Tổng số lượt xem trang

28/03/2011

MỘT SỐ BÀI THƠ LÀM VÍ DỤ


PHÓ THƯỜNG DÂN
(Bài xướng)
Từ ngày trở lại phó thường dân
Mọi sự đua chen cũng nhạt dần
Sáng đến đôi trang, tăng trí não
Chiều về mấy chưởng, giúp rèn thân
Cơm rau, dưa, giá thanh mà ngọt
áo sợi, bông, tơ mát lại thuần
Phú quý mặc ai nơi huyện sở
Một mình vui cảnh phó thường dân

VỚI BÌNH DÂN
(Hoạ bài Phó thường dân)
Người nào chẳng ở chốn bình dân
Cố nhớ đừng quên mất gốc dần
Phú quý quen mùi chừng khó bỏ
Nghèo hèn tập mãi chửa nên thân
Thẳng ngay, bộc trực, danh càng đẹp
Bình dị, thanh cao, tính cũng thuần
Cái sự làm mình ra khác lạ
Sao bằng trở lại với bình dân

SÁU MƯƠI
Sáu mươi lặng lẽ, bước đường xa
Thoắt cái thời gian, đã đến già
Khúc hát xông pha, chưa kịp dứt
Bài thơ chiêm nghiệm, mới vừa ra
Vườn xuân cứ hẹn, kêu đi tới
Ngõ trúc khi cần, đón lại qua
Muôn sự ngoài đời không vướng bận
Đôi dòng thi phú, một hồn ta.

CẢ NƯỚC PHANG
(Hoạ bài Con chuột của Yên Thao)
Năm Hợi qua rồi năm Tý sang
Thời gian ngắn ngủi có vài gang
Hà Thành xuân đến còn phong kín
Văn Miếu thơ về chợt mở toang
Đạo chích, gian tham cho xuống hố
Quan liêu mệnh lệnh nhét vào hang
Kẻ nào ngoan cố còn nằm đó
Gậy mới đang chờ cả nước phang

ĐỀN CHU VĂN AN CẢM TÁC
Núi Phượng chiều nay đỏ sắc cờ
Đền đài mới dựng giữa hoang sơ
Trường xưa hoa nở trò đang đợi
Điện mới thông reo khách vẫn chờ
Sửa đức can người lo vận hội
Khơi nguồn dạy trẻ tạo duyên cơ
Bên tường vẫn đó dòng xuân cảm
Đạo thánh gieo mầm vạn tứ thơ

NGHE ĐÀN
Gác nhỏ bên sông chợt ghé thăm
Đàn ai dìu dặt cất thanh âm
Vư­ờn hồng tráng nắng hư­ơng còn nức
Lối cỏ mù sương lệ vẫn đầm
Vần vũ mây giăng chùa trư­ớc mặt
Nhạt nhoà khỏi phủ núi xa xăm
Rót hồn trên phím ai trăn trở
Dục khách qua đư­ờng nảy khúc ngâm

KHAO THƠ
Gặp buổi thanh nhàn đến với nhau
Cần chi nghèo khó với sang giầu
Me chua mấy quả, sôi trong nước
Muối lạc đôi hòn, trộn dưới âu
Chọn tứ, tìm câu mời tiếp chén
Lựa vần, sửa đối dục thay bầu
Thong dong cuối tháng lương chưa tới
Vẫn hẹn khao thơ đãi một chầu

XUÂN ĐẾN NHÀ
Xuân vừa chợt đến nở muôn hoa
Mừng được đông vui đủ trẻ già
Trong bếp đàn con đang sắp cỗ
Ngoài sân lũ cháu đợi chia quà
Nụ đào chúm chím hồng bên cửa
Cành lộc đu đưa biếc giữa nhà
Đôi khổ thơ xuân còn ướt mực
Một ly nước mới dậy hương trà.

HỘI XUÂN QUÊ
Một hội xuân quê mới mở ra
Chia vui khắp hết cả muôn nhà
Sân đu đầy chặt trai bên gái
Bãi vật chen nhau trẻ cạnh già
Đầu xóm hân hoan mùa đã gọn
Cuối thôn hể hả lúa thêm trà
Đất trời toả rộng hương no ấm
Ngàn tiếng ca vui giữa thái hoà.

 CUỐI XUÂN CẢM TÁC
 Xuân đã dần qua cuối tiết rồi
 Gốc đào trước cổng đứng đơn côi
 Tiếng chim sau núi lưa thưa hót
 Bông gạo trên cành lặng lẽ rơi
 Ánh nắng chiều vàng đang tụ lại
 Vầng trăng đêm trắng sắp chia phôi
 Giật mình một chốc mười năm lẻ
 Một áng thơ buồn tỏ khúc nhôi

THỨC
Xa cách từ khi ấy đến nay
Quê xưa vẫn mãi ở tim này
Ai mơ muôn dặm đầy sương tuyết
Ta mộng lối về xanh cỏ cây
Đầu sáng mỏi mòn xem bóng nắng
Nửa chiều da diết ngắm chân mây
Nào ai biết được nhiều đêm thức
Trong lúc bao người đã giấc say.

