Tìm
hiểu về thơ Đường luật
Người Việt
chúng ta hầu hết đều là người giầu tình cảm, và có sự bẩm thụ văn chương. Ngay
từ khi mới chào đời đã tiếp nhận từ người thân những câu hát ru, những vần điệu
ca dao, dân ca tinh tế. Trong nhiều năm gần đây nhờ sự phổ cập văn hoá trong
nhân dân, văn tự và chữ viết là công cụ, là chìa khoá để diễn đạt và lưu giữ
nhiều văn bản nói lên những tâm sự, những cảm xúc của mỗi người. Qua những vần,
những điệu quen thuộc người ta hát lên, ngâm lên những câu chữ để mà hoà vào
không khí tươi vui của cộng đồng. Những dòng như thế, những bài như thế đã phần
nào mang dáng dấp của những bài văn vần. Những bài văn vần đó có cấu trúc rất
gần với một thể loại mà ta gọi là thơ, trong đó có thơ lục bát, thơ tự do và
thơ cách luật vv... Đã là thơ thì nó có cả một hệ thống lý luận rất rộng mà ta
không thể bàn trong tập sách nhỏ bé này. Với một phương châm như thế chúng ta
sẽ đi sâu vào một thể loại thật cụ thể đó là Thơ luật Đường[1]
mà người Việt ta vẫn gọi là Thơ Đường hoặc thơ Đường luật.
Thơ Đường
luật là thể thơ xuất xứ từ Trung Quốc, được luật hoá về vần, điệu và một số thủ
pháp riêng trong thời Đường. Đây cũng là thể loại thơ được tiếp thu, đưa vào
đời sống và khoa cử Việt Nam
từ rất sớm. Thơ được đề cao là loại Thơ bác học trong một thời kỳ khá dài và
được hoàn thiện thêm cho phù hợp với văn tự và âm thanh của người Việt. Công
bằng mà nói thì với thời gian và thói quen ngôn ngữ, thơ Đường luật đã được
nhiều nhà thơ từ trước đến nay thay đổi đến mức có thể gọi là thơ Luật Việt Nam cũng không
có gì là quá đáng. Đây cũng là thể thơ được nhiều người ưa thích vì sự biểu cảm
sinh động và thâm sâu, rất đáng được lưu giữ, phát triển duy trì sự phong phú
trong vốn văn hoá của nước ta. Dưới đây là một số nét về thể thơ Đường luật nói
trên với tiêu chí vừa tìm hiểu và cũng góp phần vào việc giúp những người bước
đầu muốn hiểu và muốn làm thơ Đường luật.
Thơ Đường luật có thể viết
mỗi bài bốn câu gọi là thơ tứ tuyệt, mỗi bài tám câu gọi là bát cú và những bài
trên tám câu gọi là trường thiên. Trong mỗi câu có năm từ gọi là ngũ ngôn, hoặc
bẩy từ gọi là thất ngôn, ngoài ra còn có loại bài có một số câu bị rút đi một
từ còn sáu từ trong một vài trường hợp.
Những
bài thơ tứ tuyệt thường dùng thuật ngữ tóm tắt chỉ rõ chức năng mỗi câu và kết
cấu của bài, đó là cụm từ: Khai, thừa, chuyển, hợp. Về điểm này chúng ta có thể
đi sâu nghiên cứu với một văn bản dài hơi hơn trong một dịp khác.
Những
bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú cũng được đặc trưng bởi 4 phần khác nhau đó
là: Đề, thực, luận, kết. Dưới đây chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu về các phần với
một gợi mở ngắn gọn nhất.
Vần
trong thơ Đường (còn gọi là vận) dựa vào sự giống nhau của từ cuối mỗi câu. Các
vần trong bài tứ tuyệt được sắp xếp theo thứ tự là vần câu 1 hiệp vần với câu 2,
câu 4; trong bài bát cú vần câu 1 hiệp vần với câu 2, câu 4, câu 6, câu 8
II.1. Hiệp
vần trong bài tứ tuyệt: có 3 vần
ĐOÁN BÃO
(Lê Trọng Hồng)
Ráng đỏ đùn lên kín mé tây (1)
Trời xanh trốn biệt hết trong mây (2)
Mấy ai biết được ngày mai tới
Giông bão điên cuồng sẽ đến đây (3)
II.2. Hiệp
vần trong bài bát cú: có 5 vần
KHAO THƠ
(Lê Trọng Hồng)
Gặp buổi thanh nhàn đến với nhau (1)
Cần chi nghèo khó với sang giầu (2)
Me chua mấy quả, sôi trong nước
Muối lạc đôi hòn, trộn dưới âu
(3)
Chọn tứ tìm câu mời tiếp chén
Lựa vần sửa đối đợi thay bầu (4)
Thong dong cuối tháng lương chưa tới
Vẫn hẹn khao thơ đãi một chầu
(5)
II.3. Chính
vần (Chính vận)
Ta gọi từ
này vần với từ kia hầu hết chỉ bao gồm phần ghép của nguyên âm với phụ âm cuối
của từ. Không kể sự biến thái âm do dấu, miễn chúng giống nhau thì đó là chính
vần. Người xưa gọi là chính vận.
Ví dụ 1:
Vườn ai cháy sáng giữa heo may
Khóm cúc vàng tươi nở đắm say
(Hoa thu - Lê Trọng Hồng)
(Ay) trong may và say bài Hoa thu
là chính vận
Ví dụ 2:
...
Muối lạc đôi hòn, trộn dưới âu
Chọn tứ, tìm câu mời tiếp
chén
Lựa vần, sửa đối đợi thay bầu
(Khao thơ - Lê Trọng Hồng)
(Âu) trong âu và bầu của bài Khao thơ trên đây chỉ khác
nhau một dấu huyền, đó là (âu) và (ầu) cũng
gọi là chính vận
II.4. Vần
gần đúng (Bàng vận)
Không phải
lúc nào vần cũng giống nhau một cách tuyệt đối người ta có thể hiệp vần bằng
một âm chỉ gần giống nhau. Những vần chỉ gần giống nhau như thế gọi là vần gần
đúng. Người xưa gọi là bàng vận
Ví dụ 1:
...
