buồng bệnh, như thế làm ảnh hưởng đến mọi người. Tôi sẽ làm các thủ tục để đưa cụ xuống nhà xác. Anh tranh thủ ra mua ít hương và nến để về thắp cho cụ.
          - Dạ...! Xin nhờ các bác trông giúp mẹ tôi một lát.
          Cũng chỉ nói với anh cán bộ y tế và những bệnh nhân trong phòng như thế rồi anh chạy ngay ra ngoài phố. Không biết sao mới chín giờ tối giữa mùa hè mà các hàng quán đã tắt đèn hết cả. Hằng đứng nhìn mãi mới thấy phía xa trên phố còn hơi sáng ánh đèn, anh liền lao đến xem sao thì vừa lúc bà chủ quán đang dọn hàng. Chỉ thấy anh hối hả hỏi mua hương thì bà chủ đã hỏi:
          - Bác chắc có người nhà mới mất?
          - Vâng đấy là mẹ cháu!
          - Thôi được tôi bán rẻ cho anh năm thẻ hương một đồng. Còn nến thì nhà lại mới hết lúc chiều, bác hỏi các hàng khác xem sao.
          - Các hàng họ đều nghỉ hết cả rồi cụ ạ.
          Hằng trả tiền cho bà chủ quán xong lại vội vã chạy về viện, về đến phòng thì các bệnh nhân bảo bệnh viện mới đưa cụ đi rồi, thế là anh lại hộc tốc chạy xuống khu nhà xác. Tìm vào đến nơi thì nhân viên của bệnh viện đã đưa mẹ anh vào bệ đặt thi hài và đậy lồng úp bằng lưới sắt lên trên. Hằng đang loay hoay bật lửa thắp hương thì anh cán bộ y tế hỏi:
          - Sao không đèn nến lên cho sáng?
          - Hàng họ nghỉ cả anh ạ, nhà hàng bán hương thì lại hết nến.
          Người cán bộ y tế không nói gì thêm, quay mình, lặng lẽ đi về phía bệnh viện. Lát sau anh mang xuống cho Hằng một cái đèn dầu hoả. Vừa đưa cái đèn cho Hằng anh vừa dặn:
          - Khi nào không dùng nữa thì gửi về phòng trực cho tôi là được.
          Còn lại có một mình trên mảnh sân hoang vắng của khu nhà xác Hằng càng đau đớn. Không bàng hoàng đau đớn sao được bởi chỉ mới vài tiếng đồng hồ mà mẹ anh đã ra đi như thế. Mới chỉ sớm nay thôi bà cụ vẫn cười nói vỗ về với mấy đứa con của anh. Mới chỉ mấy ngày hôm nay thôi bà cụ phấn khởi cùng con cháu gom nhặt đồ đạc tíu tít lên xe chuyển ra khu nhà mới, thế mà nửa giờ vừa đây thôi mẹ anh đã thành người thiên cổ mất rồi. Càng suy nghĩ anh càng đau đớn, nước mắt anh từng đợt, từng đợt nối nhau. Anh khóc, khóc trong im lặng một mình, khóc không cần phải nín nhịn, không cần phải e ngại vì người trên kẻ dưới. Anh bàng hoàng trước mọi sự đến quá nhanh, quá đột ngột, không sao hiểu nổi. Trong đầu anh giờ đây chỉ ong ong một điều: “Thế là từ nay mình sẽ không còn mẹ nữa”.
          Đêm càng vắng khi trời về khuya. Hằng không biết trong ngôi nhà tối om kia có còn ai nữa không ngoài mẹ anh đang nằm đó trong chiếc lồng sắt sơn đen. Nền bê tông giá lạnh bởi âm khí, bởi sự hoang vắng càng thê lương và buồn bã. Ngọn đèn dầu bé tý chỉ tạo ra được một quầng sáng nhỏ chưa đầy một mét vuông quanh nó. Chẳng có ai ngoài Hằng và những nén hương đỏ cháy nối nhau là biểu hiện của sự sống nơi khu nhà xác. Những hình ảnh cũ về mẹ nhân đó cứ hiện ra trong đầu Hằng. Một câu nói, một cử chỉ của mẹ từ những ngày bé nhất cho đến những giờ phút mới đây thôi cũng làm anh xúc động, làm anh rơi nước mắt. Đã lâu lắm rồi anh không khóc. Không khóc không phải vì anh đã quên khóc hoặc giả không có nước mắt để mà khóc. Tuy nhiên đó là nói cái bề ngoài không khóc có thể lừa được người đời, chứ còn bên trong thì không biết đã bao lần anh khóc. Cái sự khóc không thành tiếng, cái sự khóc không ra nước mắt ấy càng làm anh đau đớn hơn nhiều.
          Đang còn đau đớn vì những hình ảnh về mẹ trong tưởng tượng thì anh buộc lòng phải trấn tĩnh lại, bởi hơi xa phía ngoài đã có đôi ba tiếng nói, tiếng hỏi khá quen thuộc của anh Tham và số anh em bạn trong tổ văn phòng đang đến. Sau những câu chào hỏi chia buồn ngắn gọn là cuộc bàn bạc cho công việc tang lễ ngày mai. Có lẽ tất cả đều còn rất trẻ nên anh Tham và mọi người đều rất lúng túng không biết nên làm thế nào. Cuối cùng thì Hằng đành phải lập kế hoạch tang lễ rồi ghi ra giấy cho anh Tham mang về tổ chức đơn vị lo giúp hộ.
          Đúng 12 giờ trưa ngày 8 tháng 5 năm 1985 cụ Phạm Thị Sâm được nhập quan tại nhà tang lễ của bệnh viện Chí Linh rồi được chở bằng xe ô tô về khu tập thể Đềpô làm lễ viếng. Ba giờ sau đó linh cữu được chuyển bằng xe ô tô ra nghĩa trang Cầu Gỗ để an táng trong nỗi đau buồn của gia đình và những người cán bộ, công nhân trong nhà máy. Chỉ có năm vành khăn trắng của vợ chồng Hằng và ba đứa trẻ con anh trên chuyến xe đưa tang hôm đó. May sao khi xe ra đến nghĩa trang thì anh cả và các chị gái mới đến kịp. Mọi người nhặt những nắm đất nhỏ thả xuống quan tài màu đỏ trong nước mắt lưng tròng trước khi anh em trong đơn vị hắt những xẻng đất to lấp đầy lỗ huyệt.
         
          Gần một tuần sau công việc tang chế mới tạm ổn định. Nhưng trong nhà Hằng mọi người vẫn thảng thốt vì nỗi đau mất mát quá lớn không ngờ tới. Cứ mỗi lần nhìn thấy bát cơm quả trứng hoặc thức ăn thường bữa dâng lên ban thờ cúng mẹ Hằng lại như đứt từng khúc ruột. Những hình ảnh mấy chục năm trước lại hiện về như những thước phim chạy trong đầu anh.