MỘNG VỀ QUÊ
Bao núi bao sông đã lội qua
Đêm nay chợt nhớ đến quê nhà
Đầu ghềnh n­ước cũ chao lư­ờn sóng
Cuối bãi trăng x­ưa dọi luống cà
Mái lá liêu xiêu nền đất ư­ớt
Sân rêu vắng lặng vết chân nhoà
Trăm năm chớp mắt trôi qua cửa
Để lại bên song bóng nguyệt tà

TH­ƯƠNG QUÊ GẶP NẠN
Nghe vỡ bao đê ở tỉnh nhà
Bão liền mấy trận thảy đều qua
Vuông tôm mới đắp không còn vết
Chạt muối chưa thu cũng chảy xoà
Sức vóc bao nhiêu đành mất cả
Công lênh ngần ấy cũng thôi hoà
Đành rằng hoạn nạn đâu không thế
Vẫn cứ đau riêng nỗi tỉnh nhà

RỪNG CHIỀU
Từng b­ước theo  mây đến đỉnh đèo
Cúi mình ngó xuống giữa trong veo
Đôi dòng suối nhỏ dăng dăng chảy
Một vạt rừng non cuộn cuộn reo
Lấp loáng trên mây tung bọt trắng
Gập ghềnh dưới đá phủ xanh rêu
Hoang sơ cõi ấy kìa ai tạo
Để khách bâng khuâng giữa cảnh chiều

QUA BÃI KHÁCH XƯA
Mỗi ngày một trạm đã đi qua
Rừng rậm toàn cây chẳng có nhà
Võng vải treo lên đu bổng tít
Hoàng Cầm thắp đỏ khói luồn xa
Gió Lào thốc xuống ròn lưng áo
Sương muối trùm lên trắng mặt ga
Bãi cũ chiều nay không có khách
Lờ mờ dọc suối lối chân qua

GẶP ĐƯỜNG DÂY CŨ
Lối cũ không ai đến đã lâu
Còn đây bãi khách buổi ban đầu
Rêu xưa cố bám bờ đen xám
Bọt mới tan theo sóng đỏ ngầu
Hiu hắt lều hoang đôi cột võng
Trơ vơ bến vắng một chân cầu
Đường dây vẫn đó người không tới
Bên góc rừng thưa gợi khúc sầu

HÀO KHÍ ĐÔNG A
Chỉ thấy đay xanh kín bãi bồi
Bình Than ẩn bóng mé sông đôi
Bến xưa trống trận rung bao nhịp
Đền mới chuông trưa điểm mấy hồi
Nào thuở gươm thề nung thép chảy
Đâu thời hịch gọi cháy dầu sôi
Con đò cắt sóng qua dòng Cái
Hào khí Đông A lộng gió trời.

GỖ KHẢM LIÊN HÀ
Lưu truyền vốn cổ tự ông cha
Khảm tỉa soi châm vẫn nếp nhà
Rồng cuốn hổ nằm thâm sắc gụ
Công xoè phượng múa đỏ vân hoa
Mắt thầy khéo tạo hình muông thú
Tay thợ quen đưa nét kỷ hà
Chợt thấy hồn thơ trong thớ gỗ
Lung linh huyền ảo xứ Liên Hà

TRỞ LẠI CỔ LOA
Mấy chục năm rồi mải đó đây
Xuân nay về lại với nơi này
Thành x­ưa chặn giặc đang còn dấu
Giếng cũ gieo châu nước vẫn đầy
Chợ chẳng vơi đi mùa trám chín
Đền càng đầy chặt khói hương bay
Nỏ thần ngày ấy đi đâu mất
Để những hòn tên rỉ bám đầy

VẠN LÝ TRƯỜNG THÀNH 
Vạn lý non sông vạn lý thành
Vồng lên dốc xuống lượn vòng quanh
Chon von đỉnh núi làn mây trắng
Bát ngát chân trời thảm cỏ xanh
Thảng thốt lòng khe con nước chảy
Bâng khuâng bậc đá mái đồn canh
Mang mang khí trận dường chưa tạnh
Xe cá về kinh gió vẫn tanh

HOA THU
Vư­ờn ai cháy sáng giữa heo may
Khóm cúc vàng tươi nở đắm say
Thấp thoáng bầy ong đu dưới lá
Chập chờn đàn b­ướm lượn trong cây
Hư­ơng buồn mới thả tan vào gió
Màu nhớ vừa pha quyện dưới mây
Gợi nỗi cô đơn chiều vắng lạnh
Hoa thu người gửi vẫn còn đây.

CẢM THU
(Hoạ bài buồn thu)
Chiều quê nhè nhẹ toả hương may
Đôi chén sầu đong lắc chẳng đầy
Mái lá đáy hồ thoi thóp ngủ
Mảnh đò trên bãi lặng yên say
Đất trời vẫn cứ còn nguyên thế
Gió cát nào đâu đã đổi thay
Chẳng biết hôm nao vàng trút sạch
Để mầm xanh mới nảy nơi đây

ĐÊM THU
Bên trời vàng ủng ánh trăng suông
Từng đợt heo may gõ cửa buồng
Loáng thoáng trại xa đôi tiếng gáy
Chập chờn chùa cũ một hồi chuông
Thương con vạc trắng còn chưa ngủ
Giận lũ chim non đã động chuồng
Năm tháng mải mê chừng đã mỏi
Đêm thu dài rộng trải trên giường. 

HOÀNG HÔN TRÊN SÔNG
 (Bến Triều hè Đinh Hợi)
Hoàng hôn đã tắt cuối triền sông
Những chiếc sà lan chạy giữa dòng
Mấy khúc cuộn mình ôm sóng cả
Một đầu gầm rú vỡ thinh không
Giang sơn mấy độ qua chinh chiến
Đất nước từng phen đổ máu hồng
Muôn cuộc qua rồi không trở lại
Ngàn sau còn đó giữa mênh mông

BIẾT ĐÂU SỐ PHẬN
Nếu biết ta mình chẳng có duyên
Thì thôi đành vậy cố mà quên
Cúc vàng rời khỏi đồi Hoàng Cúc
Sen trắng quay về bến Bạch Liên
Buồn đó đợi qua kỳ cách biệt
Vui đây chờ đến lúc đoàn viên
Biết đâu số phận bày ra thử
Cố gắng kiên trì sự  mới nên

CẢM XÚC SAO ĐỎ
(Hoạ thơ Nguyễn Tam Kỳ)
Thị trấn thanh xuân mới buổi nào
Thời gian thấm thoắt có là bao
Bước chân đi tới đường thêm rộng
ánh mắt nhìn sang phố đã cao
Chợ mới hàng lên dòng cuộn chảy
Trường vui trẻ đến sóng sôi ào
Ba mươi năm ấy miền quê núi

Rực cháy huy hoàng một ánh sao.