Gặp buổi thanh nhàn đến với nhau
Cần chi nghèo khó với sang giầu
(Khao thơ - Lê Trọng Hồng)
Au và ầu trong hai câu trên đây, có sự gần
giống nhau. Đây chính là một trường hợp bàng vận
Ví dụ 2:
...
Nợ
khắp muôn người thật rõ đông
Nợ
mẹ, nợ cha miền dưỡng dục
Nợ
chồng, nợ vợ cuộc đời chung...
(Nợ - Lê
Trọng Hồng)
Ông và ung trong bài Nợ trên đây chỉ gần giống nhau. Đây cũng chính là một
dạng bàng vận
Vần trong
thơ Đường luật có thể ở thể bằng hoặc trắc. Trong tiếng Việt những thanh âm
không có dấu hoặc thanh âm mang dấu huyền đều được xếp vào thanh bằng. Các
thanh âm mang dấu sắc, hỏi, ngã, nặng đều được xếp vào thanh trắc. Từ đó ta
cũng có được các vần là vần bằng hoặc vần trắc
Ví
dụ:
Mừng xuân cất bút chào năm mới
Chúc
một mùa thơ thật thắng lợi
Vần
ới và ợi trong hai câu trên là những vần trắc
Ví
dụ:
Bên trời vàng ủng ánh trăng suông
Từng
đợt heo may gõ cửa buồng
Vần uông và uồng
hai câu trên là những vần bằng
II.6. Bớt vần
(chiết vận)
Trong thơ
Đường luật, vần của toàn bài phải hiệp vần với câu đầu, nhưng đôi khi ta vẫn
gặp những bài có câu đầu không vần với câu 2 và toàn bài. Trường hợp này ta gọi
là bớt vần (chiết vận). Tuy nhiên những bài chiết vận thì câu 1 và 2 phải tạo
thành một cặp đối.
Ví dụ:
Vách thẳng
sương giăng xanh tựa ngọc
Bãi chìm
nước cuộn trắng như hơi
Một đời ngắn ngủi trong gang tấc
Gặp cảnh như vầy được mấy nơi.
(Đèo Ngang - Lê Trọng Hồng)
Có một dạng
thơ thất ngôn được bỏ bớt từ ở câu đầu hoặc câu cuối thành ra câu có sáu từ.
Người xưa nói đây là thể thơ do Hàn Thuyên sáng tạo ra trên cơ sở của thơ Đường
luật, nhiều người đã gọi là thơ Hàn luật. Thể loại này có nhiều trong thơ
Nguyễn Trãi.
Ví
dụ:
ĐOẠN X (10)
(Nguyễn Trãi)
Lao
xao chợ cá làng ngư phủ
Dặng
dõi cầm ve lầu tịch dương
Dẽ
có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giầu đủ khắp đòi phương
Luật trong thơ Đường chỉ ra
sự phân bố của các từ bằng và trắc trong một bài thơ. Luật quy định các dạng
thơ như: Luật bằng và Luật trắc.
Để
nhận biết bài thơ ở luật bằng hay luật trắc chỉ cần xem từ thứ hai của câu 1,
nếu là thanh bằng thì đó là bài thơ thuộc luật bằng và ngược lại là luật trắc.
Khi đã biết về luật chỉ cần chú ý từ cuối của câu 1, nếu đó là thanh bằng thì
bài thơ có vần bằng và ngược lại là vần trắc. Kết hợp về luật và vần ta có 4 dạng[2]
thơ Đường luật, dưới đây là sơ đồ 4 dạng của thơ Đường luật .
A
- Luật bằng vần bằng C - Luật bằng
vần trắc
B
|
B
|
T
|
T
|
T
|
B
|
B
|
B
|
B
|
T
|
T
|
B
|
B
|
T
|
|
T
|
T
|
B
|
B
|
T
|
T
|
B
|
T
|
T
|
B
|
B
|
B
|
T
|
T
|
|
T
|
T
|
B
|
B
|
B
|
T
|
T
|
T
|
T
|
B
|
B
|
T
|
T
|
B
|
|
B
|
B
|
T
|
T
|
T
|
B
|
B
|
B
|
B
|
T
|
T
|
B
|
B
|
T
|
|
B
|
B
|
T
|
T
|
B
|
B
|
T
|
B
|
B
|
T
|
T
|
T
|
B
|
B
|
|
T
|
T
|
B
|
B
|
T
|
T
|
B
|
T
|
T
|
B
|
B
|
B
|
T
|
T
|
|
T
|
T
|
B
|
B
|
B
|
T
|
T
|
T
|
T
|
B
|
B
|
T
|
T
|
B
|
|
B
|
B
|
T
|
T
|
T
|
B
|
B
|
B
|
B
|
T
|
T
|
B
|
B
|
T
|
B
- Luật trắc vần bằng D - Luật
trắc vần trắc
T
|
T
|
B
|
B
|
T
|
T
|
B
|
T
|
T
|
B
|
B
|
B
|
T
|
T
|
|
B
|
B
|
T
|
T
|
T
|
B
|
B
|
B
|
B
|
T
|
T
|
B
|
B
|
T
|
|
B
|
B
|
T
|
T
|
B
|
B
|
T
|
B
|
B
|
T
|
T
|
T
|
B
|
B
|
|
T
|
T
|
B
|
B
|
T
|
T
|
B
|
T
|
T
|
B
|
B
|
B
|
T
|
T
|
|
T
|
T
|
B
|
B
|
B
|
T
|
T
|
T
|
T
|
B
|
B
|
T
|
T
|
B
|
|
B
|
B
|
T
|
T
|
T
|
B
|
B
|
B
|
B
|
T
|
T
|
B
|
B
|
T
|
|
B
|
B
|
T
|
T
|
B
|
B
|
T
|
B
|
B
|
T
|
T
|
T
|
B
|
B
|
|
T
|
T
|
B
|
B
|
T
|
T
|
B
|
T
|
T
|
B
|
B
|
B
|
T
|
T
|
Dưới đây là
một số bài thơ làm ví dụ do tác giả viết để minh hoạ. Về nội dung chưa có thể
gọi là tốt, mà chỉ cố gắng theo đúng niêm luật.
