b)
Niêm
Niêm
trong thơ Đường luật chỉ sự kết dính của các câu theo một quy tắc bắt buộc.
Niêm xác định bởi từ thứ 2 của các câu theo thể thức từng cặp giống nhau cùng
bằng hoặc cùng trắc.
-
Trong thơ tứ tuyệt niêm là sự kết nối giống nhau cùng bằng hoặc cùng trắc các
từ thứ 2 của các cặp câu: 1-4; 2- .
-
Trong thơ thất ngôn bát cú niêm là sự kết nối giống nhau cùng bằng hoặc cùng
trắc các từ thứ 2 của các cặp câu: 1-8; 2- ; 4-5; 6-7.
Ví
dụ:
Sáu mươi
(Lê Trọng Hồng)
Sáu
|
mươi
|
lặng lẽ bước đường xa
|
Thoắt
|
cái
|
thời gian đã đến già
|
Khúc
|
hát
|
xông pha chưa kịp dứt
|
Bài
|
thơ
|
chiêm nghiệm mới vừa ra
|
Vườn
|
Xuân
|
cứ hẹn kêu đi tới
|
Ngõ
|
Trúc
|
khi cần đón lại qua
|
Muôn
|
sự
|
ngoài đời không vướng
bận
|
Đôi
|
dòng
|
thi phú một hồn ta.
|
Cặp
1-8 cùng bằng (mươi / dòng); cặp 2-3 cùng trắc (cái / hát); cặp 4-5 cùng bằng
(thơ / xuân); cặp 6-7 cùng trắc (trúc / sự)
c)
Giản hoá về luật
Cả
4 sơ đồ trên nếu thực hiện đúng cả thì rất tốt. Tuy vậy trong thực hành chỉ cần
giữ đúng bằng trắc với các từ ở cột 2, 4, 6 là được (đương nhiên cột 7 là cột
gieo vần thì phải tuân thủ đúng). Với gợi ý này các cụ ta xưa nói: “Nhất,
tam, ngũ bất luận - Nhị, tứ, lục phân minh” là thế.
d)
Kiểm tra nhanh Niêm và Luật của bài thơ
Khi
đã quen thuộc với thơ Đường luật thì ít khi người làm thơ bị sai về niêm, luật.
Nhưng khi mới làm thì không thể tránh được sự sai sót này. Để cho
dễ nhớ chỉ cần chú ý kiểm tra các điểm sau:
1-
Kiểm tra về luật
-
Từ thứ 2 và thứ 6 trong câu bao giờ cũng cùng bằng hoặc
cùng trắc.
- Từ thứ 4 trong câu
ngược lại với từ 2 và 6.
2-
Kiểm tra về niêm
-
Từ thứ 2 của các câu trong bài cùng bằng hoặc cùng trắc theo từng cặp một trong
đó gồm: 1-8; 2-3; 4-5; 6-7.
đ- Về sự lặp lại của các từ
Người
làm thơ Đường luật luôn cho rằng 28 từ trong bài thơ tứ tuyệt hay 56 từ trong
bài thất ngôn bát cú là những viên ngọc. Mỗi viên có sắc thái của nó trong cái
hộp ngọc ấy. Nếu vì một điều gì đó không cần thiết mà phải lặp lại thì lấy làm
tiếc cho sự thiếu vắng của viên ngọc đó. Vì thế nếu không cần sự nhấn mạnh hoặc
tôn vinh một điều gì thì không nên lặp lại các từ trong bài.
Tuy
nhiên việc lặp lại nhiều lần một vài từ đôi khi xuất phát từ một chủ ý nào đó
mà tác giả muốn gửi đến độc giả. Dưới đây là một ví dụ lặp lại từ. Nếu tách 2
từ xuân ở hai câu đề, còn lại có đến 14 từ xuân đối với 14 từ tết.
Ví
dụ:
Khai
bút khai xuân
(Thơ mời hoạ)
Chào xuân khai
bút viết thơ xuân
Mời
bạn gần xa hoạ mấy vần
Xuân
đến, xuân sang, xuân gặp tết
Tết
về, tết lại, tết tìm xuân
Xuân
thêm một tuổi xuân chờ tết
Tết
tới một năm tết đợi xuân
Xuân!