TÌM HIỂU VỀ THƠ ĐƯỜNG LUẬT (PHẦN II)

b) Niêm


Niêm trong thơ Đường luật chỉ sự kết dính của các câu theo một quy tắc bắt buộc. Niêm xác định bởi từ thứ 2 của các câu theo thể thức từng cặp giống nhau cùng bằng hoặc cùng trắc.

- Trong thơ tứ tuyệt niêm là sự kết nối giống nhau cùng bằng hoặc cùng trắc các từ thứ 2 của các cặp câu: 1-4; 2- .

- Trong thơ thất ngôn bát cú niêm là sự kết nối giống nhau cùng bằng hoặc cùng trắc các từ thứ 2 của các cặp câu: 1-8; 2- ; 4-5; 6-7.




         Ví dụ:   

                  Sáu mươi
                  (Lê Trọng Hồng)
           
Sáu
mươi
lặng lẽ bước đường xa
Thoắt
cái
thời gian đã đến già
Khúc
hát
xông pha chưa kịp dứt
Bài
thơ
chiêm nghiệm mới vừa ra
Vườn
Xuân
 cứ hẹn kêu đi tới
Ngõ
Trúc
khi cần đón lại qua
Muôn
sự
ngoài đời không vướng bận
Đôi
dòng
thi phú một hồn ta.



            Cặp 1-8 cùng bằng (mươi / dòng); cặp 2-3 cùng trắc (cái / hát); cặp 4-5 cùng bằng (thơ / xuân); cặp 6-7 cùng trắc (trúc / sự)

c) Giản hoá về luật

            Cả 4 sơ đồ trên nếu thực hiện đúng cả thì rất tốt. Tuy vậy trong thực hành chỉ cần giữ đúng bằng trắc với các từ ở cột 2, 4, 6 là được (đương nhiên cột 7 là cột gieo vần thì phải tuân thủ đúng). Với gợi ý này các cụ ta xưa nói: “Nhất, tam, ngũ bất luận - Nhị, tứ, lục phân minh” là thế.

d) Kiểm tra nhanh Niêm và Luật của bài thơ

Khi đã quen thuộc với thơ Đường luật thì ít khi người làm thơ bị sai về niêm, luật. Nhưng khi mới làm thì không thể tránh được sự sai sót này. Để cho dễ nhớ chỉ cần chú ý kiểm tra các điểm sau:

1- Kiểm tra về luật
- Từ  thứ  2 và thứ 6 trong câu bao giờ cũng cùng bằng hoặc cùng trắc. 
- Từ thứ 4 trong câu ngược lại với từ 2 và 6.

      2- Kiểm tra về niêm
            - Từ thứ 2 của các câu trong bài cùng bằng hoặc cùng trắc theo từng cặp một trong đó gồm: 1-8; 2-3; 4-5; 6-7.
                               
                         đ- Về sự lặp lại của các từ
            Người làm thơ Đường luật luôn cho rằng 28 từ trong bài thơ tứ tuyệt hay 56 từ trong bài thất ngôn bát cú là những viên ngọc. Mỗi viên có sắc thái của nó trong cái hộp ngọc ấy. Nếu vì một điều gì đó không cần thiết mà phải lặp lại thì lấy làm tiếc cho sự thiếu vắng của viên ngọc đó. Vì thế nếu không cần sự nhấn mạnh hoặc tôn vinh một điều gì thì không nên lặp lại các từ trong bài.
            Tuy nhiên việc lặp lại nhiều lần một vài từ đôi khi xuất phát từ một chủ ý nào đó mà tác giả muốn gửi đến độc giả. Dưới đây là một ví dụ lặp lại từ. Nếu tách 2 từ xuân ở hai câu đề, còn lại có đến 14 từ xuân đối với 14 từ tết.

            Ví dụ:

 Khai bút khai xuân 
     (Thơ mời hoạ)

Chào xuân khai bút viết thơ xuân
Mời bạn gần xa hoạ mấy vần
Xuân đến, xuân sang, xuân gặp tết
Tết về, tết lại, tết tìm xuân
Xuân thêm một tuổi xuân chờ tết
Tết tới một năm tết đợi xuân
Xuân! Tết! Xuân xuân! Xuân tết tết
Tết! Xuân! Tết tết! Tết xuân xuân.  

Tuy nhiên trong một bài ta cũng nên có 28 từ bằng và 28 từ trắc. Nếu có khoan hoãn thì cũng giữ lấy tỉ lệ 27/29 thì bài thơ sẽ hay hơn.

       e- Về việc sử dụng hư từ

            Những người làm thơ giỏi khuyên ta nên sử dụng biện pháp tu từ và dùng cách tả thực hoặc diễn thực ý, lời để bài thơ sinh động, tránh dùng những hư từ như thì, mà, là, cũng, đã, vì, với, vẫn vv... trong thơ. Tuy nhiên nếu sử dụng hư từ khéo thì vẫn có hiệu quả đáng kể.         