THÔNG CẢM
(Luật bằng vần bằng)
Từ
|
lâu
|
đã
|
định
|
sẽ
|
thăm
|
hoa
|
Ngõ
|
cũ
|
chông
|
chênh
|
bạn
|
vắng
|
nhà
|
Cánh
|
cổng
|
lầm
|
lỳ
|
kêu
|
chẳng
|
động
|
Bờ
|
tường
|
ngất
|
ngưởng
|
gọi
|
không
|
qua
|
Mười
|
năm
|
bận
|
rộn
|
phiền
|
lòng
|
trẻ
|
Một
|
buổi
|
thong
|
dong
|
gắng
|
sức
|
già
|
Lỡ
|
hẹn
|
vì
|
thời
|
đành
|
chịu
|
vậy
|
Xin
|
người
|
bỏ
|
quá
|
hộ
|
cho
|
ta
|
ĐỀN
CHU VĂN AN CẢM TÁC
(Luật trắc vần bằng)
Núi
|
phượng
|
chiều
|
nay
|
thắm
|
sắc
|
cờ
|
Đền
|
đài
|
mới
|
dựng
|
giữa
|
hoang
|
sơ
|
Trường
|
xưa
|
mái
|
đỏ
|
trò
|
đang
|
đợi
|
Điện
|
mới
|
hiên
|
xanh
|
khách
|
vẫn
|
chờ
|
Sửa
|
đức
|
can
|
người
|
lo
|
vận
|
hội
|
Khơi
|
nguồn
|
giúp
|
trẻ
|
tạo
|
duyên
|
cơ
|
Bên
|
tường
|
vẫn
|
đó
|
dòng
|
xuân
|
cảm
|
Đạo
|
thánh
|
gieo
|
mầm
|
vạn
|
tứ
|
thơ
|
CHÚC
NĂM MỚI
(Luật bằng vần trắc)
Mừng
|
xuân
|
cất
|
bút
|
chào
|
năm
|
mới
|
Chúc
|
một
|
mùa
|
thơ
|
luôn
|
thắng
|
lợi
|
Cấu
|
tứ
|
vui
|
tươi
|
thật
|
sáng
|
trong
|
Vần
|
câu
|
sắc
|
sảo
|
không
|
đen
|
tối
|
Mang
|
nhiều
|
cảnh
|
đẹp
|
đến
|
muôn
|
nơi
|
Mở
|
rộng
|
tình
|
yêu
|
ra
|
khắp
|
lối
|
Đón
|
tết
|
mua
|
vui
|
có
|
mấy
|
câu
|
Hoà
|
cùng
|
bạn
|
hữu
|
sang
|
năm
|
tới
|
THĂM NHÀ BÁC SĨ
Bữa
|
trước
|
sang
|
thăm
|
nhà
|
bác
|
sĩ
|
Chồng
|
đầy
|
tủ
|
sách
|
nghe
|
hùng
|
vĩ
|
Ban
|
thờ
|
ngó
|
đến
|
chẳng
|
còn
|
gì
|
Thúng
|
gạo
|
nhìn
|
vào
|
đã
|
hết
|
kỹ
|
Chữa
|
bệnh
|
cho
|
người
|
suốt
|
cả
|
năm
|
Mừng
|
xuân
|
khổ
|
chủ
|
không
|
ngày
|
nghỉ
|
Đành
|
rằng
|
tất
|
cả
|
chỉ
|
vì
|
dân
|
Với
|
bác
|
đừng
|
nên
|
quên
|
để
|
ý
|
IV. NIÊM
THƠ
Niêm trong
thơ Đường luật chỉ sự kết dính của các câu theo một quy tắc bắt buộc. Niêm xác
định bởi từ thứ 2 của các câu theo thể thức từng cặp giống nhau cùng bằng hoặc
cùng trắc.
- Trong thơ
tứ tuyệt niêm là sự kết nối giống nhau cùng bằng hoặc cùng trắc các từ thứ 2
của các cặp câu: 1- 4; 2-3.
- Trong thơ
thất ngôn bát cú niêm là sự kết nối giống nhau cùng bằng hoặc cùng trắc các từ
thứ 2 của các cặp câu: 1 - 8; 2 - 3; 4 - 5; 6 - 7.
Ví dụ:
SÁU
MƯƠI
(Lê
Trọng Hồng)
Sáu
Thoắt
Khúc
Bài
Vườn
Ngõ
Muôn
Đôi
|
mươi
cái
hát
thơ
xuân
trúc
sự
dòng
|
lặng lẽ bước đường xa
thời gian đã đến già
xông pha chưa kịp dứt
chiêm nghiệm mới vừa ra
cứ hẹn kêu đi tới
khi cần đón lại qua
ngoài đời không vướng bận
thi phú một hồn ta.
|
Cặp
1-8 cùng bằng (mươi / dòng); cặp 2-3 cùng trắc (cái / hát); cặp 4-5 cùng bằng (thơ / xuân); cặp 6-7
cùng trắc (trúc / sự)
Kết cấu này khác hẳn với ngắt nhịp của câu thất trong thể thơ
song thất lục bát đó là 3/4 hoặc 3/2/2
Như trên đã nói thơ Đường luật ngắt nhịp 2/2/3 hoặc 4/3, điều này
cho thấy từng bộ phận của câu thơ đã được tách ra, chính vì thế mà người làm thơ
ít dùng (thậm chí là không cần dùng) các loại dấu phân cách.
V. GIẢN HOÁ
VỀ LUẬT
Nếu
4 sơ đồ trên đều thực hiện đúng cả thì rất tốt. Tuy vậy trong thực hành chỉ cần
giữ đúng bằng trắc với các từ ở cột 2, 4, 6 là được (đương nhiên cột 7 là cột
gieo vần thì phải tuân thủ đúng). Với gợi ý này các cụ ta xưa nói: “Nhất, tam, ngũ bất luận - Nhị, tứ, lục phân
minh” là thế.