Tết! Xuân xuân! Xuân tết tết
Tết!
Xuân! Tết tết! Tết xuân xuân.
Tuy
nhiên trong một bài ta cũng nên có 28 từ bằng và 28 từ trắc. Nếu có khoan hoãn
thì cũng giữ lấy tỉ lệ 27/29 thì bài thơ sẽ hay hơn.
e-
Về việc sử dụng hư từ
Những
người làm thơ giỏi khuyên ta nên sử dụng biện pháp tu từ và dùng cách tả thực
hoặc diễn thực ý, lời để bài thơ sinh động, tránh dùng những hư từ như thì, mà,
là, cũng, đã, vì, với, vẫn vv... trong thơ. Tuy nhiên nếu sử dụng hư từ khéo
thì vẫn có hiệu quả đáng
kể.
Ví
dụ:
...Tấm
thân xiêm áo sao mà nhẹ
Cái
giá khoa danh thế mới hời...
(Vịnh tiến sĩ giấy - Nguyễn Khuyến)
Sao
mà và thế mới trong Vịnh tiến sĩ
giấy chính là những hư từ, những hư từ trên đây dùng quả là khéo.
g-
Một vài dạng thơ Đường luật đặc biệt
Ngoài
những quy tắc về luật và vần nói trên, những người chơi thơ Đường luật còn sáng
tạo ra khá nhiều kiểu đặc biệt. Đã có nhiều tác giả giới thiệu đến 99 cách chơi
thơ Đường luật. Dưới đây là một vài ví dụ để tham khảo.
Một
trong những cách đó là kiểu Thuận nghịch đọc, với kiểu bài này thì làm 1 mà hoá
2; thực chất đây là 2 bài thơ riêng biệt
Thuận nghịch đọc
(Đọc ngược từ dưới lên)
Bến nhớ
(Xuân Nghiệp)
Hoa
đùa nắng sớm gió đưa hương
Nhớ
bến cho tình chút vấn vương
Nhoà
lệ ướt mi hàng liễu rủ
Bước
chân nghiêng nón bóng người thương
Xa
mờ khói thẳm mây vờn núi
Giá
lạnh thân cò cánh đợ sương
Tha
thiết bến tình sông gợn sóng
Tà
dương ánh ngả bóng lồng gương
Thủ
nhất thanh
(Dùng
một từ cho đầu câu)
Thủ
nhất thanh là bài thơ có một từ duy nhất đứng đầu mỗi câu, như bài Nợ dưới đây.
Những bài này mang hình thức chơi thơ là chính.
Nợ
(Lê
Trọng Hồng)
Nợ trời,
nợ đất, nợ non sông
Nợ khắp
muôn người thật rõ đông
Nợ mẹ,
nợ cha miền dưỡng dục
Nợ chồng,
nợ vợ cuộc đời chung
Nợ thầy,
nợ bạn ơn đào luyện
Nợ xóm,
nợ làng lúc góp công
Nợ cõi
trần gian ngày sống gửi
Nợ đời
chừng ấy biết hay không.
Khoán
thủ thi
(Đầu câu viết theo một câu định trước)
Đây
là dạng thơ dùng các từ ở đề làm từ đầu cho từng câu một của bài thơ
Đường
thi thắp sáng mở hội núi sông
(Lê Trọng Hồng)
Đường luật
bung ra khắp mọi miền
Thi đàn
dìu dặt cuộc giao duyên
Thắp đèn
mơ đến miền kim cổ
Sáng bút
soi vào cõi thánh tiên
Mở lối
muôn nơi gieo tứ mới
Hội về
mọi ngả nối vần lên
Núi Nùng
lưu dấu nền văn hiến
Sông Nhị
khơi dòng toả rộng thêm
Tiệt
hạ
(Đã đủ vận nhưng ý
còn bỏ lửng)
Đây là dạng thơ không nói
hết ý của các câu nhưng thực tế khi đọc lên dường như mọi người đều đã
hiểu cả
Hư danh
(Lê
Trọng Hồng)
Ngộ
tý văn chương đã tưởng là...
Cố
công học hỏi để cho ra...
Nào
hay vừa đó người rằng sắp...
Biết
vậy hôm xưa tớ chẳng thà...
Trót
đã theo đòi nên cũng phải...