                                                                   
                                                       SỰ CỐ

                                                              1

          Công việc sửa chữa mấy tuần nay hình như có tăng lên bởi nhiều thiết bị đã quá kỳ bảo dưỡng mà vẫn chưa được tu sửa định kỳ. Những người về nhà máy hầu như chưa ai có trong đầu mình về một kế hoạch quản lý thiết bị mà chủ yếu vẫn nặng về chỉ đâu đánh đó của chuyên gia. Nếu không thế thì cũng lại dựa vào nhu cầu do mấy ngài ở cấp nhà nước ban ra để mà ỉ lại. Trong thời này vẫn đề hoàn thành kế hoạch của trên là sinh mệnh chính trị từ mỗi cá nhân đến các tập thể cho dù là to hay bé. Bất kỳ ở đâu người ta cũng đặt câu hoàn thành nhiệm vụ chính trị lên đầu, còn hoàn thành nhiệm vụ chính trị là những gì thì chẳng khi nao chỉ ra cho hết được. Chính vì vậy mà cho dù là một việc nhỏ như ăn trộm vài miếng gỗ thùng hàng cũng bị coi là một tội nặng, cho dù nếu không ai lấy đi thì cứ để ở trên bãi kho đến mục nát ra. Chả nói đâu xa lạ, mà chính là đơn vị của Hằng cũng đã phải va chạm đến mức suýt nữa đánh nhau tập thể với mấy người bảo vệ đóng ở bến phà khi có một công nhân trong đơn vị cầm theo vài miếng ván hòm đi qua đó. Họ hạch sách rằng lấy ở đâu rồi thì đòi bắt bớ lung tung cả, anh Tham đang cùng mấy anh em bộ đội phục viên liên hoan ngày 22 tháng 12 ở trong trụ sở nghe được thấy ngứa máu xông ra giải quyết không xong thế là lời qua tiếng lại, nóng mặt xông lên quyết một phen đòi “chân lý”. Lúc ấy Hằng đã về tận Văn An rồi nên chẳng biết gì cả, sáng hôm sau nghe kể lại thấy thật buồn cười.
          Cuộc họp buổi chiều còn chưa được bất đầu thì từ trạm tuần hoàn có tin dữ báo lên. Số là mấy ngày nay bơm tuần hoàn 2 đang có hiện tượng dở chứng mà cả Tây và ta chưa ai hiểu nổi tại cái gì. Đâu là đầu máy, đâu là chân máy chỗ nào cũng như muốn xê đi dịch lại cho đến cái chỗ nó thích đứng mà chả có cách nào ngăn chặn được. Huống chi nó lại không đến mức chết thẳng cẳng ngay trong khi vấn đề chạy nó trong dây chuyền vẫn là việc chấp hành mệnh lệnh không chỉ thuần tuý về kỹ thuật, kinh tế mà còn phải chấp hành mệnh lệnh về chính trị. Việc chạy hay dừng có khi còn  phải có lệnh của chính phủ chứ chẳng chơi đâu. Hằng vừa truyền đạt mệnh lệnh của phân xưởng cho trưởng kíp cố gắng duy trì đến mức tối đa thì chuyên gia cơ nhiệt và trưởng phòng kỹ thuật cũng đã từ cầu thang tuột xuống.
          Hằng đang chăm chú nhìn vành chặn ống hút đang lắc đi lặc lại trên nền xi măng tầng âm vừa phán đoán: giờ này chắc bộ gối trục cao su đã bay mất rồi nên chẳng có cái gì có thể giữ nổi cái trục dài hơn sáu mét kia nữa. Nếu cứ chạy thì rồi có thể cả cái thân bơm kia cũng bật tung ra mất và sau vài phút cả tầng âm này đầy oặp nước. Hình như tất cả mọi người có trách nhiệm trong ca vận hành có mặt tại đây đều đã nghĩ như vậy. Tiếng quẹt ồn ã của sự va chạm giữa các mảng kim khí và những cuộc điện thoại ngắn giữa trưởng phòng kỹ thuật với trưởng ca càng làm cho không khí nơi đây căng thẳng tột độ. Khi trực ban ấn nút sự cố dừng bơm tất cả mọi người mới cảm thấy như cởi bỏ được cái gánh nặng đè nén bấy lâu nay. Những bước chân mệt mỏi nối nhau đặt lên từng tấm thép sần hoa thị của cầu thang lên xuống thưa dần, có lẽ mọi người đã về hết khu hành chính. Mọi việc bây giờ đã được chuyển qua cấp cao hơn, Hằng cũng như mọi người chỉ còn biết chờ đợi và chờ đợi.
          Gần hai ngày qua từ trên khu nhà hành chính đã  bắt đầu bàn đến việc sửa chữa cái bơm nước hỏng nhưng vẫn chưa có một giải pháp nào khả dĩ được chấp nhận, cuối cùng thì cũng chỉ còn cách đóng phai bơm cạn nước xem nó hỏng ra sao. Việc này thì chắc là thầy trò Hằng phải thực hiện rồi chứ chẳng có ai thay cho được. Họ ăn lương để làm việc đó thì tất yếu phải làm việc đó thôi. Ai đó chỉ đơn giản nói rằng đóng phai bơm cạn nước nhưng họ có hiểu đóng cho kín được nào có dễ gì. Những khối bùn cao ba bốn mét dốc từ mương hút vào, những thỏi kim loại rơi rớt từ khi lắp ráp xong không được thu dọn do tắc trách, do vội vã về tiến độ đang nằm ngổn ngang dưới đó ngăn không cho tấm phai chạm đáy nền cửa hút, nên bơm hoài mà nước đâu có rút. Nào là dùng sào, dùng móc cào đi quét lại mà vẫn chẳng có tác dụng gì. Cũng đã có mấy chàng trai quê vùng sông nước muốn thử sức lặn xuống để tìm hiểu xem sao nhưng Hằng chưa dám quyết. Anh thực sự băn khoăn vì mức bùn choán ngay cửa phai quá dày, nếu rơi vào đó thì có khác gì bị tụt chân xuống đầm lầy. Chỉ riêng cái độ sâu gần tám mét nước ép vào màng tai cũng đã chảy máu ra không chừng, nói gì đến chuyện vét bùn nhặt các vật cản.
          Cuộc họp mở rộng của nhà máy với các đơn vị sửa chữa gần như im lặng hoàn toàn do bế tắc của việc khắc phục sự cố từ mấy ngày nay. Những cán bộ phân xưởng sửa chữa cơ nhiệt luôn kêu rằng mình không quen với loại thiết bị này, còn khối sửa chữa của Hằng thì lại chỉ sửa chữa nhỏ không có chức năng với công việc hiện tại. Cuộc họp chắc sẽ còn im lặng nếu như ông Thăng giám đốc công ty không sốt ruột nhắc mọi người tiếp tục ý kiến. Nhắc thì nhắc thế nhưng hình như mọi người đều muốn tránh né, không muốn đưa đầu ra chịu báng.
          Cuối cùng thì ông giám đốc công ty đành phải quay lại với đơn vị chủ quản:
          - Về phía chủ quản...thế nào?...Đồng chí quản đốc Thuỷ lực có ý kiến một tý chứ nhỉ?
          - Báo cáo thủ trưởng, chủ quản chủ yếu là vận hành còn sửa chữa chỉ vừa để phục vụ trong ca thôi ạ!
          - Nhưng về chuyên môn thì chắc là phải có kinh nghiệm phải không nào!
          - Cái này... có lẽ để đồng chí đốc công...!
          Ông Thăng quay người sang bên trái nhìn thẳng vào Hằng, ông nheo mắt thăm dò một lúc rồi mới  động viên:
          - Việc này có lẽ đồng chí đốc công của Thuỷ lực giải quyết là hợp lý hơn cả. Quen thiết bị, biết nguyên nhân, chắc hẳn là hơn người ngoài rồi.
          Hình như ông chẳng định cho Hằng có ý kiến nên ông dừng lại giây lát lại tiếp tục nói:
          - Về người và cơ sở vật chất thì nhà máy phải lo đầy đủ; thiếu đâu bổ sung đó tiến hành càng nhanh càng tốt. Trước lúc tôi xuống đây Thủ tướng cũng đã có ý nhắc nhở phải sớm khắc phục đảm bảo cung cấp điện đầy đủ cho sản xuất...
          Sau một hồi hối hả với những lời huấn thị trang trọng như đang phát biểu trên bục hội nghị ông Thăng tiếp tục nhìn thẳng vào Hằng như đã từng quen biết lâu lắm, rồi ông chợt hạ giọng xuống một cách nhẹ nhàng và nói tiếp:
          - Thế nào...? Em cố gắng khắc phục sự cố giúp nhà máy trong lúc khó khăn này nhé?...
          Thực ra thì Hằng cũng rất phân vân vì suốt trong thời gian lắp rắp thiết bị anh luôn bận tổ chức lớp học sau đó lại đi Liên Xô nên anh cũng chẳng biết gì hơn mọi người. Chỉ có điều là anh đã trải qua nhiều lần sửa chữa tốt các loại thiết bị mới chỉ gặp lần đầu nên có đôi chút tự tin. Có điều anh bất ngờ cảm động vì cái sự ân cần của một ông cán bộ cấp cao đối với công việc và cả đối với cá nhân anh làm cho anh phân vân không biết có nên từ chối hay không.
          Về lý thì trách nhiệm khắc phục sự cố lớn như thế này không thuộc về anh, nên anh hoàn toàn có quyền từ chối. Có điều là anh chưa thấy một ông cán bộ cấp cao nào lại giao nhiệm vụ cho người bên dưới với cách nói của một người anh nói với một thằng em trong nhà  vậy. Thế mà giờ đây anh lại thẳng thừng từ chối thì không biết không khí cuộc họp sẽ bẽ bàng ra sao. Hằng còn đang chần chừ chưa kịp nói gì thì ông Thăng đã nhắc lại:
          - Thế nào nhỉ? Nếu có khó khăn hay đề xuất điều gì em cứ nói để mọi người cùng giải quyết!
          Trong lúc ông Thăng nói Hằng đánh mắt sang phía anh Tham quản đốc thăm dò ý kiến xem sao nhưng Hằng thấy anh Tham cũng không có ý can ngăn nên anh quyết định nhận nhiệm vụ.
          - Báo cáo với giám đốc...công việc này quả là quá sức với đơn vị chủ quản ạ!
          - Không sao, chỉ cần các cậu đứng ra chủ trì chính là được, thiếu đâu bổ sung đó. Mọi cái giám đốc nhà máy sẽ lo cùng các cậu, thế là được chứ gì?
          Hằng vừa khẽ cười vừa nói như dỗi:
          - Dạ! Thủ trưởng đã ra lệnh thì “chiến sỹ” đành phải chấp hành vậy thôi ạ.
          - Này, các cậu phải hết mình chứ không được miễn cưỡng đâu đấy nhé!