Ví dụ:


...Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ
Cái giá khoa danh thế mới hời...

           (Vịnh tiến sĩ giấy - Nguyễn Khuyến)


Sao mà và thế mới trong Vịnh tiến sĩ giấy chính là những hư từ, những hư từ trên đây dùng quả là khéo.


      g- Một vài dạng thơ Đường luật đặc biệt


            Ngoài những quy tắc về luật và vần nói trên, những người chơi thơ Đường luật còn sáng tạo ra khá nhiều kiểu đặc biệt. Đã có nhiều tác giả giới thiệu đến 99 cách chơi thơ Đường luật. Dưới đây là một vài ví dụ để tham khảo.
            Một trong những cách đó là kiểu Thuận nghịch đọc, với kiểu bài này thì làm 1 mà hoá 2; thực chất đây là 2 bài thơ riêng biệt

Thuận nghịch đọc
(Đọc ngược từ dưới lên)

Bến nhớ
 (Xuân Nghiệp)

Hoa đùa nắng sớm gió đưa hương
Nhớ bến cho tình chút vấn vương
Nhoà lệ ướt mi hàng liễu rủ
Bước chân nghiêng nón bóng người thương
Xa mờ khói thẳm mây vờn núi
Giá lạnh thân cò cánh đợ sương
Tha thiết bến tình sông gợn sóng
Tà dương ánh ngả bóng lồng gương

    Thủ nhất thanh
(Dùng một từ cho đầu câu)

            Thủ nhất thanh là bài thơ có một từ duy nhất đứng đầu mỗi câu, như bài Nợ dưới đây. Những bài này mang hình thức chơi thơ là chính.

          Nợ
  (Lê Trọng Hồng)

Nợ trời, nợ đất, nợ non sông
Nợ khắp muôn người thật rõ đông
Nợ mẹ, nợ cha miền dưỡng dục
Nợ chồng, nợ vợ cuộc đời chung
Nợ thầy, nợ bạn ơn đào luyện
Nợ xóm, nợ làng lúc góp công
Nợ cõi trần gian ngày sống gửi
Nợ đời chừng ấy biết hay không.
                               
         Khoán thủ thi
         (Đầu câu viết theo một câu định trước)

     Đây là dạng thơ dùng các từ ở đề làm từ đầu cho từng câu một của bài thơ

Đường thi thắp sáng mở hội núi sông 
 (Lê Trọng Hồng)   
                                                                                                   
Đường luật bung ra khắp mọi miền
Thi đàn dìu dặt cuộc giao duyên
Thắp đèn mơ đến miền kim cổ
Sáng bút soi vào cõi thánh tiên
Mở lối muôn nơi gieo tứ mới
Hội về mọi ngả nối vần lên
Núi Nùng lưu dấu nền văn hiến
Sông Nhị khơi dòng toả rộng thêm

                  Tiệt hạ
 (Đã đủ vận nhưng ý còn bỏ lửng)

Đây là dạng thơ không nói hết ý của các câu nhưng thực tế khi đọc lên dường như mọi người đều đã hiểu cả

Hư danh
(Lê Trọng Hồng)

Ngộ tý văn chương đã tưởng là...
Cố công học hỏi để cho ra...
Nào hay vừa đó người rằng sắp...
Biết vậy hôm xưa tớ chẳng thà...
Trót đã theo đòi nên cũng phải...
Thôi thì níu bám để cho qua...
Cũng vì sĩ diện xui nên cảnh...
Vì cái hư danh đến nỗi mà...

4- Tìm hiểu về cách dùng từ ngữ trong thơ Đường

      a) Chiết tự
            Đây là cách triết tự trong thơ chữ Hán. Ghép từng phần của chữ để chỉ sự việc)

Ví dụ:

Duyên thiên chưa thấy nhô đầu trọc
Phận liễu sao đà nảy nét ngang
Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa
Mảnh tình một khối thiếp xin mang...
     
        (Không chồng mà chửa - Hồ Xuân Hương)

            Chữ Thiên () kéo dài đầu lên thành chữ () Phu / chồng, đây chỉ sự chưa có chồng. Chữ Liễu () nếu có nét ngang thành ra chữ () tử / con, đây chỉ sự đã có con.

            Nhớ chửa là câu hỏi nhưng lại chỉ người phụ nữ có chửa, xin mang là câu chỉ sự chấp nhận nhưng lại chỉ sự mang thai .


b) Tránh khổ độc
            Một số bài thơ làm theo tiêu chí (nhị, tứ, lục phân minh) nhưng khi áp dụng (nhất, tam, ngũ bất luận) lại để từ thứ 5 (ngũ) và thứ 7 (thất) cùng bằng hoặc cùng trắc (nói rõ hơn là từ cuối câu cùng bằng hoặc cùng trắc) dẫn đến câu thơ khi đọc lên thấy cộc và không êm tai, những trường hợp này gọi là khổ độc cần chú ý tránh  phạm phải như ví dụ dưới đây.

            Ví dụ 1:


- Từ 5 (Về), từ 7 (Mai) câu 1 dưới đây đều cùng bằng (hoặc cả 3 từ cuối (về Thanh Mai) cùng bằng).

Vui chân theo bạn về Thanh Mai
Mới thấy đường đi cũng chẳng dài


- Thay Đến (trắc) vào Về (bằng), ta có từ 5 trắc và từ 7 bằng, câu thơ đọc lên sẽ êm hơn.