Thôi
thì níu bám để cho qua...
Cũng
vì sĩ diện xui nên cảnh...
Vì
cái hư danh đến nỗi mà...
4- Tìm hiểu về cách dùng
từ ngữ trong thơ Đường
a)
Chiết tự
Đây
là cách triết tự trong thơ chữ Hán. Ghép từng phần của chữ để chỉ sự việc)
Ví
dụ:
Duyên thiên chưa
thấy nhô đầu trọc
Phận liễu sao
đà nảy nét ngang
Cái nghĩa trăm
năm chàng nhớ chửa
Mảnh tình một
khối thiếp xin mang...
(Không
chồng mà chửa - Hồ Xuân Hương)
Chữ Thiên (天) kéo
dài đầu lên thành chữ (夫) Phu / chồng, đây chỉ sự chưa
có chồng. Chữ Liễu (了) nếu có nét
ngang thành ra chữ (子) tử / con, đây chỉ sự đã có
con.
Nhớ
chửa là câu hỏi nhưng lại chỉ người phụ nữ có chửa, xin mang là
câu chỉ sự chấp nhận nhưng lại chỉ sự mang thai .
b)
Tránh khổ độc
Một
số bài thơ làm theo tiêu chí (nhị, tứ, lục phân minh) nhưng khi áp dụng (nhất,
tam, ngũ bất luận) lại để từ thứ 5 (ngũ) và thứ 7 (thất) cùng bằng hoặc cùng
trắc (nói rõ hơn là từ cuối câu cùng bằng hoặc cùng trắc) dẫn đến câu thơ khi
đọc lên thấy cộc và không êm tai, những trường hợp này gọi là khổ độc cần chú ý
tránh phạm phải như ví dụ dưới đây.
Ví
dụ 1:
- Từ 5 (Về), từ 7 (Mai)
câu 1 dưới đây đều cùng bằng (hoặc cả 3 từ cuối (về Thanh Mai) cùng
bằng).
Vui
chân theo bạn về Thanh Mai
Mới
thấy đường đi cũng chẳng dài
- Thay Đến (trắc) vào Về
(bằng), ta có từ 5 trắc và từ 7 bằng, câu thơ đọc lên sẽ êm hơn.
Vui
chân theo bạn Đến Thanh Mai
Mới
thấy đường đi cũng chẳng dài
Ví
dụ 2:
- Từ 5 (gọi), từ 7 (động)
câu 1 dưới đây đều cùng trắc hoặc cả 3 từ cuối (gọi chẳng động) cùng
trắc
Cánh
cổng lầm lỳ GỌI chẳng động
Bờ
tường ngất ngưởng KÊU không qua
- Thay KÊU vào GỌI của
câu thơ trên, ta có từ 5 bằng và từ 7 trắc. Thay từ GỌI vào KÊU của câu thơ
dưới, ta có từ 5 trắc và từ 7 bằng, đọc lên sẽ êm hơn.
Cánh
cổng lầm lỳ KÊU chẳng động
Bờ
tường ngất ngưởng GỌI không qua
c)
Tránh quá mức cầu kỳ
Vấn
đề từ ngữ trong thơ Đường luật có rất nhiều kiến giả cho rằng cần phải lựa chọn
kỹ, đó là sự tất yếu, tuy nhiên nếu quá chú trọng, khuôn phép thường làm mất đi
cái giản dị, tự nhiên. Ngày nay đã thấy nhiều kiến giả cho rằng thơ Đường luật
cũng nên sử dụng từ ngữ dung dị trong đời sống để bài thơ đỡ khô cứng mở rộng
sự tiếp nhận của mọi tầng lớp trong xã hội.
5- Tìm
hiểu về đầu đề bài thơ
Thơ
Đường luật rất coi trọng đầu đề. Đầu đề bài thơ chỉ rõ thực chất bài thơ nói về
cái gì, có như thế độc giả mới có thể hiểu được ý tứ của tác giả. Đầu đề bài
thơ Đường luật của các cụ ta xưa luôn ngắn gọn và cô đọng. Sức biểu đạt của đầu
đề rất đặc trưng và không kém phần gợi cảm. Dưới đây xin dẫn bài Thiếu
nữ đi tu của cụ Tú Xương cho nội dung tìm hiểu thơ Đường tiếp theo
6- Tìm hiểu về hai câu đề
của bài thơ
Trong
thơ thất ngôn bát cú hai câu đầu được xác định là một cặp đề. Đây là những câu
mở đầu của một bài thơ Đường luật làm rõ thêm cho chủ đề bài thơ.