                                                                  2

          Cuộc họp kết thúc được một lúc thì ông Thăng cũng về Hà Nội, những băn khoăn, lo lắng của cả nhà máy lại đổ dồn về cái trạm bơm tuần hoàn nhỏ bé ở phía bờ sông Thái Bình. Những cán bộ kỹ thuật trên nhà máy xuống, vài chuyên gia Liên Xô cũng cắt lượt nhau qua lại quan sát và ghi chép vào những cuốn sổ nhỏ tý tẹo móc từ túi áo ra. Hằng không còn để mắt được đến xung quanh nữa, phần thì nhà máy yêu cầu thống kê số nhân lực và các loại vật tư dụng cụ cần thiết để cấp bổ sung, phần thì các tổ sửa chữa đều đang chờ anh giao nhiệm vụ cho họ. Sau khi cân nhắc trong đầu về các số liệu kỹ thuật của tổ bơm số bốn, anh thấy có thể lắp trả lại tổ bơm số bốn mà khối sửa chữa của anh vừa mới tách ra bảo dưỡng định kỳ để tập trung cho việc khắc phục sự cố bơm số hai trước vậy. Vừa lúc đó  anh Tham quản đốc cũng mới từ trên nhà máy về đến, Hằng liền trao đổi với anh về kế hoạch anh mới nghĩ ra. Anh Tham chỉ thạo về máy hơi nước là chính nên anh càng lo lắng:
          -  Cái này tôi cũng không nắm được các thông số cụ thể, không biết để thế lắp lại có sao không?
          - Thực ra tôi cũng chỉ tham gia sửa chữa thuỷ điện ít lâu nên cũng chả hơn gì anh đâu. Tuy nhiên với thuỷ điện thì kỹ thuật lắp ráp hết sức kỹ lưỡng, giữa hai kỳ đại tu chỉ mở ra kiểm tra thông số, nếu còn ở trong định mức thì chỉ thay gối trục cao su là xong.
          - Thế thì, có lẽ anh cho tôi thông số bơm bốn để báo cáo nhà máy xem sao.
          - Nhà máy chắc cũng chỉ dựa vào chúng ta mà thôi anh ạ. Chỉ cần anh quyết thì chắc là nhà máy cũng tán thành thôi.
          - Nhưng... các thông số của nó có còn đảm bảo không hả anh?
          - Vẫn trong tiêu chuẩn anh ạ!
          Cuối cùng thì cả chuyên gia và nhà máy đều tán thành cho tạm dừng việc tiểu tu bơm bốn, phục hồi chế độ dự phòng để tập trung cho khắc phục sự cố bơm hai.
          Cũng may mắn cho mọi người là trung tâm của tổ bơm khi dừng cũng không thay đổi nhiều lắm. Người ta không thể ngờ rằng cả sáu cánh quạt của bơm tuần hoàn hai đều đã mòn vẹt nhiều đến như vậy. Chỗ mòn ít nhất trên bề mặt cung tròn đầu cánh cũng đến gần hai phân, chỗ mòn nhiều lên đến gần bẩy phân chứ chẳng ít đâu. Có điều độ mòn của các cánh nếu triển khai ra thì thấy phần kim loại mất đi có hình tam giác, chính từ việc nhận ra điều đó Hằng đã đề xuất phương hướng gia công các miếng kim loại theo hình tam giác đo được sau đó đem nung nóng trong lò rèn để uốn cong theo bề mặt cung tròn. Cũng đã có nhiều người tán thành phương pháp do Hằng đề xuất, tuy nhiên các chuyên gia Liên Xô lại cho rằng chỉ cần cắt những miếng kim loại mỏng hàn vào đầu cánh là được. Tất nhiên là Hằng cũng đã lưu ý với những người bạn nước ngoài về sự mất cân bằng của cánh, nhưng các bạn cho rằng máy vẫn chạy được trong một thời gian, đủ để củng cố các bơm còn lại rồi sẽ thay cánh quạt mới.
           Đúng như dự đoán của Hằng, bơm vừa mới khởi động đã rung động khá mạnh, thôi thì cũng đành phải chấp nhận như vậy mà thôi. Bởi điều quan trọng lúc này là có thiết bị sản xuất đáp ứng nhu cầu về điện của cả nước. Có lẽ cũng phải gần một tháng sau các bơm ba và bốn mới tiểu tu xong. Hằng gầy rộc đi vì luôn mất ngủ do phải thông ca chỉ huy các tổ sản xuất. Quan trọng như việc căn chỉnh anh phải vào cuộc đã đành, đến việc cắt một cái gioăng đệm Hằng cũng phải làm để hướng dẫn. Ngay cả việc sử dụng cầu trục để nâng hạ, di chuyển thiết bị anh cũng phải nhúng tay vào. Số anh em mới hình như họ chỉ học trông coi máy mà không biết gì nhiều về sửa chữa, nên cứ giao việc gì thì đều phải có hướng dẫn. Đơn vị cũng đã chia ra ba nhóm làm việc thay ca nhau nhưng người chỉ đạo thì chỉ có một Hằng nên anh nào có được nghỉ. Chỉ khi nào việc tháo rời thiết bị, nghĩa là chỉ cần lấy sức để mở các bu lông ra và bắn bẩy di chuyển cùng với vệ sinh là anh không phải nhúng tay vào. Những lúc ấy anh mới tranh thủ leo lên tầng trên để nguyên cả quần áo bẩn và chân tay không rửa để ngả mình trên nền bê tông xám ngắt, thiếp đi trong tiếng máy chạy ù ù ở ngay bên cạnh. Cũng may trong thời gian này anh ít ốm đau, chứ không thì không biết thế nào mà nói.
          Suốt từ nãy giờ mấy đồng chí lãnh đạo vẫn dục giã mà anh cũng vẫn chưa chịu rời công việc, anh muốn căn dặn cách làm kỹ lưỡng hơn một chút cho mấy cậu đang tháo bánh xe công tác. Đã bước chân lên cầu thang rồi anh còn ngoái lại căn dặn về an toàn  khi đưa bánh xe công tác ra ngoài. Mãi đến khi nhóm tháo gỡ buồng bánh xe công tác đã bắt đầu loay hoay mở bu lông mặt máy anh mới tranh thủ ghé vào bên cạnh máy bơm số ba để ngủ lấy lại sức. Không biết trong tháng qua Hằng đã thông ca mấy bận mà người anh gầy rộc hẳn đi. Đấy là do mấy cô phụ nữ trên văn phòng bảo chứ còn anh thì biết thế nào được. Mỗi lần có người than phiền vậy anh cũng chỉ ậm ừ cho qua chuyện rồi lại vội vàng đi xuống dưới trạm để lo công việc.
          Tiếng máy đều đều và hơi ấm của nó toả ra từ mấy cái lỗ thông gió trên thành động cơ làm anh ngủ say mê mệt đến gần 2 tiếng đồng hồ mới dậy. Anh cứ ngỡ bánh công tác đã được tháo ra rồi, nào ngờ xuống đến nơi bánh xe vẫn nguyên vị trong khi mấy cậu trai trẻ thì đã đầm đìa mồ hôi trên áo. Hình như có cả anh Tham cũng đang bì bõm bên cạnh mấy thanh ray đường sắt kê trên miệng cửa hút, chắc là để đỡ bánh xe công tác khi hạ xuống đây.
          Vừa thấy Hằng đến gần anh Tham đã cởi mở:
          - Cái món này gay quá ông ạ! Vừa rồi trượt ray tý nữa thì tụt xuống tầng âm mất, làm tớ hoảng quá.
          - Không tụt xuống được đâu anh ạ! Vì nó to hơn lỗ cửa hút một tý. Cái đáng lo nhất là nó xoay nghiêng rồi nằm mắc ngẵng ở đó anh ạ!
          Vừa nghe có tiếng của Hằng thì cả nhóm công tác cũng bỏ cả xà beng đòn kê tại đó ra đứng bên cạnh anh. Hằng định quát mấy cậu sao không ra làm tiếp nhưng rồi lại thôi. Cái chính là anh hơi khó chịu vì chiều nay đã hẹn xe và cẩu để chuyển bánh xe cũ về kho và đổi lấy cái mới, thế mà suốt 2 giờ vừa rồi vẫn chửa đâu vào với đâu, làm sao không bực.
          Biết anh không vừa ý vì công việc không chạy, cậu Tòng nhóm trưởng đành phân bua:
          - Chúng em đánh vật với nó suốt từ lúc anh đi vắng đến giờ đây! Mấy lần định gọi anh nhưng thấy anh nằm im quá lại thôi.
          - Thế tớ bảo các cậu thế nào?
          - Dạ! Bu lông dài có cả rồi đấy ạ!
          - Thế còn sàn kê?
          - Thì anh Tham bảo nó nặng hơn 2 tấn nên phải kê bằng ray tầu hoả rồi mới kê tôn lên.
          - Thế sao không tháo ra đi.
          Nhìn thấy sự ngao ngán của cánh thợ, anh chắc các cậu này cũng đã cố gắng vật lộn với nó đây, ngặt vì không xong nên giờ đây có ý như chờ đợi xem ông anh cả này có cách gì hơn không. Biết làm thế nào được khi mà họ chưa động đến những công việc như thế bao giờ. Phần thì sợ hỏng thiết bị, phần thì lo tai nạn nên càng bế tắc.
          Hình như Hằng vẫn chưa thông cảm được với cánh thợ tháo bánh công tác nên cậu vẫn lên giọng cáu bẳn:
          - Đã không tháo được thì dọn hết đi chứ để lại làm gì cả đống sắt thép ở đó cho vướng.
          Những thanh ray cỡ lớn lần lượt được tháo gỡ và dời đi nơi khác, sàn trạm quang quẻ hơn, Hằng mới tạm thời lắng dịu trở lại.
          - Cậu nào lên lấy máy hàn xuống đây.
          - Mang cả máy xuống chứ ạ?
          - Cái cậu này...! Mang gì miễn hàn cắt được thì thôi, có thế mà cũng phải hỏi.
          Hằng đón giây hàn và mặt nạ từ tay Tùng kéo lệt xệt trên sàn bê tông đến bên tấm tôn thép 10 ly dựa trên tường trạm. Những tia lửa sáng loé lên và rất nhiều các cục lửa rơi xuống sàn nhà. Chả mấy chốc tấm tôn đã được cắt làm hai nửa, anh kêu nhóm công tác chuyển xuống luồn theo mặt sàn trạm bơm đậy kín miệng cửa hút lại. Những thao tác cuối cùng là việc nới dần hai ê cu M42 trên cặp gujông cuối cùng treo bánh xe công tác để hạ chúng xuống tấm sắt đã nằm chờ sẵn. Chiếc palăng 1 tấn móc vào sàn bê tông đối diện liên tục kêu lách cách co ngắn sợi xích sắt để lôi cả tấm sắt và bánh xe công tác ra ngoài.
          Khi bánh xe công tác đã được kéo ra ngoài thì tất cả mọi người đều thở phào nhẹ nhõm. Một vài anh em khác cũng đang bàn tán xì xầm tán thưởng cách làm của Hằng vừa thực hiện. Chợt có một cậu nào đó có lẽ là nhân viên trong kíp vận hành từ tầng trên nói vọng xuống:
          - Nếu ngay từ lúc đầu làm như anh ấy nói có lẽ chỉ cần một người thực hiện cũng chẳng vất vả gì.
          Hằng ngước nhìn lên xem ai nói, anh chợt bắt gặp ánh mắt lúng túng của những người thợ trẻ, anh hiểu rằng họ đang tự trách mình vì đã không làm theo lời anh dặn.