Khi đã quen
thuộc với thơ Đường luật thì ít khi người làm thơ bị sai về niêm, luật. Nhưng
khi mới làm thì không thể tránh được sự sai sót này. Để cho dễ nhớ chỉ cần chú ý kiểm tra các điểm sau:
Từ thứ 2
và thứ 6 trong câu bao giờ cũng cùng bằng hoặc cùng trắc.
Từ thứ 4
trong câu ngược lại với từ 2 và 6.
Từ thứ 2
của các câu trong bài cùng bằng hoặc cùng trắc theo từng cặp một trong đó gồm:
1- 8; 2 - 3; 4 - 5; 6 - 7.
KHAI
BÚT KHAI XUÂN
(Thơ mời hoạ)
Chào xuân
khai bút viết thơ xuân
Mời bạn gần xa hoạ mấy vần
Xuân đến, xuân sang, xuân gặp tết
Tết về, tết lại, tết tìm xuân
Xuân thêm một tuổi xuân chờ tết
Tết tới một năm tết đợi xuân
Xuân! Tết! Xuân xuân! Xuân tết tết
Tết! Xuân! Tết tết! Tết xuân xuân.
Ví dụ:
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ
Cái giá khoa danh thế mới hời
(Vịnh tiến sĩ giấy - Nguyễn
Khuyến)
Sao mà và thế mới trong Vịnh tiến sĩ
giấy chính là những hư từ, những hư từ trên đây dùng quả là khéo.
IX. VÀI
DẠNG THƠ ĐƯỜNG LUẬT ĐẶC BIỆT
THỦ
NHẤT THANH
NỢ
(Lê Trọng Hồng)
Nợ trời, nợ đất, nợ non sông
Nợ khắp muôn người thật rõ đông
Nợ mẹ, nợ cha miền dưỡng dục
Nợ chồng, nợ vợ cuộc đời chung
Nợ thầy, nợ bạn ơn đào luyện
Nợ xóm, nợ làng lúc góp công
Nợ cõi trần gian ngày sống gửi
Nợ đời chừng ấy biết hay không.
KHOÁN THỦ THI
Đây là dạng thơ dùng các từ ở đề làm từ đứng đầu cho từng câu một của
bài thơ
ĐƯỜNG
THI THẮP SÁNG MỞ HỘI NÚI SÔNG
(Lê Trọng Hồng)
Đường luật bung ra khắp mọi miền
Thi đàn dìu dặt cuộc giao duyên
Thắp đèn mơ đến miền kim cổ
Sáng bút soi vào cõi thánh tiên
Mở lối muôn nơi gieo tứ mới
Hội về mọi ngả nối vần lên
Núi Nùng lưu dấu nền văn hiến
Sông Nhị khơi dòng toả rộng thêm
TIỆT HẠ
Đây
là dạng thơ không nói hết ý của các câu nhưng thực tế khi đọc lên dường như mọi
người đều đã hiểu ý của tác giả.
HƯ DANH
(Lê Trọng Hồng)
Ngộ tý văn chương đã tưởng là...
Cố công học hỏi để cho ra...
Nào hay vừa đó người rằng sắp...
Biết vậy hôm xưa tớ chẳng thà...
Trót đã theo đòi nên cũng phải...
Thôi thì níu bám để cho qua...
Cũng vì sĩ diện xui nên cảnh...
Vì cái hư danh đến nỗi mà...
X. CÁCH
DÙNG TỪ NGỮ TRONG THƠ ĐƯỜNG
X.1. Chiết
tự
Đây là cách triết tự trong
thơ chữ Hán. Ghép từng phần của chữ để chỉ sự việc)
Ví dụ:
Duyên thiên chưa thấy nhô đầu trọc
Phận
liễu sao đà nảy nét ngang
Cái
nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa
Mảnh
tình một khối thiếp xin mang...
(Không chồng mà chửa - Hồ
Xuân Hương)
Chữ
Thiên (天) kéo dài
đầu lên thành chữ (夫) Phu / chồng, đây chỉ sự chưa có chồng. Chữ Liễu (了) nếu có nét ngang thành ra chữ (子) tử / con,
đây chỉ sự đã có con.
Nhớ chửa là câu hỏi nhưng lại chỉ người
phụ nữ có chửa, xin mang là câu chỉ
sự chấp nhận nhưng lại chỉ sự mang thai .
Một số bài thơ làm theo tiêu
chí (nhị, tứ, lục phân minh) nhưng khi áp dụng (nhất, tam, ngũ bất luận) lại để
từ thứ 5 (ngũ) và thứ 7 (thất) cùng bằng hoặc cùng trắc (nói rõ hơn là 3 từ
cuối câu cùng bằng hoặc cùng trắc) dẫn đến câu thơ khi đọc lên thấy cộc và
không êm tai, những trường hợp này gọi là khổ độc cần chú ý tránh phạm phải như ví dụ dưới đây.
Ví
dụ 1:
Vui chân theo bạn về Thanh Mai
Mới
thấy đường đi cũng chẳng dài
Từ thứ 5 (Về),
từ thứ 7 (Mai) câu 1 trên đây đều cùng bằng (hoặc cả 3 từ cuối cùng bằng).
Khi ta thay
Đến (trắc) vào Về (bằng), ta có từ thứ 5 trắc và từ thứ 7 bằng, câu thơ đọc lên
sẽ êm hơn.
Vui chân theo bạn Đến Thanh
Mai
Mới
thấy đường đi cũng chẳng dài
Ví
dụ 2:
Từ thứ 5 (gọi),
từ thứ 7 (Động) câu 1 dưới đây đều cùng trắc (hoặc cả 3 từ cuối cùng trắc)
Cánh cổng lầm lỳ GỌI chẳng ĐỘNG
Bờ
tường ngất ngưởng KÊU không QUA
Thay KÊU
vào gọi của câu thơ trên, ta có từ 5 bằng và từ 7 trắc. Thay từ Gọi vào KÊU của
câu thơ dưới, ta có từ 5 trắc và từ 7 bằng, đọc lên sẽ êm hơn.