Ví
dụ: Hai câu đề trong Thiếu nữ đi tu của Tú Xương
Con gái nhà ai dáng thị
thành
Cớ sao nỡ phụ cái xuân
xanh
Câu
1 gọi là phá đề “Con gái nhà ai dáng thị thành” với chức năng giới
thiệu mở đầu. Câu 2 gọi là thừa đề “Cớ sao nỡ phụ cái xuân
xanh” với chức năng mở rộng và làm sáng tỏ thêm
7- Tìm hiểu về hai câu
thực của bài thơ
Hai
câu 3 và 4 là hai câu thực. Hai câu này nêu lên những hình ảnh, sự việc, trạng
thái đã có, đã nhìn, nghe hoặc cảm nhận được, làm chứng cớ cho những điều ta sẽ
bàn luận đến và rồi phổ vào đó cái nhận định, cái chủ ý mà ta muốn mọi người
cùng hiểu với ta. Hai câu thực phải có cấu trúc là một cặp đối chọi với
nhau.
Ví
dụ: Hai câu thực trong Thiếu nữ đi tu của Tú Xương
Nhạt màu son phấn say màu
đạo
Mở cánh từ bi khép cánh
tình
8- Tìm hiểu về hai câu
luận trong thơ Đường luật
Hai
câu 5 và 6 là hai câu luận. Hai câu này nói rõ những nhận định của ta về cái mà
2 câu đề và 2 câu thực của bài thơ vừa mới tạo ra. Hai câu luận cũng là một cặp
đối thứ 2 trong bài thơ. Luận là phần quan trọng trong cấu tứ bài thơ. Nếu bài
thơ không có luận thì người ta không biết bấu víu vào đâu để mà hiểu tác giả
nữa.
Nói
như vậy thì một số bài thơ Đường có ý trốn luận có lẽ không còn tứ nữa? Hoàn
toàn không phải như thế vì cho dù có trốn luận thì hai câu ấy vẫn hiện diện. Nó
có thể là hai câu thực nữa và cặp thực thứ hai này chồng chận lên cặp thực
trước nó. Như thế thì cái luận đã xuất hiện rồi, xuất hiện bằng sự nhấn mạnh
vậy. Tuy nhiên luận rõ, luận sắc sảo, luận hay vẫn là điều không thể thiếu.
Ví
dụ: Hai câu luận trong Thiếu nữ đi tu của Tú Xương
Miệng
đọc nam vô quên chín chữ
Tay lần tràng hạt phụ
ba sinh
Hai
từ (quên) và (phụ) chính là ý kiến tác giả phê phán về cái sự đi tu của cô gái
nọ chính là cái sự quên báo hiếu, phụ công cha mẹ sinh thành. Luận rõ và rất cụ
thể.
9- Tìm
hiểu về hai câu kết trong thơ Đường luật
Gọi
là kết có nghĩa là cuối của một vấn đề. Tại điểm đó người ta chờ đợi một nhận
định cụ thể sau sự phô diễn của ba cặp đề, thực và luận trên kia. Kết hoàn toàn
là sự khảng định lại những gì mà ta đã bàn luận trước đó. Kết có thể nói rõ hơn
ra cái sự nhận định của tác giả và cái đích của bài thơ đã rõ.
Tuy
nhiên một số cặp kết của nhiều tác giả lại không tỏ quan điểm của tác giả mà
chỉ là sự gợi mở dành cho người đọc tự kết luận lấy. Những bài thơ có tầm vóc
là những bài cho đến cuối cùng tác giả vẫn còn để lại một khoảng để độc giả
cùng suy ngẫm, cùng tưởng tượng và cùng sáng tạo. Nghĩa là bài thơ có chủ đề tư
tưởng thật rộng, ai đọc nó cũng thấy có cái bản ngã trong đó. Bài thơ không còn
của riêng ai và cũng không còn là của tác giả nữa. Khái niệm sáng tác và tác
giả mờ dần đi để sản phẩm trở thành tài sản trí tuệ vô giá, tồn tại đến muôn
đời.