                                                                 3

          Cũng mất gần hai ngày nữa thì mới đưa được trục và bánh xe công tác mới vào vị trí. Nhưng tiếng hò dô mệt mỏi cứ lâu lâu lại được cất lên trong mỗi lần quay trục để đo đạc lấy thông số chẳng làm ai vui được cả bởi đã hơn hai tuần rồi tất cả mọi người đều chưa được nghỉ. Có lẽ đến chín mươi phần trăm các công nhân trong đơn vị đều có một gia đình ở đâu đó trên các xóm quê với ruộng đồng cầy cấy. Hầu hết những chàng trai đang làm việc tại đây cũng chính là ông chủ của rất nhiều các gia đình. Họ vẫn tranh thủ nghỉ chủ nhật, nghỉ bù, nghỉ phép để về đỡ vợ con trong những ngày mùa vụ. Ngoài ra còn bao nhiêu công việc khác có tên và không tên nữa không ai có thể thay được cho họ, khi họ về với gia đình làng xóm. Hằng chưa hiểu được nhiều về họ nhưng anh biết các chàng trai trẻ dưới quyền anh nhiều lần lúng túng khi không hoàn thành công việc được giao kia lại là những vị trưởng họ uy quyền khi về với gia đình giòng họ. Đâu là giỗ chạp, ma chay, cưới xin và cả những phân giải các thắc mắc của các thành viên trong họ đều do họ giải quyết, mỗi lời của họ có khối người từ già đến trẻ phải theo.
          Hằng mong sao điều chỉnh nhanh chóng hơn để cho họ sớm được nghỉ ngơi mà về lo việc nhà một chút, nhưng hình như ông trời không muốn thế bởi các thông số cứ gần đạt lại chuội xa hơn trong lần điều chỉnh tiếp theo. Vừa nghĩ ngợi lan man Hằng vừa ghi lại những con số mà nhóm điều chỉnh mang đến cho anh. Anh đứng dậy xem xét thêm lần cuối các vị trí xem có chỗ nào còn vưỡng víu hay không, những anh chẳng phát hiện ra sự cố nào cả. Vừa thò đầu ra khỏi chân giá động cơ anh đã thấy Hải đứng chờ ở đó vừa cười vừa hỏi:
          - Thông số vừa rồi có tốt không anh?
          - Tôi cũng chưa xem kỹ, nhưng có vẻ đồng đều hơn mấy lần trước anh ạ.
          Suốt thời gian vừa qua Hải đã theo với đội công tác của Hằng bền bỉ như một nhân viên của anh vậy. Mặc dù anh là phó phòng kỹ thuật được giao nhiệm vụ giám sát công việc nhưng hầu như anh chẳng ra mặt lên giọng lãnh đạo bao giờ. Đã hơn ba mươi năm cách mạng rồi nhưng hệ thống đào tạo của nhà nước vẫn chưa thật hoàn hảo. Chế độ dạy chay, học chay dẫn đến nhiều kỹ thuật, kỹ sư ra trường rồi vẫn phải đi học một chút kinh nghiệm từ mấy cụ thợ già. Cho dù có thông minh, có hiểu biết đấy nhưng trong ngành này đâu chỉ thuần tuý có một chuyên ngành mà họ được học. Cứ như đơn vị của Hàng đã có không biết bao nhiêu là ngành nghề rồi nói gì đến cả nhà máy điện hiện đại vào bậc nhất vùng Đông Nam Á này nữa. Chính vì vậy mà có được một người thợ từng trải, kinh qua nhiều công việc, kinh nghiệm đầy mình như thế sao không đáng nể, vì cái mà ta cần làm chỉ có họ mới giúp ta làm xong được. Chẳng ai xem trọng một ông kỹ sư bằng cấp chói sáng trong khi giao cho ông ta việc gì cũng không hoàn thành được. Hiểu biết và thông cảm là việc của Hằng, nhưng ai hiểu Hằng là người có hiểu biết và có thông cảm hay không. Vừa nghĩ đến đây Hằng chợt nhớ lại lần đầu gặp Hải xuống phối hợp sửa chữa phần điện khi anh còn là phó quản đốc phân xưởng điện. Anh vừa từ phòng đốc công xuống đến sân trạm thì thấy hình như có ai đó đang từ phía sau tiến lại, anh giật mình vì tiếng chào khá to:
          - Chào thủ trưởng!
          - Hải đấy à! Chú cứ làm anh giật mình, các cậu chả thủ thì thôi chứ tớ thì thủ với đầu cái gì.
          - Với em thì anh cứ là thủ trưởng mãi mãi.
          Hằng biết Hải nói cho vui thôi chứ cũng không có ác ý gì nên anh cũng chỉ cười xoà.
          - Thế bao giờ thủ trưởng xong phần máy để em làm phần điện.
          - Có lẽ là mai các chú xuống thì mới làm được.
          - Nhất trí với anh thế nhé.
          - Rồi...Rồi...
          Ngay hôm ông Thăng giao nhiệm vụ sửa chữa cho Hàng thì Hải cũng được lệnh xuống giám sát. Cũng vẫn thân thiện như mọi khi anh nói:
          -  Em được giao nhiệm vụ xuống giám sát công việc để báo cáo tiến độ hàng ngày về phòng. Nhưng em cũng nói thật, cái thứ máy móc của anh là em chưa biết gì nhiều nên anh phải giúp em hoàn thành nhiệm vụ đấy nhé.
          - Cụ thể là gì nào?
          - Cứ khi nào căn chỉnh thì cho em biết để em đến cùng làm và lấy số liệu để về báo cáo là được anh ạ.
          - Hơi lâu đấy!
          - Không sao, em theo được.
          Vừa nhớ lại những hình ảnh cũ vừa nhìn vào mặt Hải anh nhận ra mấy hôm nay thôi nhưng hình như cậu ấy gầy đi khá nhanh. Gầy cũng là phải thôi vì ăn uống thất thường, rồi thì cũng nằm sàn đất ngủ như cánh lao động trực tiếp thì sao không sút cân cho được.
          - Chú gầy đi nhiều đấy, cứ chiều đến xuống với cánh tớ là được, còn nếu nửa ngày mà xong thì thế nào tớ cũng báo cho chú trước.
          - Em theo được mà!
          - Tớ định cho các cậu ấy nghỉ luân phiên một vài buổi vì xem ra nếu kéo thêm thì họ ốm hết.
          - Em không dám can thiệp vào công việc của các anh, nhưng xem ra họ cũng mệt mỏi thật rồi anh ạ.
          Hằng cũng không nói gì thêm nữa, anh cúi xuống với tờ giấy trên tay, xa hơn một chút ở giữa sân trạm tốp công nhân quần áo đầy bùn đất dở nằm, dở ngồi đang hướng về phía anh chờ đợi. Có lẽ đây cũng là con số tốt nhất từ hôm bước vào điều chỉnh nhưng vẫn chưa đạt yêu cầu. Gấp tờ giấy lại bỏ vào túi rồi tiến đến chỗ anh em công nhân ngồi đợi. Hầu như tất cả đều im lặng chờ nghe anh đọc kết quả.
          - Biết là các cậu mệt quá rồi nhưng nếu cố một lần nữa thì rất có thể được, thế nào anh em mình cố một chút nữa nhé.