Vui chân theo bạn Đến Thanh Mai
Mới thấy đường đi cũng chẳng dài


            Ví dụ 2:

- Từ 5 (gọi), từ 7 (động) câu 1 dưới đây đều cùng trắc hoặc cả 3 từ cuối (gọi chẳng động) cùng trắc

Cánh cổng lầm lỳ GỌI chẳng động
Bờ tường ngất ngưởng KÊU không qua

- Thay KÊU vào GỌI của câu thơ trên, ta có từ 5 bằng và từ 7 trắc. Thay từ GỌI vào KÊU của câu thơ dưới, ta có từ 5 trắc và từ 7 bằng, đọc lên sẽ êm hơn.
            Cánh cổng lầm lỳ KÊU chẳng động
            Bờ tường ngất ngưởng GỌI không qua
     
c) Tránh quá mức cầu kỳ

            Vấn đề từ ngữ trong thơ Đường luật có rất nhiều kiến giả cho rằng cần phải lựa chọn kỹ, đó là sự tất yếu, tuy nhiên nếu quá chú trọng, khuôn phép thường làm mất đi cái giản dị, tự nhiên. Ngày nay đã thấy nhiều kiến giả cho rằng thơ Đường luật cũng nên sử dụng từ ngữ dung dị trong đời sống để bài thơ đỡ khô cứng mở rộng sự tiếp nhận của mọi tầng lớp trong xã hội.

5- Tìm hiểu về đầu đề bài thơ

            Thơ Đường luật rất coi trọng đầu đề. Đầu đề bài thơ chỉ rõ thực chất bài thơ nói về cái gì, có như thế độc giả mới có thể hiểu được ý tứ của tác giả. Đầu đề bài thơ Đường luật của các cụ ta xưa luôn ngắn gọn và cô đọng. Sức biểu đạt của đầu đề rất đặc trưng và không kém phần gợi cảm. Dưới đây xin dẫn bài Thiếu nữ đi tu của cụ Tú Xương cho nội dung tìm hiểu thơ Đường tiếp theo

6- Tìm hiểu về hai câu đề của bài thơ

Trong thơ thất ngôn bát cú hai câu đầu được xác định là một cặp đề. Đây là những câu mở đầu của một bài thơ Đường luật làm rõ thêm cho chủ đề bài thơ.

Ví dụ: Hai câu đề trong Thiếu nữ đi tu của Tú Xương

Con gái nhà ai dáng thị thành
Cớ sao nỡ phụ cái xuân xanh

            Câu 1 gọi là phá đề “Con gái nhà ai dáng thị thành” với chức năng giới thiệu mở đầu. Câu 2 gọi là thừa đề “Cớ sao nỡ phụ cái xuân xanh” với chức năng mở rộng và làm sáng tỏ thêm

7- Tìm hiểu về hai câu thực của bài thơ

            Hai câu 3 và 4 là hai câu thực. Hai câu này nêu lên những hình ảnh, sự việc, trạng thái đã có, đã nhìn, nghe hoặc cảm nhận được, làm chứng cớ cho những điều ta sẽ bàn luận đến và rồi phổ vào đó cái nhận định, cái chủ ý mà ta muốn mọi người cùng hiểu với ta. Hai câu thực phải có cấu trúc là một cặp đối chọi với nhau. 

            Ví dụ: Hai câu thực trong Thiếu nữ đi tu của Tú Xương

Nhạt màu son phấn say màu đạo
Mở cánh từ bi khép cánh tình


8- Tìm hiểu về hai câu luận trong thơ Đường luật

            Hai câu 5 và 6 là hai câu luận. Hai câu này nói rõ những nhận định của ta về cái mà 2 câu đề và 2 câu thực của bài thơ vừa mới tạo ra. Hai câu luận cũng là một cặp đối thứ 2 trong bài thơ. Luận là phần quan trọng trong cấu tứ bài thơ. Nếu bài thơ không có luận thì người ta không biết bấu víu vào đâu để mà hiểu tác giả nữa.
            Nói như vậy thì một số bài thơ Đường có ý trốn luận có lẽ không còn tứ nữa? Hoàn toàn không phải như thế vì cho dù có trốn luận thì hai câu ấy vẫn hiện diện. Nó có thể là hai câu thực nữa và cặp thực thứ hai này chồng chận lên cặp thực trước nó. Như thế thì cái luận đã xuất hiện rồi, xuất hiện bằng sự nhấn mạnh vậy. Tuy nhiên luận rõ, luận sắc sảo, luận hay vẫn là điều không thể thiếu.

            Ví dụ: Hai câu luận trong Thiếu nữ đi tu của Tú Xương

Miệng đọc nam vô quên chín chữ
Tay lần tràng hạt phụ ba sinh

            Hai từ (quên) và (phụ) chính là ý kiến tác giả phê phán về cái sự đi tu của cô gái nọ chính là cái sự quên báo hiếu, phụ công cha mẹ sinh thành. Luận rõ và rất cụ thể.

9- Tìm hiểu về hai câu kết trong thơ Đường luật

Gọi là kết có nghĩa là cuối của một vấn đề. Tại điểm đó người ta chờ đợi một nhận định cụ thể sau sự phô diễn của ba cặp đề, thực và luận trên kia. Kết hoàn toàn là sự khảng định lại những gì mà ta đã bàn luận trước đó. Kết có thể nói rõ hơn ra cái sự nhận định của tác giả và cái đích của bài thơ đã rõ.
Tuy nhiên một số cặp kết của nhiều tác giả lại không tỏ quan điểm của tác giả mà chỉ là sự gợi mở dành cho người đọc tự kết luận lấy. Những bài thơ có tầm vóc là những bài cho đến cuối cùng tác giả vẫn còn để lại một khoảng để độc giả cùng suy ngẫm, cùng tưởng tượng và cùng sáng tạo. Nghĩa là bài thơ có chủ đề tư tưởng thật rộng, ai đọc nó cũng thấy có cái bản ngã trong đó. Bài thơ không còn của riêng ai và cũng không còn là của tác giả nữa. Khái niệm sáng tác và tác giả mờ dần đi để sản phẩm trở thành tài sản trí tuệ vô giá, tồn tại đến muôn đời.
            Ví dụ: Hai câu kết trong Thiếu nữ đi tu của Tú Xương