Ví
dụ: Hai câu kết trong Thiếu nữ đi tu của Tú Xương
Tiếc
thay thục nữ hồng nhan thế
Nỡ
cạo đầu thề với quyển kinh
Đến
cuối cùng thì tác giả đã chỉ ra rằng một cô gái xuân xanh hơ hớ như thế sao lại
nỡ phụ công cha mẹ để đi tu và điều đó thật đáng tiếc, đáng trách. Một cái kết
mở rõ và cũng rất cụ thể.
10- Tìm
hiểu về đối trong thơ đường luật
Đối
trong thơ Đường luật được thực hiện ở cặp thực và cặp luận. Đối còn có thể thực
hiện ở cặp đề nếu bài thơ trốn vận (nghĩa là câu đầu không vần với câu 2 và vần
của toàn bài). Đối cũng có thể thực hiện ở cả cặp kết của bài thơ.
Đối
được chú trọng cả về thanh và ý, thanh biểu hiện ở bằng đối với trắc, ý thì
phải phù hợp với quan niệm phổ biến trong cộng đồng về đối chọi và sự chuẩn xác
không thể cốt đối mà chẳng có ý nghĩa gì theo kiểu: “Thần nông... đối
với thánh sâu...”. Cũng cần tránh hiện tượng trùng phức, rõ là hai câu
nhưng lại chỉ có một ý, nói đơn giản là bệnh “nứa bổ” dùng ý câu trên trùng lặp
với ý câu dưới. Tóm lại đối là đặc trưng của thơ Đường luật. Nếu không đối thì
không thể gọi là thơ Đường luật. Tuy nhiên giữa thanh và ý thì nên hy sinh thanh
để giữ ý.
a)
Công đối
Đối
thật hoàn chỉnh ta gọi là công đối, trường hợp này yêu cầu rất chặt chẽ, thậm
chí từng từ của vế dưới đối với từng từ của vế trên. Trong đối còn yêu cầu từ
thuần Việt đối với từ thuần Việt, từ Hán Việt đối với từ Hán Việt, thực từ đối
với thực từ, hư từ đối với hư từ, danh từ đối với danh từ, động từ đối với động
từ, tính từ đối với tính từ vv...
Theo
Nguyễn Sĩ Đại, trong “Một số đặc trưng nghệ thuật của thơ tứ tuyệt đời Đường”
thì ngay danh từ thôi cũng phải đối với danh từ thích hợp. Về thiên văn thì (nhật
nguyệt đối với phong vân); về địa lý thì (sơn thuỷ đối với giang hà);
về cung thất thì (lâu đài đối môn hộ); về văn cụ thì (bút đối với
nghiên); về nhân sự thì (đạo đức đối với tài tình); về văn học thì (thi
và phú); về thảo mộc thì (đào và lý); về ẩm thực thì (trà và tửu) vv...Theo
Hoài Yên trong “Học nhanh luật thơ Đường” nói về phép đối ngẫu đời Đường thì có
đến 16 cách đối, trong đó 8 cách đối về nội dung và 8 cách đối về hình thức...
Quả là hơi khó, nhưng có khó mới phải tìm hiểu.
Dưới đây là một số ví dụ
về đối trong thơ Đường luật
Hà
Thành xuân đến/ còn phong kín
Văn
Miếu thơ về/ chợt mở toang
(Cả
nước phang - Lê Trọng Hồng)
Vườn
hồng/ tráng nắng/ hương còn nức
Lối
cỏ/ mù sương/ lệ vẫn đầm
(Nghe đàn - Lê Trọng Hồng)
Tiếng
chim/ sau núi/ lưa thưa hót
Bông
gạo/ trên cành/ lặng lẽ rơi
Ánh
nắng/ chiều vàng/ đang tụ lại
Vầng
trăng/ đêm trắng/ sắp chia phôi
(Cuối xuân cảm tác - Lê Trọng Hồng)
Một duyên/ hai nợ/ âu đành phận
Năm nắng/ mười mưa/ dám quản công
(Thương
vợ - Trần Tế Xương)
Xuyên hoa giáp điệp thâm thâm hiện
Điểm thuỷ thanh đình khoản khoản phi
(Khúc
giang nhị thủ - Đỗ Phủ)
Trong
đối còn có nhiều cách khác nữa, trong đó: Tiểu đối, tá đối, lưu thuỷ đối vv...