          Không biết do anh nói nhẹ nhàng thân thiện hay trên mặt anh có biểu lộ lạc quan hay sao mà tất cả đều nhanh chóng đứng dậy xuống trạm bám vào tay quay chờ đợi. Hằng lấy lại chiếc búa cái tám cân từ tay của Sinh chui vào sàn công tác. Anh kẹp chặt cờ lê 42 vào mũ ốc rồi quai búa gõ mạnh vào cán cờ lê. Những tiếng gõ đơn độc chói tai phát ra không làm cho ai vui được bởi từ mấy ngày nay cũng đã gõ mãi mà có xong đâu. Con số hầu như không chuyển được mà có phần lại lớn hơn lên làm cho mọi người đều ngao ngán. Hằng buộc lòng phải để cho anh em nghỉ để làm đợt khác vậy.
          - Ngày mai.... cho mấy cậu Yên Dũng nghỉ một ngày, số anh em vợ con ở cơ quan cố gắng thêm giờ buổi nữa nhé.
          - Sao chỉ Yên Dũng được nghỉ? Chúng em cũng đã liên tục mấy tuần rồi ...
          - Nghỉ gì đâu, chẳng qua là cho các cậu ấy về đi cày cho vợ một buổi mà thôi. Chưa chừng, mai các cậu lại lập công ấy chứ.
          - Thế mai ít người thế làm sao quay được ạ.
          - Mai tớ nhờ mấy cậu ngày H giúp thêm. Thôi thông cảm cho mấy chú ấy một chút, vợ con nông thôn lam lũ vất vả lắm. Cánh mình lúc nào cũng ở gần cố một tý nhé...
          Đêm như chưa bao giờ dài đến thế! Quay đo, lặp lại quay đo! Những tiếng dô ta khản đặc, những tiếng búa gõ vào thép chát chúa chợt lúc vang lên trong tiếng à à... của tổ bơm số 3 cạnh đó. Những con mắt đỏ lên vì thiếu ngủ nhiều khi không tự chủ được cứ muốn sụp xuống một vài giây...
          Có lẽ đã hơn tuần rồi chứ có ít gì đâu!


                                                               4


          Đã hơn tám giờ mà số anh em làm thêm giờ ca ngày vẫn chưa đến, Hằng một mình vác búa xuống sàn công tác, cắm đèn soi hết xung quanh  rồi lau chùi dầu mỡ trên cán gỗ. Anh giở tờ giấy hôm qua ra và ngồi ngẫm nghĩ. Có một thông số không theo quy luật lắm không biết có phải là điểm đo có khuyết tật hay không. Anh đưa tay sờ đi sờ lại ba bốn lượt vẫn thấy trơn láng bình thường. Anh lắp cờ lê 42 lần lượt vào hai ốc cùng hướng với chiếc ốc hôm qua đánh chặt thêm một chút rồi đánh lại tất cả các ốc còn lại. Vừa dừng tay búa anh đã nghe thấy tiếng ồn của mấy cậu đến làm thêm giờ ca ngày.
          - Sao lại có mình bác vào việc thế?
          - Tớ thấy hơi sốt ruột nên xem lại một vài chỗ làm đêm qua để cho chắc chắn. Các cậu chuẩn bị để quay nhé.
          Tiếng dô ta lại tiếp tục vang lên từng nhịp ngắn, có lẽ sau một đêm lại sức lại có sự hỗ trợ của mấy cậu vận hành nên trục quay êm lắm. Máy vừa dừng lại Hằng đã đến các vị trí để lấy thông số. Anh không tin vào mắt mình nữa khi các thông số sai lệch hầu như rất nhỏ. Kinh nghiệm cho thấy thì với những thông số như thế này thì kết quả nhất định sẽ đạt yêu cầu. Hằng đang định nhắc mấy cậu kiểm tra lại các chi tiết ghép nối thì Biền từ văn phòng chạy xuống hỏi số người đi làm để báo bồi dưỡng:
          - Hôm nay các bác làm thêm mấy người ấy nhỉ?
          - Thì chú đếm hộ một tý chứ tớ chẳng nhớ đâu.
          - Em cứ tưởng bác điều động nhân lực chứ lại.
          - Thì vẫn... nhưng hôm nay có thêm cánh vận hành nữa.
          Còn đang nháo nhào về con số làm thêm giờ lại thấy cậu Khải  ở đâu đó đi vào:
          - Kết quả thế nào hả anh?
          Hằng ngước lên định nói kết quả tính toán nhưng anh thấy Khải có vẻ sốt ruột thế là anh làm bộ xịu mặt xuống rồi lắc đầu tỏ vẻ chán chường. Nhìn thấy thái độ của anh Khải càng buồn bã hơn:
          - Thế mà em cứ tưởng !...
          - Có khi phải mấy đỏ nữa mới ổn chú ạ.
          - Thế thì chết em rồi.
          - Sao thế?
          - Nói thật với bác chứ em ốm suốt từ mấy bữa nay rồi nhưng thấy anh vất vả quá nên cũng phải cố mà không dám kêu.
          - Này thế cậu có biết cậu Sinh đi đâu không nhỉ?
          - Chết rồi...
          - Bậy nào.
          - Nó lăn kềnh ở sàn động cơ rồi anh ạ! Ngáy cứ như sấm ấy.
          - Này cậu thống lĩnh số ca ngày để lắp ráp thiết bị giúp tớ tý nhé, nhớ là phải kiểm tra thật kỹ đấy.
          Hằng trao đổi thêm về quân số làm thêm giờ với Biền rồi đi thẳng xuống tầng động cơ. Chẳng phải một cậu Sinh mà cả mấy cậu trong nhóm làm thêm giờ đêm qua đều đã ngủ lăn, ngủ lóc trên sàn động cơ. Hằng bỏ mặc số anh em nằm ngủ lặng lẽ đi lên tầng trên với sự mệt mỏi và buồn ngủ không kém gì họ.
          - Sao anh không gọi chúng nó làm sớm đi để chiều tắm giặt sớm một tý?
          - Thôi để cho chúng nó ngủ thêm một tý nữa mày ạ. Có lẽ cả nhóm của mày cũng kiếm chỗ nào đó kềnh một tý cho đỡ mệt chờ nhóm ca đêm dậy thì bắt đầu lắp ráp.
          - Thế còn số vận hành, mới quay có mấy đỏ?...
          - Cho họ vệ sinh trạm một chốc rồi về.
          - Thế còn bồi dưỡng ngoài giờ của họ?
          - Để tý nữa tớ bảo Biền cắt tiêu chuẩn chuyển cho họ. 
          Khải đi rồi, còn mỗi một mình Hằng lang thang dọc trên sân trạm, anh như ngọn đèn đêm còn thức, báo rằng ở chỗ này vẫn đang có sự hoạt động...
          Hai giờ sau tất cả quân số đều đã được đánh thức để tiếp tục làm việc. Giấc ngủ ngắn ngủi đã giúp họ khoẻ trở lại, chạy lên chạy xuống bắt tay vào công việc đang còn dở dang trước đó. Cho dù chỉ với một khoảng thời gian rất ngắn, nhưng có lẽ tuổi trẻ đã giúp nhanh chóng phục hồi phần sức lực tiềm tàng trong mỗi con người của họ. Hằng chợt nhớ về những năm kháng chiến, khi anh bằng tuổi họ bây giờ, lòng thầm ao ước được quay trở lại những năm tháng thanh xuân ngày ấy.