Cánh cổng lầm lỳ KÊU chẳng ĐỘNG
Bờ
tường ngất ngưởng GỌI không QUA
Vấn
đề từ ngữ trong thơ Đường luật có rất nhiều kiến giả cho rằng cần phải lựa chọn
kỹ, đó là sự tất yếu, tuy nhiên nếu quá chú trọng, khuôn phép thường làm mất đi
cái giản dị, tự nhiên. Ngày nay đã thấy nhiều kiến giả cho rằng thơ Đường luật
cũng nên sử dụng từ ngữ dung dị trong đời sống để bài thơ đỡ khô cứng mở rộng
sự tiếp nhận của mọi tầng lớp trong xã hội.
Để tìm hiểu
cấu trúc của bài thơ Đường luật, dưới đây xin dẫn bài Thiếu nữ đi tu của cụ Tú Xương cho nội dung tìm hiểu thơ Đường tiếp
theo
XI.1.Tìm
hiểu về đầu đề bài thơ
Thơ Đường luật rất coi trọng
đầu đề bài thơ; Đầu đề bài thơ chỉ rõ thực chất bài thơ nói về cái gì, có như
thế độc giả mới có thể hiểu được ý tứ bài thơ mình sẽ đọc. Đầu đề bài thơ Đường
luật của các cụ ta xưa luôn ngắn gọn và cô đọng. Sức biểu đạt của đầu đề rất đặc
trưng và không kém phần gợi cảm. Đầu đề bài thơ Thiếu nữ đi tu của cụ Tú Xương chính là một ví dụ
XI.2. Tìm
hiểu về hai câu đề
Trong thơ thất ngôn bát cú
hai câu đầu được xác định là một cặp đề. Câu 1 gọi là phá đề, câu 2 gọi là thừa
đề. Cặp đề có chức năng giới thiệu cho độc giả hiểu rõ thêm về ý tứ của tác giả,
từ đó người đọc thấu triệt toàn bộ bài thơ đang sắp hiện ra. Câu 1 giới thiệu
mở đầu, câu 2 sau đó làm sáng tỏ thêm.
Ví
dụ:
Hai
câu đề trong Thiếu nữ đi tu của Tú
Xương
Con gái nhà ai dáng thị thành
Cớ sao nỡ phụ cái xuân xanh
Câu phá đề cho ta biết đây
là bài thơ nói về một cô gái thanh lịch như một cô gái ở thành thị. Câu thừa đề chỉ ra đó là cô gái không
biết trân trọng vốn quý thanh xuân của chính mình
Hai câu 3 và 4 là hai câu
thực. Hai câu này nêu lên những hình ảnh, sự việc, trạng thái đã có, đã nhìn, đã
nghe hoặc cảm nhận được, làm chứng cớ cho những điều ta sẽ bàn luận đến và rồi
phổ vào đó cái nhận định, cái chủ ý mà ta muốn mọi người cùng hiểu với ta. Hai
câu thực phải có cấu trúc là một cặp đối chọi với nhau.
Ví dụ:
Hai
câu thực trong Thiếu nữ đi tu của Tú
Xương
Nhạt màu son phấn say màu đạo
Mở cánh từ bi khép cánh tình
Câu thực
thứ nhất nói về sự không chịu chăm sóc những nét đẹp vốn có mà say mê theo thứ
đạo pháp nào đó. Câu thứ hai kể rõ cô mở lòng đến với đạo phật (từ bi) và bỏ
qua cái tình vốn dĩ phải có ở mỗi người trong trách nhiệm làm người và cái tình
ái của người con gái. Hai câu này đối nhau rất chặt chẽ, nói về hành vi và tư duy
của cô gái nọ.
Hai câu 5 và 6 là hai câu
luận. Hai câu này nói rõ những nhận định của ta về cái mà 2 câu đề và 2 câu
thực của bài thơ vừa mới tạo ra. Hai câu luận cũng là một cặp đối thứ 2 trong
bài thơ. Luận là phần quan trọng trong cấu tứ bài thơ. Nếu bài thơ không có
luận thì người ta không biết bấu víu vào đâu để mà hiểu tác giả nữa.
Nói
như vậy thì một số bài thơ Đường có ý trốn luận có lẽ không còn tứ nữa? Hoàn
toàn không phải như thế vì cho dù có trốn luận thì hai câu ấy vẫn hiện diện. Nó
có thể là hai câu thực nữa và cặp thực thứ hai này chồng chận lên cặp thực
trước nó. Như thế thì cái luận đã xuất hiện rồi, xuất hiện bằng sự nhấn mạnh
vậy. Tuy nhiên luận rõ, luận hay vẫn là điều không thể thiếu.
Ví
dụ:
Hai
câu luận trong Thiếu nữ đi tu của Tú
Xương
Miệng đọc nam vô quên chín chữ
Hai từ (quên) và (phụ) chính
là ý kiến tác giả nói về cái sự đi tu của cô gái nọ. Đây cũng là sự phán xét của
tác giả về lỗi lầm của cô gái, đó là quên công lao của cha mẹ trong sinh đẻ và
nuôi dưỡng nên người. Hơn nữa đó là phụ rẫy cái “duyên nợ ba kiếp” mà mỗi người
phải trả theo thuyết luân hồi của nhà phật. Phần luận trong bài rất rõ và rất
cụ thể.
XI.5. Tìm hiểu về
hai câu kết
Gọi là kết
có nghĩa là cuối của một vấn đề. Tại thời điểm đó người ta chờ đợi một nhận
định cụ thể sau sự phô diễn của ba cặp đề, thực và luận trên kia. Kết hoàn toàn
là sự khảng định lại những gì mà ta đã bàn luận trước đó. Kết có thể nói sâu
hơn sự nhận định của tác giả và cái đích của bài thơ đã rõ.