Tiếc thay thục nữ hồng nhan thế
Nỡ cạo đầu thề với quyển kinh

Đến cuối cùng thì tác giả đã chỉ ra rằng một cô gái xuân xanh hơ hớ như thế sao lại nỡ phụ công cha mẹ để đi tu và điều đó thật đáng tiếc, đáng trách. Một cái kết mở rõ và cũng rất cụ thể.

10- Tìm hiểu về đối trong thơ đường luật

Đối trong thơ Đường luật được thực hiện ở cặp thực và cặp luận. Đối còn có thể thực hiện ở cặp đề nếu bài thơ trốn vận (nghĩa là câu đầu không vần với câu 2 và vần của toàn bài). Đối cũng có thể thực hiện ở cả cặp kết của bài thơ.
Đối được chú trọng cả về thanh và ý, thanh biểu hiện ở bằng đối với trắc, ý thì phải phù hợp với quan niệm phổ biến trong cộng đồng về đối chọi và sự chuẩn xác không thể cốt đối mà chẳng có ý nghĩa gì theo kiểu: “Thần nông... đối với thánh sâu...”. Cũng cần tránh hiện tượng trùng phức, rõ là hai câu nhưng lại chỉ có một ý, nói đơn giản là bệnh “nứa bổ” dùng ý câu trên trùng lặp với ý câu dưới. Tóm lại đối là đặc trưng của thơ Đường luật. Nếu không đối thì không thể gọi là thơ Đường luật. Tuy nhiên giữa thanh và ý thì nên hy sinh thanh để giữ ý.

a) Công đối

Đối thật hoàn chỉnh ta gọi là công đối, trường hợp này yêu cầu rất chặt chẽ, thậm chí từng từ của vế dưới đối với từng từ của vế trên. Trong đối còn yêu cầu từ thuần Việt đối với từ thuần Việt, từ Hán Việt đối với từ Hán Việt, thực từ đối với thực từ, hư từ đối với hư từ, danh từ đối với danh từ, động từ đối với động từ, tính từ đối với tính từ vv...
Theo Nguyễn Sĩ Đại, trong “Một số đặc trưng nghệ thuật của thơ tứ tuyệt đời Đường” thì ngay danh từ thôi cũng phải đối với danh từ thích hợp. Về thiên văn thì (nhật nguyệt đối với phong vân); về địa lý thì (sơn thuỷ đối với giang hà); về cung thất thì (lâu đài đối môn hộ); về văn cụ thì (bút đối với nghiên); về nhân sự thì (đạo đức đối với tài tình); về văn học thì (thi và phú); về thảo mộc thì (đào và lý); về ẩm thực thì (trà và tửu) vv...Theo Hoài Yên trong “Học nhanh luật thơ Đường” nói về phép đối ngẫu đời Đường thì có đến 16 cách đối, trong đó 8 cách đối về nội dung và 8 cách đối về hình thức... Quả là hơi khó, nhưng có khó mới phải tìm hiểu.

Dưới đây là một số ví dụ về đối trong thơ Đường luật

Hà Thành xuân đến/ còn phong  kín
Văn Miếu thơ về/ chợt mở  toang
                                         
       (Cả nước phang - Lê Trọng Hồng)


Vườn hồng/ tráng nắng/ hương còn nức
Lối cỏ/ mù sương/ lệ vẫn đầm

                (Nghe đàn - Lê Trọng Hồng)

Tiếng chim/ sau núi/ lưa thưa hót
Bông gạo/ trên cành/ lặng lẽ rơi
Ánh nắng/ chiều vàng/ đang tụ lại
Vầng trăng/ đêm trắng/ sắp chia phôi

         (Cuối xuân cảm tác - Lê Trọng Hồng)

Một duyên/ hai nợ/ âu đành phận
Năm nắng/ mười mưa/ dám quản công

                    (Thương vợ - Trần Tế Xương)


Xuyên hoa giáp điệp thâm thâm hiện
Điểm thuỷ thanh đình khoản khoản phi
                                       
               (Khúc giang nhị thủ -  Đỗ Phủ)

Trong đối còn có nhiều cách khác nữa, trong đó: Tiểu đối, tá đối, lưu thuỷ đối vv...


b) Tiểu đối (còn gọi là tự đối)

Ví dụ:

Phong kiều dạ bạc
 (Trương Kế)

Nguyệt lạc / ô đề / sương mãn thiên
Giang phong / ngư hoả / đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán trung thanh đáo khách thuyền 


Hồi hương ngẫu thư
 (Hạ Tri Chương)

Thiếu tiểu ly gia / lão đại hồi
Hương âm vô cải / mấn mao tồi
Nhi đồng tương kiến bất tương thức
Tiếu vấn khách tòng hà xứ lai

Tiểu đối là đối ngay trong câu; ý sau đối với ý trước. Trong câu có thể có 2 hoặc 3 vế tự đối như hai bài ví dụ trên.

c) Lưu thuỷ đối

Lưu thuỷ đối biểu hiện ở câu trên nói chưa hết ý lập thành một vế đối, câu dưới tương phản và chuyển tiếp ý lập thành vế đối thứ hai.