                       LÀM THẦY GIÁO                   

                                                                 1

          Hằng lật hết mấy chồng sách để tìm cuốn thiết bị thuỷ lực mà vẫn chưa thấy đành ngồi bệt xuống nền nhà để cố nhớ lại xem mình có cho ai mượn hay không. Những người có thể mượn sách của Hằng không nhiều vì đa số anh em bậc thấp thì có đọc cũng không hiểu. Số cán bộ kỹ thuật thì lại chỉ quan tâm đến việc thống kê thiết bị vận hành, sửa chữa trong kỳ với những tóm tắt về thời gian làm việc, thời gian dừng sửa chữa để báo cáo là chính. Tất cả những diễn biến khác hầu như họ chẳng phải chịu trách nhiệm trực tiếp bao giờ. Nếu như có kíp nào gây sự cố thì trưởng kíp và nhân viên vận hành đã có dư số chịu trách nhiệm trước tập thể và cấp trên rồi nên mấy tay kỹ thuật đâu có phải bận tâm gì mà nghiên với chả cứu. Một lý do khác khiến cho họ càng không cần nghiên cứu đó là họ chẳng bao giờ phải thi khi nâng bậc. Mà đã không ai hỏi gì về sự hiểu biết của mình thì họ cần gì phải tự làm mệt họ. Những sự như thế này Hằng đều hiểu cả tuy nhiên anh cũng chẳng thể làm gì khi cấp trên cũng đã không cần soát xét đến điều đó. Cũng chính vì thế mà có đến hơn chín chục phần trăm những người làm chức trách về kỹ thuật và cả các chức trách tối cao về chuyên môn vẫn cứ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, là Lao động tiên tiến, là Chiến sĩ thi đua trong khi họ chẳng biết gì về những thứ họ đang lãnh đạo. Chắc có nhiều người cho rằng Hằng võ đoán, những anh chẳng sợ vì một khi có ai đó chống đối về điều này anh sẵn sàng ứng khẩu mà kể ra hàng chục công việc, hàng chục công nghệ mà những vị ấy chưa bao giờ được đào tạo, chưa bao giờ được nhìn thấy, chưa bao giờ được sờ thấy. Cứ nói như ở phân xưởng Thuỷ lực này mà nói thì mấy ai biết được Điedel nó làm việc ra sao, rồi nữa cái tầu cuốc nó cuốc thế nào. Đơn giản nhất không ai không hiểu rằng mấy ông thợ điện thì hiểu gì về cơ khí cùng với những chuẩn những dung sai cùng với những sự lắp ráp của nó, chưa nói đến khi gia công thay thế biết dùng thứ gì thay thế. Chẳng thế mà khi người ta thiết kế ống đựng nhiệt kế bằng đồng để lợi dụng sự dẫn truyền nhiệt lại bị mấy ông cán bộ phòng kỹ thuật đổi thành thép trắng cho không rỉ, cho đẹp và còn cho gì gì nữa không biết được, đến khi có người nói cái lý do giản dị kia ra thì họ đành ngậm miệng lẩn nhanh hơn trạch. Còn có bao việc về cơ khí như gò, rèn, hàn cắt với bao quy trình công nghệ nữa mà những ông kỹ sư điện không sao am hiểu nổi. Thế còn mấy ông kỹ sư cơ khí thì cũng chả khá hơn những ông kỹ sư điện kia khi mấy ông ấy đứng trước những bộ phận dây dợ chằng chịt, đâu là rơle, đâu là công tắc tơ, đâu là mạch lực, đâu là mạch bảo vệ. Với máy móc về điện họ cũng mù tịt khi cần phải quấn lại mấy cái động cơ, khi cần phải thay dầu, sấy máy biến thế, khi phải  tháo băng đa máy phát...
          Hằng ngồi như thế đã gần mươi lăm phút mà vẫn chưa nghĩ ra anh để vào đâu, bực mình quá anh liền vứt cả đống sách trên sàn đi xuống sân trạm. Đang ngó vào cửa trạm xem quân của mình đã ra chưa thì thấy Việt vừa giở sổ nhật ký vận hành vừa dặn trực ca ghi chép nội dung vận hành vào sổ mới mà Hằng mới thiết kế đặt hàng từ phòng vật tư mang về. Bất chợt Hằng nhớ hình như có lần Việt mượn cuốn Thiệt bị thuỷ lực... và hình như cậu ấy mang xuống nhà giả thì phải... thế có nghĩa là cuốn sách đang ở nhà mình. Nghĩ đến đây anh thấy cũng vẫn còn mơ hồ nhưng anh vẫn thầm chấp nhận giả thiết này và tự nhủ hãy xếp lại về nhà tìm hẵng hay.
          Bài giảng đầu tiên Hằng truyền đạt khá lưu loát và có sức gợi mở. Nhiều ý kiến hỏi lại anh đều phân tích thêm nên hầu như mọi người đều đã thoả mãn và vui vẻ. Trên đường về có cậu đến bên anh tâm sự:
- Em học nhiều thầy nhưng số thầy giảng dễ hiểu như anh thì chả có ai. Bài hôm nay em có thể nói lại ngay bây giờ mà cũng không sai bao nhiêu.
- Thực ra hôm nay tớ vẫn chưa chuẩn bị tốt vì tài liệu đang thất lạc đâu đó vẫn chưa thấy. Tớ cũng lo không giảng dậy tốt, phụ lòng các anh ấy trên phòng tổ chức đã tin tưởng.
Khi chỉ còn một mình cuốc bộ trên đường về trạm Hằng chợt nhớ lại những ngày đầu khi anh mới về Phả Lại hơn mười năm về trước. Cũng không biết mấy ông cán bộ phân xưởng có ý thử thách hay không mà mới đến chưa được hai tuần đã đề nghị đồng chí đốc công có chương trình bồi huấn cho lực lượng công nhân mới. Thực ra thì công việc giảng dạy Hằng chẳng ngại gì vì ngay từ khi còn niên thiếu anh đã phải giảng bài cho các bạn cùng lớp. Nhiều năm sau anh đã kinh qua các kỳ họp, kỳ đại hội với chức trách là ban tổ chức, là người truyền đạt nội dung các văn bản khá dài hơi về chính trị có, về chuyên môn có, cả khi ở công nhân lẫn khi đã là bộ đội. Tuy nhiên các văn bản hầu như có sẵn các gạch đầu dòng, ngoài ra cũng được phép mở rộng, miễn sao đúng nội dung, đúng đường lối. Điều cần thiết là bài nói chuyện có sức thuyết phục để sau buổi nói chuyện khí thế đơn vị hào hứng, thực hiện tốt mục đích yêu cầu nhiệm vụ. Vấn đề kỹ thuật cũng chẳng hắc búa lắm nhưng vốn nó khô cứng, vả lại không thể tuỳ tiện được với các thông số kỹ thuật, các công thức. Còn trình độ công nhân thì thật là không đồng đều chút nào, khối người đã tốt nghiệp cấp ba và cũng khối người mới học hết cấp hai. Riêng ở khối sửa chữa của Hằng theo điều tra thì cũng đã có gần mười phần trăm chỉ mới lớp năm, lớp sáu. Những người như thế ngay khi còn học ở trường đã lơ tơ mơ rồi, chắc gì có thể hiểu được những cos, sin, với lại tang này tang nọ. Giảng thế nào ấy là do những người thầy và hiểu thế nào là do mỗi người trong họ. Biết vậy nên Hằng càng băn khoăn hơn mỗi khi cần đề cập đến những công thức tính toán trong bài học.
Chiều nay Hằng giảng đến bài cân bằng tĩnh thiết bị quay. Đây cũng là một bài học khó vì có nhiều công thức và đặc biệt là có đến vài cách thực hiện khác nhau. Một trong những cách cân bằng tĩnh được các chuyên gia ngành điện tiếp thu từ các công nghệ cân bằng khá phức tạp và dài dòng với nhiều mệnh đề toán học vẫn thường lưu hành trong nghề sửa chữa kể từ khi Hằng mới vào nghề. Cũng thật may mắn cho Hằng là anh thường vào các hiệu sách để xem mỗi khi có dịp đi qua nên trong một lần anh đã mua được một cuốn sách dùng cho sửa chữa điện. Đây là một tài liều khá phong phú về nội dung cả về mạch, về thiết bị điện và  đặc biệt là có phần dùng cho sửa chữa thiết bị điện cơ, bao gồm cả căn chỉnh các gối trục và cân bằng thiết bị. Riêng về cân bằng tĩnh thì phương pháp do cuốn sách đề cập khá đơn giản tuy cũng có dùng đến các công thức toán học. Điều cần thiết Hằng muốn là sao cho các công nhân mới chỉ lớp thấp vẫn hiểu và làm được nên anh đọc khá kỹ mục này.
Gần mười phút dành cho việc giới thiệu phần mở đầu không đến nỗi rời rạc lắm vì đây chỉ là những mục đích, yêu cầu là chính. Phần chủ yếu tiếp theo là việc xác định trong khối mất cân bằng, một trong những nội dung quan trọng nhất vì nội dung này là tiền đề cho việc xác định trọng khối gắn vào thiết bị khắc phụ mất cân bằng. Tài liệu này cũng có nội dung tìm trọng khối mất cân bằng với các trọng khối thử gắn trên đường kính bánh xe công tác ở phương ngang để tạo ra sự quay của bánh xe đi một góc nào đó. Tích số của trọng khối gắn thử với tang của góc quay do vật thử tạo ra chính là trọng khối mất cân bằng.
Tất nhiên là có khá nhiều người cụt hứng vì cái công thức tang an pha nọ. Hằng biết vậy nhưng anh cứ coi như không biết, thậm chí còn nói rằng đấy là công thức bắt buộc mọi người phải biết để mà cân bằng. Cũng đã có một vài người lo lắng và hỏi nhiều ý kiến, nào là cân kéo ra sao, rồi tính toán tang ấy ở đâu cho được. Tất nhiên một số đã qua cấp ba thì họ không ngại lắm những cũng ý kiến rằng chẳng thể nhớ cho hết tang của các góc được, trong khi tay chân dầu mỡ thế thì phiền toái quá vv... Hằng chỉ cười mỉm rồi cất giọng như một ông giáo thực thụ:
- Trong lớp ta có khá nhiều đồng chí đã qua cấp ba chắc là quá rõ về góc lượng giác còn gì. Tất nhiên là đến lúc đó các vị phải hỗ trợ cho nhau chứ chả lẽ lại chịu à? Hằng nói xong chờ mãi vẫn chưa có ai bảo sao, anh liền chỉ định vào một công nhân:
- Bạn có biết về góc lượng giác phải không?
- Dạ! Có... nhưng mà quên nhiều lắm rồi ạ!
- Bạn có biết khi nào tang an pha bằng một không?
- Hình như góc an pha bằng chín mươi độ thì phải!
- Vậy bạn có điều chỉnh cho vật thử làm bánh xe quay đi một góc chín mươi độ không?
- Em phải thêm bớt nhiều lần có khi là được!
- Dứt khoát phải được chứ sao lại có khi phải không nào?
- Dạ!... phải được ạ!
- Tốt rồi, thế có nghĩa là ta chỉ cần gắn trọng khối thử bằng đất sét vào một đầu đường kính trên mặt ngang để đến khi chỗ gắn đất này làm bánh quay đến chỗ thấp nhất là đã tạo ra góc chín mươi độ rồi phải không nào? dừng một lúc Hằng lại nói tiếp:
- Đương nhiên là ta chỉ cần cân gia trọng và gắn vào điểm đối diện với trọng khối mất cân bằng, hay là cụ thể hơn là gắn cục đất sét này vào chỗ cao nhất của bánh xe khi chưa gắn gia trọng thử rồi quay bánh đến chỗ nào là nó nằm im như thóc vậy thôi. Lúc này thì ta thay bằng miếng kim loại gắn vào hay gọt bớt khối lượng thừa đi đều được cả.
Hằng nói dứt một lúc rồi mà số đông học viên vẫn cứ ngỡ ngàng ngồi im phăng phắc. Mãi mới có một cậu học viên trẻ cất giọng:
- Có nghĩa là khi cân bằng tĩnh chúng em chẳng cần tang tung gì sất phải không ạ!
- Thì tất nhiên là thế, nhưng mà nếu học thêm để biết sin, biết cos, biết tang thì cũng chẳng thừa phải không nào?
- Quả nếu thày không nghĩ ra cái chiêu này thì chúng em tắc tị hết thày ạ!
- Ừ thì cái khó, ló cái khôn ra chứ lại!
- Thế sao sách họ không viết luôn như thế thầy nhỉ?
- Điều đó thì tôi cũng chịu, không trả lời các bạn được.
Buổi học đã tan từ lâu mà mọi người vẫn chưa chịu về đơn vị, có lẽ họ còn bận đàm luận với nhau về bài giảng của Hằng hôm nay. Hằng cũng vui lắm khi mình đã thổi vào lòng những người công nhân vốn chỉ muốn làm việc mà không thích mấy đến cái thứ lý thuyết vốn đã làm phiền họ bao kỳ thi khi còn đi học và cả bao kỳ thi nâng cấp và rồi thi để lên lương...
Kể từ năm chuyển chức danh đốc công sang làm đội trưởng, Hằng không có quân số trong tay nữa vì đơn vị không triển khai kế hoạch thành lập đội sửa chữa mà co lại để chờ đợi tách khối đại tu ra khỏi dây chuyền sản xuất. Lẽ dĩ nhiên là phân xưởng đành trưng dụng anh làm kỹ thuật tại tổ văn phòng. Công việc làm mới đáng lẽ phải giảm lương đi khá nhiều theo quy định ngạch bậc của nhà nước, nhưng có lẽ anh Hiếu giám đốc và anh Trung quản đốc thấy như thế thì thiệt hại cho Hằng nên họ thống nhất với nhau cứ để anh hưởng lương cũ. Đương nhiên là khối vị làm kỹ thuật ở trên phòng có thắc mắc, vì họ làm kỹ thuật ở cấp cao hơn mà lại không được ưu tiên. Qua dư luận Hằng biết anh Hiếu giám đốc đã có ý kiến dàn xếp nhưng nếu cứ để như thế về lâu dài cũng không lợi, thế là Hằng được mời lên làm chuyên đề chuyển ngạch. Cũng không biết do ai đề xuất mà sau khi Hằng bảo vệ chuyên đề xong là nhà máy có công văn cho ban đào tạo công bố cho các chức danh công nhân bậc sáu trở lên và các chức danh kỹ thuật hưởng lương theo ngạch công nhân đều phải đăng ký và bảo vệ chuyên đề mới được lên bậc.
Trong số quân cũ của Hằng cũng có một số người đang chuẩn bị chuyên đề. Năm nay số công nhân sửa chữa lên bậc sáu chỉ có một mình cậu Tuần. Dù bận giảng bài cho khối đại tu sửa chữa nhưng Hằng vẫn không quên hoàn thiện sơ đồ bơm cao áp để Tuần lên báo cáo chuyên đề. Về phía Tuần, Hằng cũng không lo lắm vì cậu này khi học lý thuyết ở trường khá tốt. Tuy vậy anh cũng đã căn dặn nhiều điều trong khi báo cáo chuyên đề, thế mà hình như cậu ấy lại bị bí về một câu hỏi nào đó mà Hằng không biết.
Đến khi về đơn vị Hằng mới biết đây chỉ là câu hỏi bình thường về dung sai lắp ghép, số là khi vẽ các piston bơm cao áp Hằng có cho trị số dung sai cụ thể, còn số giám khảo thì cãi rằng dung sai này không đo được vì lỗ quá nhỏ mà đo bằng thước cặp thì không có cấp dung sai như thế. Kể ra thì họ nói như thế cũng đúng vì thiết bị đo của nhà máy cao nhất là các panme mà lỗ mười ly thì đồng hồ không đo được. Khi nghe câu hỏi này Tuần sững người và thầm trách: có lẽ sếp của mình cũng hú hoạ mà thôi, thế là cậu ta đành đấu dịu và hứa rằng sẽ xem lại tài liệu. Mãi đến khi về kho vật tư gặp mấy ông kỹ sư động lực cũng xác nhận rằng chúng tớ cũng chưa khi nào đo được lỗ bơm cao áp của điedel, làm sao mà cái ông Hằng này đo nổi. Lẽ dĩ nhiên là không ít người cho Hằng chỉ nói hú hoạ mà thôi. Có lẽ vì thế nên khi vừa bước chân vào cửa văn phòng Tuần đã bê nguyên cả những ý kiến của giám khảo và các chuyên viên ra để thử độ thầy. Hằng biết chắc là cả Tuần cũng tự phủ nhận dung sai mà Hằng đã ghi vào bản vẽ bởi có quá nhiều người đều cho là như thế. Biết vậy nên Hằng chỉ cười mỉm rồi thong thả uống nước ra vẻ như cũng khó trả lời cho cậu công nhân thông minh có tiếng này. Không thiếu những người dưới quyền của Hằng lâu nay tin vào tất cả mọi điều Hằng nói thì đều buồn vì cái lỗi này của anh. Họ không dám nhìn thẳng vào anh và im lặng đến khó hiểu. Nếu cứ để tình trạng này kéo dài chắc họ sẽ buồn bã và tiêu cực nên Hằng chủ động tháo gỡ:
- Thế các cậu cũng tin là tớ bịa ra thông số hay sao?
- Nhưng mà tất cả họ đều có lý... anh ạ!
- Cái lý của sự thiếu hiểu biết thì có! Hằng dứt câu nói vừa rồi với cách nói có hơi ngạo mạn, nhưng hình như chẳng ai quan tâm đến điều đó mà họ đều cùng sôi nổi cười nói trở lại. Có lẽ họ vui vì họ có quyền tự hào về một người mà lâu nay họ tin là không sai, không tuỳ tiện với tất cả những gì mà họ thường thấy, họ tự hào vì cái môi trường tốt đẹp mà họ đang sống do chính họ cùng với con người ấy tạo ra. Những ai đó từng nói đến câu cách ngôn: “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” thì chính là họ đang cho mình trong vai của sự “gần đèn”. Họ đang gần với một người luôn trung thực, luôn đúng và họ thường trông đợi điều đó. Biết vậy nên Hằng quyết định đã đến lúc phải nói cách đo thông số ấy để củng cố lòng tin cho họ. Tuy nhiên anh vẫn muốn tạo ra một không khí từ từ, chầm chậm để mọi người có thêm một lần chờ đợi trong sự tìm hiểu từng bước một:
- Lúc nào cậu gặp mấy tay giám khảo và mấy ông bạn có lý thì bảo với họ rằng người ta đo các lỗ ấy bằng calíp đấy!
Đúng như dự đoán của Hằng, không phải ai cũng hiểu đo bằng calip là như thế nào.
- Em vẫn chưa hiểu thế nào là đo bằng calip anh ạ!
- Calip theo tiếng ta là những cái cữ, là những thỏi có nhiều kích thước khác nhau. Mỗi khi đo ta thả các thỏi này vào các lỗ của vật, kích thước của thỏi cuối cùng chui được qua lỗ chính là kích thước của lỗ. Còn thỏi này thì gia công theo các kích thước tính toán rất dễ và đo được bằng các loại dụng cụ đo bên ngoài cũng dễ phải không các cậu. Dừng một lúc Hằng lại tiếp:
- Thực ra giờ đây người ta có thể đo bất kỳ mọi vật chính xác đến những phần tử vô cùng nhỏ bằng công nghệ quét tia lade lên vật cần đo.
- Anh đã đo bao giờ chưa ạ?
- Đo bằng lade thì tớ chỉ mới nghe nói, còn đo lỗ tròn bằng calip thì tớ thường kiểm tra độ phình nòng súng trong những năm tớ làm công tác quân giới trong quân đội. Về nguyên tắc là giống nhau, chỉ khác là calip của lỗ bơm nào thì có chuỗi kích thước cho lỗ bơm ấy, còn calip cho súng thì cũng có chuỗi kích thước cho từng loại súng. Ví như súng bộ binh AK, CKC vv... đều bắn đạn K56 thì lỗ của nòng súng chỉ có 7ly 9 và cộng thêm những cái đuôi lẻ phía sau dăm ba số nữa.
- Đơn giản thế mà sao khi anh nói chúng em mới biết nhỉ?
- Có khi học rồi mà các cậu quên cũng nên!
- Có khi thế anh ạ!
- Vì thế các cậu phải cố gắng nhớ hơn nữa để mà áp dụng sau này. Với lại ngay trong các dụng cụ đo trong đơn vị ta cũng có nhiều ứng dụng lắm đấy, các cậu cố gắng nghiên cứu để mà ứng dụng, kẻo sau này các cậu bị học trò lục vấn là gay đấy!
Mọi người cùng cười ồ để xí xoá câu chuyện với màu sắc thiếu niềm tin không đáng có...