Tuy nhiên
một số cặp kết của nhiều tác giả lại không tỏ quan điểm của tác giả mà chỉ là
sự gợi mở dành cho người đọc tự kết luận lấy. Những bài thơ có tầm vóc là những
bài cho đến cuối cùng tác giả vẫn còn để lại một khoảng để độc giả cùng suy
ngẫm, cùng tưởng tượng và cùng sáng tạo. Nghĩa là bài thơ có chủ đề tư tưởng
thật rộng, ai đọc nó cũng thấy có cái bản ngã trong đó. Bài thơ không còn của
riêng ai và cũng không còn là của tác giả nữa. Khái niệm sáng tác và tác giả mờ
dần đi để sản phẩm trở thành tài sản trí tuệ vô giá, tồn tại đến muôn đời.
Ví
dụ:
Hai
câu kết trong Thiếu nữ đi tu của Tú
Xương
Tiếc thay thục nữ hồng nhan thế
Nỡ cạo đầu thề với quyển kinh
Câu kết chỉ
nói cái sự tiếc nuối cho người con gái về những hành vi của cô trái với lẽ tự
nhiên và phàn nàn rằng sao lại nỡ làm như vậy mà không bình phẩm gì hơn. Điều
đó có thật đáng trách hay không nhà thơ đã nhường lại cho độc giả phán xét.
Đối trong
thơ Đường luật được thực hiện ở cặp thực và cặp luận. Đối còn có thể thực hiện
ở cặp đề nếu bài thơ trốn vận (nghĩa là câu đầu không vần với câu 2 và vần của
toàn bài). Đối cũng có thể thực hiện ở cả cặp kết của bài thơ.
Đối được
chú trọng cả về thanh và ý, thanh biểu hiện ở bằng đối với trắc, ý thì phải phù
hợp với quan niệm phổ biến trong cộng đồng về đối chọi và sự chuẩn xác không
thể cốt đối mà chẳng có ý nghĩa gì theo kiểu: Thần nông... đối với thánh sâu...[3].
Cũng cần tránh hiện tượng trùng phức, rõ là hai câu nhưng lại chỉ có một ý, nói
đơn giản là bệnh nứa bổ dùng ý câu trên trùng lặp với ý câu dưới. Tóm lại đối
là đặc trưng của thơ Đường luật. Nếu không đối thì không thể gọi là thơ Đường
luật, nhưng giữa thanh và ý thì thi nhân nên hy sinh thanh để giữ ý. Dưới đây
là một số phương pháp đối
XII.1. Công
đối
Đối thật
hoàn chỉnh ta gọi là công đối, trường hợp này yêu cầu rất chặt chẽ, thậm chí
từng từ của vế dưới đối với từng từ của vế trên. Trong đối còn yêu cầu từ thuần
Việt đối với từ thuần Việt, từ Hán Việt đối với từ Hán Việt, thực từ đối với
thực từ, hư từ đối với hư từ, danh từ đối với danh từ, động từ đối với động từ,
tính từ đối với tính từ vv...
Theo Nguyễn
Sĩ Đại, trong Một số đặc trưng nghệ thuật của thơ tứ tuyệt đời Đường thì ngay
danh từ thôi cũng phải đối với danh từ thích hợp. Về thiên văn thì (nhật nguyệt đối với phong vân); về địa
lý thì (sơn thuỷ đối với giang hà);
về cung thất thì (lâu đài đối môn hộ);
về văn cụ thì (bút đối với nghiên);
về nhân sự thì (đạo đức đối với tài tình);
về văn học thì (thi và phú); về thảo
mộc thì (đào và lý); về ẩm thực thì (trà và tửu) vv...Theo Hoài Yên trong Học
nhanh luật thơ Đường nói về Phép đối ngẫu đời Đường thì có đến 16 cách đối,
trong đó 8 cách đối về nội dung và 8 cách đối về hình thức... Quả là hơi khó,
nhưng có khó mới phải tìm hiểu. Dưới đây là một số cặp đối làm ví dụ
Hà Thành xuân đến / còn phong kín
Văn Miếu thơ về / chợt mở toang
(Cả nước phang - Lê Trọng
Hồng)
Vườn
hồng / tráng nắng / hương còn nức
Lối cỏ / mù sương / lệ vẫn đầm
(Nghe đàn - Lê Trọng Hồng)
Tiếng
chim / sau núi / lưa thưa hót
Bông
gạo / trên cành / lặng lẽ rơi
Ánh
nắng / chiều vàng / đang tụ lại
Vầng
trăng / đêm trắng / sắp chia phôi
(Cuối
xuân cảm tác - Lê Trọng Hồng)
Một duyên / hai nợ / âu đành phận
Năm nắng / mười mưa / dám quản công
(Thương vợ - Trần Tế Xương)
Xuyên hoa giáp điệp thâm thâm hiện
Điểm thuỷ thanh đình khoản khoản
phi
(Khúc
giang nhị thủ - Đỗ Phủ)
Trong đối
còn có nhiều cách khác nữa, trong đó: gồm Tiểu đối, tá đối, lưu thuỷ đối vv...
XII.2. Tiểu
đối (còn gọi
là tự đối)
Ví dụ:
PHONG
KIỀU DẠ BẠC
(Trương Kế)
Nguyệt
lạc/ ô đề / sương
mãn thiên
Giang
phong / ngư hoả / đối sầu
miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán trung thanh đáo khách
thuyền
HỒI HƯƠNG NGẪU THƯ
(Hạ Tri Chương)
Thiếu
tiểu ly gia / lão đại hồi
Hương
âm vô cải / mấn mao tồi
Nhi
đồng tương kiến/ bất tương thức
Tiếu
vấn khách tòng / hà xứ lai
Tiểu đối là
đối ngay trong câu; ý sau đối với ý trước. Trong câu có thể có 2 hoặc 3 vế tự
đối như hai bài ví dụ trên.
Lưu thuỷ
đối biểu hiện ở câu trên nói chưa hết ý lập thành một vế đối, câu dưới tương
phản và chuyển tiếp ý lập thành một vế
đối thứ hai.
Ví
dụ:
Vế
trên nói về một sự việc, còn vế dưới đối với vế trên, nhưng lại là sự chuyển
tiếp ý của vế trên.