            Ví dụ:

            Vế trên nói về một sự việc, còn vế dưới đối với vế trên, nhưng lại là sự chuyển tiếp ý của vế trên.

     Nhất nhật tại tù
     Thiên thu tại ngoại

                 (Nhật ký trong tù -Thơ Nguyễn Ái Quốc)
     
      Đã sinh ra ở trong trời đất
      Phải có danh gì với núi sông

                          (Thơ Nguyễn công Trứ)

       d) Tá đối       
                                                 
Tá đối là dùng những từ có nhiều nghĩa, khi biểu đạt thì dùng một nghĩa, khi đối thì dùng nghĩa khác của từ đó để đối với nhau.

Ví dụ 1:

Cúc vàng rời khỏi đồi Hoàng Cúc
Sen trắng quay về bến Bạch Liên
Nắng hạ, mưa thu đành cách biệt
Người về, ta đến khó đoàn viên
           (Biết đâu số phận- Trọng Hồng)

đ) Khoan đối                   
                                                     
Cũng có những bài thơ có các cặp đối không chỉnh hoặc không đối, đó là những trường hợp ta gọi là khoan đối. Khoan đối áp dụng cho những bài thơ có cấu tứ đặc sắc, tính tư tưởng, tính nghệ thuật cao, làm cho số đông người đọc thấy xúc động. Vì vậy người làm thơ hãy cứ để cho tâm hồn bay bổng, đừng vì chấp nhất về bất cứ điều gì làm cho bài thơ khô cứng và nhàm chán.

      Ví dụ:

Cánh sóng lăn tăn vờn cuối bãi
Làn mây hờ hững níu tầng không
                   (Về quê - Lê Trọng Hồng)

            Rõ ràng lăn tăn chỉ sự chuyển động, còn hờ hững chỉ tính cách. Cũng như trên từ cuối bãi đúng là chỉ vị trí cụ thể còn tầng không  thì không. Có vẻ như đối đấy nhưng chỉnh thì chưa.
            Tuy nhiên cũng đã có người dùng từ lăn tăn để nói về sự phân vân theo cách nói lóng, như vậy thì nó cũng đã chỉ tính cách đấy chứ (?)

11- Về xướng hoạ trong thơ Đường luật

Xướng hoạ trong thơ Đường luật là việc dựa vào một một bài thơ khởi đầu của một người nào đó gọi là bài thơ xướng để viết một bài thơ khác hoạ lại bài thơ khởi đầu đó. Với cách làm này, những người làm thơ có thể tiếp xúc, đồng cảm, gần gũi với nhau hơn. Những bài hoạ có thể theo cùng chủ đề của bài xướng, nhưng cũng có thể theo một chủ đề khác, như vậy gọi là hoạ nương vần (hoạ bộ vận), điều đó hoàn toàn có thể được. Tuy nhiên nhất định không để từ thứ 6 (từ áp vận) của các câu bài hoạ lặp lại từ thứ 6 của các câu bài xướng.
Về hình thức hoạ có thể dựa hoàn toàn vào vần và trật tự các vần của bài xướng, hoặc chỉ dùng một số vần và thay đổi trật tự của tất cả các vần như nhiều cách dưới đây. Về phía bài xướng cần phải lưu ý đến sự thanh thoát, giầu xúc cảm về nội dung và hết sức tránh  các dạng bài có hình thức quá phức tạp cùng với các vần quá hiểm, quá khó tìm thì mới mong có được nhiều bài hoạ của mọi người.

a- Hoạ nguyên vần

Hoạ nguyên vần là bài hoạ phải theo sát chủ đề, giữ nguyên vần và xếp vần theo đúng thứ tự vần của bài xướng.

Ví dụ:

            Với các vần: dân, dần, thân, thuần, dân trong bài Phó thường dân dưới đây


Phó thường dân
   (Bài xướng)

Từ ngày trở lại phó thường dân
Mọi sự đua chen cũng nhạt dần
Sáng đến đôi trang tăng trí não
Chiều về mấy chưởng giúp rèn thân
Cơm rau dưa giá thanh mà ngọt
Áo sợi bông tơ mát lại thuần
Phú quý mặc ai nơi huyện sở
Một mình vui cảnh phó thường dân

            Với các vần: dân, dần, thân, thuần, dân trong bài Với bình  dân dưới đây

  Với bình dân
 (Hoạ bài Phó thường dân)

Người nào chẳng ở chốn bình dân
Cố nhớ đừng quên mất gốc dần
Phú quý quen mùi chừng khó bỏ
Nghèo hèn tập mãi chửa nên thân
Thẳng ngay, bộc trực, danh càng đẹp
Bình dị, thanh cao, tính cũng thuần
Cái sự làm mình ra khác lạ
Sao bằng trở lại với bình dân

 b- Hoạ ngược vần (nghịch vận)

Hoạ ngược vần là bài hoạ giữ nguyên vần của bài xướng nhưng xếp vần theo thứ tự từ cuối ngược lên đầu

Ví dụ:

 Với các vần: thơ, giờ, sơ, chờ, thơ và ngược lại: thơ, chờ, sơ, giờ, thơ trong 2 bài thơ dưới đây

Gặp bạn thơ
   (Bài xướng)

Bao năm mới gặp bạn yêu thơ
Cả nước về vui suốt mấy giờ
Chẳng kể trẻ già cùng lớn bé
Cần gì cũ mới với thân 
Chia tay ngày ấy đành xa cách
Họp mặt hôm nay luống đợi chờ
Mấy thuở cuộc đời ta được vậy
Nỗi niềm xúc cảm gửi vào thơ


 Chia cách
                     (Hoạ bài Gặp bạn thơ)