b)
Tiểu đối (còn gọi là tự đối)
Ví
dụ:
Phong kiều dạ bạc
(Trương Kế)
Nguyệt
lạc / ô đề / sương mãn thiên
Giang
phong / ngư hoả / đối sầu miên
Cô
Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ
bán trung thanh đáo khách thuyền
Hồi hương ngẫu thư
(Hạ Tri Chương)
Thiếu
tiểu ly gia / lão đại hồi
Hương
âm vô cải / mấn mao tồi
Nhi
đồng tương kiến bất tương thức
Tiếu
vấn khách tòng hà xứ lai
Tiểu
đối là đối ngay trong câu; ý sau đối với ý trước. Trong câu có thể có 2 hoặc 3
vế tự đối như hai bài ví dụ trên.
c)
Lưu thuỷ đối
Lưu
thuỷ đối biểu hiện ở câu trên nói chưa hết ý lập thành một vế đối, câu dưới
tương phản và chuyển tiếp ý lập thành vế đối thứ hai.
Ví
dụ:
Vế
trên nói về một sự việc, còn vế dưới đối với vế trên, nhưng lại là sự chuyển
tiếp ý của vế trên.
Nhất
nhật tại tù
Thiên
thu tại ngoại
(Nhật
ký trong tù -Thơ Nguyễn Ái Quốc)
Đã
sinh ra ở trong trời đất
Phải
có danh gì với núi sông
(Thơ
Nguyễn công Trứ)
d)
Tá đối
Tá
đối là dùng những từ có nhiều nghĩa, khi biểu đạt thì dùng một nghĩa, khi đối
thì dùng nghĩa khác của từ đó để đối với nhau.
Ví dụ 1:
Cúc
vàng rời khỏi đồi Hoàng Cúc
Sen
trắng quay về bến Bạch Liên
Nắng
hạ, mưa thu đành cách biệt
Người
về, ta đến khó đoàn viên
(Biết
đâu số phận- Trọng Hồng)
đ)
Khoan đối
Cũng
có những bài thơ có các cặp đối không chỉnh hoặc không đối, đó là những trường
hợp ta gọi là khoan đối. Khoan đối áp dụng cho những bài thơ có cấu tứ đặc sắc,
tính tư tưởng, tính nghệ thuật cao, làm cho số đông người đọc thấy xúc động. Vì
vậy người làm thơ hãy cứ để cho tâm hồn bay bổng, đừng vì chấp nhất về bất cứ
điều gì làm cho bài thơ khô cứng và nhàm chán.
Ví
dụ:
Cánh
sóng lăn tăn vờn cuối bãi
Làn
mây hờ hững níu tầng không
(Về
quê - Lê Trọng Hồng)
Rõ
ràng lăn tăn chỉ sự chuyển động, còn hờ hững chỉ
tính cách. Cũng như trên từ cuối bãi đúng là chỉ vị trí cụ thể
còn tầng không thì không. Có vẻ như đối đấy nhưng chỉnh
thì chưa.
Tuy
nhiên cũng đã có người dùng từ lăn tăn để nói về sự phân vân
theo cách nói lóng, như vậy thì nó cũng đã chỉ tính cách đấy chứ (?)
11- Về xướng hoạ trong
thơ Đường luật
Xướng
hoạ trong thơ Đường luật là việc dựa vào một một bài thơ khởi đầu của một người
nào đó gọi là bài thơ xướng để viết một bài thơ khác hoạ lại bài thơ khởi đầu
đó. Với cách làm này, những người làm thơ có thể tiếp xúc, đồng cảm, gần gũi
với nhau hơn. Những bài hoạ có thể theo cùng chủ đề của bài xướng, nhưng cũng
có thể theo một chủ đề khác, như vậy gọi là hoạ nương vần (hoạ bộ vận), điều đó
hoàn toàn có thể được. Tuy nhiên nhất định không để từ thứ 6 (từ áp vận) của
các câu bài hoạ lặp lại từ thứ 6 của các câu bài xướng.