Nhất nhật tại tù
Thiên
thu tại ngoại
(Nhật ký trong tù -Thơ Nguyễn Ái Quốc)
Đã
sinh ra ở trong trời đất
Phải
có danh gì với núi sông
(Thơ Nguyễn
công Trứ)
Tá đối là
dùng những từ có nhiều nghĩa, khi biểu đạt thì dùng một nghĩa, khi đối thì dùng
nghĩa khác của từ đó để đối với nhau.
Ví dụ 1:
Cúc vàng rời khỏi đồi Hoàng Cúc
Sen trắng quay về bến Bạch Liên
Nắng hạ mưa thu đành cách biệt
Người về ta đến khó đoàn viên
(Biết đâu số phận - Trọng Hồng)
Cũng có
những bài thơ có các cặp đối không chỉnh hoặc không đối, đó là những trường hợp
ta gọi là khoan đối. Khoan đối áp dụng cho những bài thơ có cấu tứ đặc sắc,
tính tư tưởng, tính nghệ thuật cao, làm cho số đông người đọc thấy xúc động. Vì
vậy người làm thơ hãy cứ để cho tâm hồn bay bổng, đừng vì chấp nhất về bất cứ điều
gì làm cho bài thơ khô cứng và nhàm chán.
Ví dụ:
Cánh sóng lăn
tăn vờn cuối bãi
Làn mây hờ
hững níu tầng không
(Về quê - Lê Trọng Hồng)
Rõ
ràng lăn tăn chỉ sự chuyển động, còn
hờ hững chỉ tính cách. Cũng như trên
từ cuối bãi đúng là chỉ vị trí cụ
thể còn tầng không thì không. Có vẻ
như đối đấy nhưng chỉnh thì chưa.
Tuy
nhiên cũng đã có người dùng từ lăn tăn để
nói về sự phân vân theo cách nói lóng, như vậy thì nó cũng đã chỉ tính cách đấy
chứ (?)
Xướng hoạ
trong thơ Đường luật là việc dựa vào một một bài thơ khởi đầu của một người nào
đó gọi là bài thơ xướng để viết một bài thơ khác hoạ lại bài thơ khởi đầu đó.
Với cách làm này, những người làm thơ có thể tiếp xúc, đồng cảm, gần gũi với
nhau hơn. Những bài hoạ có thể theo cùng chủ đề của bài xướng, nhưng cũng có
thể theo một chủ đề khác, như vậy gọi là hoạ nương vần (hoạ bộ vận), điều đó
hoàn toàn có thể được. Tuy nhiên nhất định không để từ thứ 6 của các câu bài
hoạ lặp lại từ thứ 6 của các câu bài xướng.
Về hình
thức hoạ có thể dựa hoàn toàn vào vần và trật tự các vần của bài xướng, hoặc
chỉ dùng một số vần và thay đổi trật tự của tất cả các vần như nhiều cách dưới
đây. Về phía bài xướng cần phải lưu ý đến sự thanh thoát, giầu xúc cảm về nội
dung và hết sức tránh các dạng bài có
hình thức quá phức tạp cùng với các vần quá hiểm, quá khó tìm thì mới mong có
được nhiều bài hoạ của mọi người.
XIII.1. Hoạ
nguyên vần
Hoạ nguyên
vần là bài hoạ phải theo sát chủ đề,
giữ nguyên vần và xếp vần theo đúng thứ tự vần của bài xướng.
Ví dụ:
Với
các vần: dân, dần, thân, thuần, dân trong bài Phó thường dân dưới đây
PHÓ THƯỜNG DÂN
(Bài xướng)
Từ ngày trở lại phó thường dân
Sáng đến đôi trang tăng trí não
Cơm rau dưa giá thanh mà ngọt
Phú quý mặc ai nơi huyện sở
Một mình vui cảnh phó thường dân
Với
các vần: dân, dần, thân, thuần, dân trong bài Với thường dân dưới đây
VỚI
BÌNH DÂN
(Hoạ bài Phó thường dân)
Người nào chẳng ở chốn bình dân
Cố nhớ đừng quên mất gốc dần
Phú quý quen mùi chừng khó bỏ
Nghèo hèn tập mãi chửa nên thân
Thẳng ngay, bộc trực, danh càng đẹp
Bình dị, thanh cao, tính cũng thuần
Cái sự làm mình ra khác lạ
Sao bằng trở lại với bình dân
XIII.2. Hoạ
ngược vần (nghịch vận)
Hoạ ngược
vần là bài hoạ giữ nguyên vần của
bài xướng nhưng xếp vần theo thứ tự từ cuối ngược lên đầu
Ví dụ:Với các vần:
thơ, giờ, sơ, chờ, thơ và ngược lại: thơ, chờ, sơ, giờ, thơ trong 2 bài thơ
dưới đây
GẶP BẠN THƠ
(Bài xướng)
Bao năm mới gặp bạn yêu thơ
Cả nước về vui suốt mấy giờ
Chẳng kể trẻ già cùng lớn bé
Cần gì cũ mới với thân sơ
Chia tay ngày ấy đành xa cách
Họp mặt hôm nay luống đợi chờ
Mấy thuở cuộc đời ta được vậy
Nỗi niềm xúc cảm gửi vào thơ
CHIA
CÁCH
(Hoạ bài Gặp bạn thơ)
Mấy
dòng giã biệt chép thành thơ
Tặng lại cho ai vẫn đứng chờ
Tiếc bởi tiễn đưa đầy quý mến
Trách vì chào đón quá đơn sơ
Vui khi thân mật chiều nay vậy
Buồn lúc chưa quen buổi bấy giờ
Chia cách đã gần trong chốc lát
Mấy dòng giã biệt chép thành thơ
Hoạ đảo vần là bài hoạ giữ nguyên vần của bài
xướng nhưng có thể đảo thứ tự trên xuống dưới hoặc dưới lên trên một vài vần
của bài xướng
THẮP
LỬA XONG RỒI GẮNG CHỦ TRƯƠNG
(Hoạ thơ
Nguyễn Văn Liêm)
Chẵn chục năm theo với luật Đường
Kinh Thầy bóng nước đã thơm hương
Ý tình nhã nhặn vang muôn nẻo
Cấu tứ thanh tao vọng bốn phương
Mỗi chữ chuốt chau chừng đã khéo
Từng câu giản dị vốn không thường
Nhân về dự hội đôi lời chúc
Thắp lửa xong rồi gắng chủ trương
GỬI VỀ NAM SÁCH VẠN YÊU THƯƠNG
(Hoạ thông, thơ Nguyễn Văn Liêm và Trần Thế Mẫn)
Mười năm bền chí với thơ Đường
Bóng nước Kinh Thầy thắm sắc hương
Đạo cốt thanh tao lời thánh thiện
Ý tình nhuần nhã dáng phong sương
Nhân văn phẩm hạnh vừa khai mở
Trí lực tâm tư đã khác thường
Một áng thơ mừng đầy ngưỡng mộ
Gửi về Nam Sách vạn yêu thương.