Mấy dòng giã biệt chép thành thơ
Tặng lại cho ai vẫn đứng chờ
Tiếc bởi tiễn đưa đầy quý mến 
Trách vì chào đón quá đơn sơ
Vui khi thân mật chiều nay vậy
Buồn lúc chưa quen buổi bấy giờ
Chia cách đã gần trong chốc lát
Mấy dòng giã biệt chép thành thơ


c- Hoạ đảo vần

Hoạ đảo vần là bài hoạ giữ nguyên vần của bài xướng nhưng có thể đảo thứ tự trên xuống dưới hoặc dưới lên trên một vài vần của bài xướng


Thắp lửa xong rồi gắng chủ tr­ương
     (Hoạ thơ Nguyễn Văn Liêm)

Chẵn chục năm theo với luật Đ­ường
€Kinh Thầy bóng n­ước đã thơm hư­ơng
Ý tình nhã nhặn vang muôn nẻo
Cấu tứ thanh tao vọng bốn ph­ương
Mỗi chữ chuốt chau chừng đã khéo
Từng câu giản dị vốn không thư­ờng
Nhân về dự hội đôi lời chúc
Thắp lửa xong rồi gắng chủ tr­ương

                                             
Gửi về Nam Sách vạn yêu thương
(Hoạ thông, thơ Nguyễn Văn Liêm và Trần Thế Mẫn)

Mười năm bền chí với thơ Đường
Bóng nước Kinh Thầy thắm sắc hương
Đạo cốt thanh tao lời thánh thiện
Ý tình nhuần nhã dáng phong sương
Nhân văn phẩm hạnh vừa khai mở
Trí lực tâm tư đã khác thường
Một áng thơ mừng đầy ngưỡng mộ
Gửi về Nam Sách vạn yêu thương.
     
            - Bài Thắp lửa xong rồi gắng chủ trương với các vần: Đường, hương, phương, thường, trương.

            - Bài Gửi về Nam Sách vạn yêu thương với các vần: Đường, hương, sương, thường, thương.

            Hai bài trên được hoạ nguyên ý với các vần giống nhau:
            - Đường, hương, thường cùng vị trí và phương, trương, sương, thương ở các vị trí tuỳ ý.

d- Hoạ loạn vần

Hoạ loạn vần là bài hoạ giữ nguyên vần của bài xướng nhưng có thể thay đổi tuỳ ý vị trí của tất cả các vần. (xem ví dụ trên)

đ- Hoạ lựa vần

Hoạ lựa vần là bài hoạ chỉ dùng một vài vần của bài xướng, các vần còn lại có thể thay đổi tuỳ ý người hoạ (xem ví dụ trên)

e- Hoạ nối vần

Hoạ nối vần là bài hoạ dùng cả câu cuối và vần của bài xướng làm câu đầu và vần của bài hoạ.

      Ví dụ:
Giao thừa

Giao thừa vẫn vậy khác gì đâu
Đêm lạnh trăng không dạ nhuốm sầu
Kẻ đến dùng dằng mong nán lại
Ng­ười về tấp tểnh muốn qua mau
Ai giao ai nhận ai giao nhận
Ai đến ai về ai tiếp sau
Cái sự luân phiên không sở cứ
Giao thừa vẫn vậy khác gì đâu

Về hưu
(Hoạ bài Giao thừa)

Giao thừa vẫn vậy khác gì đâu
Đơn độc mình ta cạn chén sầu
Sáu chục mùa xuân sao thấy ngắn
Mấy mươi cái tết thật là mau
Về hưu đã hẳn ta qua trước
Ở lại đương nhiên bạn đến sau
Cõi thế xưa nay không chịu đổi
Giao thừa vẫn vậy khác gì đâu

            Hai bài trên được hoạ nguyên vần, câu cuối bài Giao thừa là câu đầu bài Về hưu. 

12. Đôi lời cuối sách

            Làm thơ vốn là công việc cả đời của những người theo nghiệp văn chương. Cũng giống như cầy cấy gieo trồng là công việc của người nông dân vậy. Cái sự làm thơ hay cầy cấy cho dù tài giỏi đến đâu thì cũng phải tìm tòi, phải học mới làm tốt được. Những ngưòi không hoàn toàn theo nghiệp văn chương nhưng lại yêu thơ và thích làm thơ nhưng chưa có nhiều thời gian đi sâu tìm hiểu cách thức làm thơ như bản thân tác giả thì đọc, viết và tìm hiểu luôn cho những kết quả tốt đẹp. Khi ta đi sâu nghiên cứu mới thấy nhiều cái ta còn nông cạn và thiếu hiểu biết dường bao.
            Viết được đôi điều trên ra giấy thực chất là sự cố gắng trong việc tìm đọc và xin vắng mặt nhiều kiến thức của các tác giả đã viết ra trước đó trong giáo khoa và trong các nghiên cứu đã được in thành sách. Trong đó còn có cả công sức của nhiều bậc đàn anh trong sự góp ý sửa chữa. Đáng quý hơn nữa là cho cả những sáng tác tâm huyết của mình để làm mẫu. Xin được trân trọng cảm ơn tất cả và mong sự thể tình cho những sai sót nếu có.
            Về phần nội dung của sách, cũng xin bày tỏ rằng với tinh thần hiểu thế nào thì viết thế ấy, ngõ hầu để mọi người góp ý. Mong sao một ngày không xa nữa có một tài liệu đơn giản, dễ hiểu và tốt hơn đóng góp vào các nghiên cứu về thơ Đường luật dùng cho mọi người
                                                                       Viết xong tháng 6 năm 2007
                                                                               Sửa lại tháng 11/2008