Về
hình thức hoạ có thể dựa hoàn toàn vào vần và trật tự các vần của bài xướng, hoặc
chỉ dùng một số vần và thay đổi trật tự của tất cả các vần như nhiều cách dưới
đây. Về phía bài xướng cần phải lưu ý đến sự thanh thoát, giầu xúc cảm về nội
dung và hết sức tránh các dạng bài có hình thức quá phức tạp cùng
với các vần quá hiểm, quá khó tìm thì mới mong có được nhiều bài hoạ của mọi
người.
a-
Hoạ nguyên vần
Hoạ
nguyên vần là bài hoạ phải theo sát chủ đề, giữ nguyên vần và xếp
vần theo đúng thứ tự vần của bài xướng.
Ví dụ:
Với
các vần: dân, dần, thân, thuần, dân trong bài Phó thường dân dưới
đây
Phó
thường dân
(Bài
xướng)
Từ
ngày trở lại phó thường dân
Mọi
sự đua chen cũng nhạt dần
Sáng
đến đôi trang tăng trí não
Chiều
về mấy chưởng giúp rèn thân
Cơm
rau dưa giá thanh mà ngọt
Áo
sợi bông tơ mát lại thuần
Phú
quý mặc ai nơi huyện sở
Một
mình vui cảnh phó thường dân
Với
các vần: dân, dần, thân, thuần, dân trong bài Với
bình dân dưới đây
Với
bình dân
(Hoạ bài Phó thường dân)
Người
nào chẳng ở chốn bình dân
Cố
nhớ đừng quên mất gốc dần
Phú
quý quen mùi chừng khó bỏ
Nghèo
hèn tập mãi chửa nên thân
Thẳng
ngay, bộc trực, danh càng đẹp
Bình
dị, thanh cao, tính cũng thuần
Cái
sự làm mình ra khác lạ
Sao
bằng trở lại với bình dân
b-
Hoạ ngược vần (nghịch vận)
Hoạ ngược vần là bài hoạ giữ nguyên vần của bài xướng nhưng xếp vần
theo thứ tự từ cuối ngược lên đầu
Ví
dụ:
Với
các vần: thơ, giờ, sơ, chờ, thơ và ngược lại: thơ, chờ, sơ, giờ, thơ trong 2
bài thơ dưới đây
Gặp
bạn thơ
(Bài
xướng)
Bao
năm mới gặp bạn yêu thơ
Cả
nước về vui suốt mấy giờ
Chẳng
kể trẻ già cùng lớn bé
Cần
gì cũ mới với thân sơ
Chia
tay ngày ấy đành xa cách
Họp
mặt hôm nay luống đợi chờ
Mấy
thuở cuộc đời ta được vậy
Nỗi
niềm xúc cảm gửi vào thơ
Chia cách
(Hoạ
bài Gặp bạn thơ)
Mấy dòng giã biệt chép thành thơ
Tặng lại cho ai vẫn đứng chờ
Tiếc bởi tiễn đưa đầy quý mến
Trách vì chào đón quá đơn sơ
Vui khi thân mật chiều nay vậy
Buồn lúc chưa quen buổi bấy giờ
Chia cách đã gần trong chốc lát
Mấy dòng giã biệt chép thành thơ
c-
Hoạ đảo vần
Hoạ
đảo vần là bài hoạ giữ nguyên vần của bài xướng nhưng có thể đảo
thứ tự trên xuống dưới hoặc dưới lên trên một vài vần của bài xướng
Thắp
lửa xong rồi gắng chủ trương
(Hoạ
thơ Nguyễn Văn Liêm)
Chẵn
chục năm theo với luật Đường
€Kinh
Thầy bóng nước đã thơm hương
Ý
tình nhã nhặn vang muôn nẻo
Cấu
tứ thanh tao vọng bốn phương
Mỗi
chữ chuốt chau chừng đã khéo
Từng
câu giản dị vốn không thường
Nhân
về dự hội đôi lời chúc
Thắp
lửa xong rồi gắng chủ trương
Gửi
về Nam Sách
vạn yêu thương
(Hoạ
thông, thơ Nguyễn Văn Liêm và Trần Thế Mẫn)
Mười
năm bền chí với thơ Đường
Bóng
nước Kinh Thầy thắm sắc hương
Đạo
cốt thanh tao lời thánh thiện
Ý
tình nhuần nhã dáng phong sương
Nhân
văn phẩm hạnh vừa khai mở
Trí
lực tâm tư đã khác thường
Một
áng thơ mừng đầy ngưỡng mộ
Gửi
về Nam Sách
vạn yêu thương.