                                                    2

Những cơn ồn ào buổi sáng giao ban trong khối cũng đã bớt dần, số anh em trong các nhóm công tác đã theo nhau mang dụng cụ đi vào các trạm. Hằng bước xuống sân trạm lặng lẽ nhìn xa xôi về phía ngọn khói đang bay trên đỉnh cột cao hơn hai trăm mét với những vòng trắng đỏ trên thân đang ngả màu bởi mưa nắng. Có lẽ cũng đã đến hai năm có dư rồi mà câu chuyện điều chỉnh áp lực ống tuần hoàn vẫn như còn in trong đầu Hằng như mới hôm qua vậy. Thực ra Hằng chỉ buồn phiền khi nghe đồng chí quản đốc nói về cái sự tự cao tự đại của Biên khi anh ta luôn rêu rao rằng cái sự hiểu biết của một kỹ sư hơn hẳn mọi người xung quanh. Rồi thì còn, tất cả mọi việc anh ta đều có thể làm được chỉ là anh ta có muốn tìm hiểu hay không mà thôi.
Cái buồn của Hằng thực ra cũng chẳng đáng có, chỉ là anh buồn vì đã giới thiệu về đơn vị một người còn rất non tay về công việc lại già giơ về cái sự kiêu căng phách lối. Hằng buồn vì anh không nhận ra con người này trong khi anh luôn tự tin rằng mình đánh giá mọi người khá sát. Anh buồn vì mai đây người ta cũng sẽ dựa vào bằng cấp để đưa lên một người lãnh đạo với nhiều tư chất chẳng xứng đáng với tập thể và rồi cậu ta sẽ lại làm hòn đá tảng cản lối đi như một số nhân vật bệnh hoạn từ nhỏ tý đến cao tít vẫn chềnh ềnh ở khắp mọi cơ quan đoàn thể quanh ta.
Đành rằng những người được học hành thì phải biết nhiều hơn những người không được học, tuy nhiên dù có được học thì có phải học hết kiến thức của mọi ngành nghề được đâu, huống chi trong cái nhà máy điện dâu chỉ có một thứ máy, một thứ nghề mà người kỹ sư được học. Có một điều cũng cần phải hiểu rằng công việc nào cần trình độ ấy. Cái hiệu quả của mọi công việc là sự sắp xếp phù hợp giữa công việc và người làm. Để cuốc đất hay khuân vác thì nên chọn những người to lớn khoẻ mạnh. Cũng như vây người trông coi vận hành và sửa chữa các loại máy thì cần đến những công nhân lành nghề là chính.
Cũng có một sự làm Hằng buồn phiền là sắp tới chi bộ đang muốn giúp đỡ để đưa cậu ta vào Đảng thế mà cậu ta lại xa rời quần chúng đến thế thì không biết rồi mọi người có giúp nổi cậu ta không nữa...