-
Bài Thắp lửa xong rồi gắng chủ trương với các vần: Đường,
hương, phương, thường, trương.
-
Bài Gửi về Nam Sách
vạn yêu thương với các vần: Đường, hương, sương, thường, thương.
Hai
bài trên được hoạ nguyên ý với các vần giống nhau:
-
Đường, hương, thường cùng vị trí và phương, trương, sương, thương ở các vị trí
tuỳ ý.
d-
Hoạ loạn vần
Hoạ
loạn vần là bài hoạ giữ nguyên vần của bài xướng nhưng có thể thay
đổi tuỳ ý vị trí của tất cả các vần. (xem ví dụ trên)
đ-
Hoạ lựa vần
Hoạ
lựa vần là bài hoạ chỉ dùng một vài vần của bài xướng, các vần còn
lại có thể thay đổi tuỳ ý người hoạ (xem ví dụ trên)
e-
Hoạ nối vần
Hoạ
nối vần là bài hoạ dùng cả câu cuối và vần của bài xướng làm câu
đầu và vần của bài hoạ.
Ví
dụ:
Giao thừa
Giao
thừa vẫn vậy khác gì đâu
Đêm
lạnh trăng không dạ nhuốm sầu
Kẻ
đến dùng dằng mong nán lại
Người
về tấp tểnh muốn qua mau
Ai
giao ai nhận ai giao nhận
Ai
đến ai về ai tiếp sau
Cái
sự luân phiên không sở cứ
Giao
thừa vẫn vậy khác gì đâu
Về hưu
(Hoạ
bài Giao thừa)
Giao
thừa vẫn vậy khác gì đâu
Đơn
độc mình ta cạn chén sầu
Sáu
chục mùa xuân sao thấy ngắn
Mấy
mươi cái tết thật là mau
Về
hưu đã hẳn ta qua trước
Ở
lại đương nhiên bạn đến sau
Cõi
thế xưa nay không chịu đổi
Giao
thừa vẫn vậy khác gì đâu
Hai
bài trên được hoạ nguyên vần, câu cuối bài Giao thừa là
câu đầu bài Về hưu.
12. Đôi lời cuối sách
Làm
thơ vốn là công việc cả đời của những người theo nghiệp văn chương. Cũng giống
như cầy cấy gieo trồng là công việc của người nông dân vậy. Cái sự làm thơ hay
cầy cấy cho dù tài giỏi đến đâu thì cũng phải tìm tòi, phải học mới làm tốt
được. Những ngưòi không hoàn toàn theo nghiệp văn chương nhưng lại yêu thơ và
thích làm thơ nhưng chưa có nhiều thời gian đi sâu tìm hiểu cách thức làm thơ
như bản thân tác giả thì đọc, viết và tìm hiểu luôn cho những kết quả tốt đẹp.
Khi ta đi sâu nghiên cứu mới thấy nhiều cái ta còn nông cạn và thiếu hiểu biết
dường bao.
Viết
được đôi điều trên ra giấy thực chất là sự cố gắng trong việc tìm đọc và xin
vắng mặt nhiều kiến thức của các tác giả đã viết ra trước đó trong giáo khoa và
trong các nghiên cứu đã được in thành sách. Trong đó còn có cả công sức của
nhiều bậc đàn anh trong sự góp ý sửa chữa. Đáng quý hơn nữa là cho cả những
sáng tác tâm huyết của mình để làm mẫu. Xin được trân trọng cảm ơn tất cả và
mong sự thể tình cho những sai sót nếu có.
Về
phần nội dung của sách, cũng xin bày tỏ rằng với tinh thần hiểu thế nào thì
viết thế ấy, ngõ hầu để mọi người góp ý. Mong sao một ngày không xa nữa có một
tài liệu đơn giản, dễ hiểu và tốt hơn đóng góp vào các nghiên cứu về thơ Đường
luật dùng cho mọi người
Viết xong
tháng 6 năm 2007
Sửa lại
tháng 11/2008