-
Bài Thắp lửa xong rồi gắng chủ trương
với các vần: Đường, hương, phương, thường, trương.
-
Bài Gửi về Nam Sách vạn yêu thương
với các vần: Đường, hương, sương, thường, thương.
Hai
bài trên được hoạ nguyên ý với các vần giống nhau: Đường, hương, thường cùng vị
trí và phương, trương, sương, thương ở các vị trí tuỳ ý.
Hoạ loạn
vần là bài hoạ giữ nguyên vần của
bài xướng nhưng có thể thay đổi tuỳ ý vị trí của tất cả các vần. (xem ví dụ
trên)
Hoạ lựa vần là bài hoạ chỉ dùng một vài vần của
bài xướng, các vần còn lại có thể thay đổi tuỳ ý người hoạ (xem ví dụ trên)
Hoạ nối vần là bài hoạ dùng cả câu cuối và vần của
bài xướng làm câu đầu và vần của bài hoạ.
Ví dụ:
GIAO
THỪA
(Bài xướng)
Giao thừa vẫn vậy khác gì đâu
Đêm lạnh trăng không dạ nhuốm sầu
Kẻ đến dùng dằng mong nán lại
Người về tấp tểnh muốn qua mau
Ai giao ai nhận ai giao nhận
Ai đến ai về ai tiếp sau
Cái sự luân phiên không sở cứ
Giao thừa vẫn vậy khác gì đâu
VỀ HƯU
(Hoạ bài Giao thừa)
Giao thừa vẫn vậy khác gì đâu
Đơn độc mình ta cạn chén sầu
Sáu chục mùa xuân sao thấy ngắn
Mấy mươi cái tết thật là mau
Về hưu đã hẳn ta qua trước
Ở lại đương nhiên bạn đến sau
Cõi thế xưa nay không chịu đổi
Giao thừa vẫn vậy khác gì đâu
Hai
bài trên được hoạ nguyên vần, câu cuối bài Giao
thừa là câu đầu bài Về hưu.
PHÓ THƯỜNG DÂN
(Bài xướng)
Từ ngày trở lại phó thường dân
Sáng đến đôi trang, tăng trí não
Cơm rau, dưa, giá thanh mà ngọt
Phú quý mặc ai nơi huyện sở
Một mình vui cảnh phó thường dân
VỚI BÌNH DÂN
(Hoạ bài Phó thường dân)
Người nào chẳng ở chốn bình dân
Cố nhớ đừng quên mất gốc dần
Phú quý quen mùi chừng khó bỏ
Nghèo hèn tập mãi chửa nên thân
Thẳng ngay, bộc trực, danh càng đẹp
Bình dị, thanh cao, tính cũng thuần
Cái sự làm mình ra khác lạ
Sao bằng trở lại với bình dân
SÁU MƯƠI
Sáu mươi lặng lẽ bước đường xa
Thoắt cái thời gian đã đến già
Khúc hát xông pha chưa kịp dứt
Bài thơ chiêm nghiệm mới vừa ra
Vườn xuân cứ hẹn kêu đi tới
Ngõ trúc khi cần đón lại qua
Muôn sự ngoài đời không vướng bận
Đôi dòng thi phú một hồn ta.
CẢ NƯỚC PHANG
(Hoạ bài Con chuột của Yên Thao)
Năm Hợi qua rồi năm Tý sang
Thời gian ngắn ngủi có vài gang
Hà Thành xuân đến còn phong kín
Văn Miếu thơ về chợt mở toang
Đạo chích gian tham cho xuống hố
Quan liêu mệnh lệnh nhét vào hang
Kẻ nào ngoan cố còn nằm đó
Gậy mới đang chờ cả nước phang
ĐỀN CHU VĂN AN CẢM TÁC
Núi Phượng chiều nay đỏ sắc cờ
Trường xưa hoa nở trò đang đợi
Điện mới thông reo khách vẫn chờ
Sửa đức can người lo vận hội
Khơi nguồn dạy trẻ tạo duyên cơ
Bên tường vẫn đó dòng xuân cảm
Đạo thánh gieo mầm vạn tứ thơ
NGHE ĐÀN
Gác nhỏ bên sông chợt ghé thăm
Đàn ai dìu dặt cất thanh âm
Vườn hồng tráng nắng hương còn nức
Lối cỏ mù sương lệ vẫn đầm
Vần vũ mây giăng chùa trước mặt
Nhạt nhoà khỏi phủ núi xa xăm
Rót hồn trên phím ai trăn trở
Dục khách qua đường nảy khúc ngâm
KHAO THƠ
Gặp buổi thanh nhàn đến với nhau
Cần chi nghèo khó với sang giầu
Me chua mấy quả, sôi trong nước
Muối lạc đôi hòn, trộn dưới âu
Chọn tứ, tìm câu mời tiếp chén
Lựa vần, sửa đối dục thay bầu
Thong dong cuối tháng lương chưa tới
Vẫn hẹn khao thơ đãi một chầu
XUÂN ĐẾN NHÀ
Xuân vừa chợt đến nở muôn hoa
Mừng được đông vui đủ trẻ già
Trong bếp đàn con đang sắp cỗ
Ngoài sân lũ cháu đợi chia quà
Nụ đào chúm chím hồng bên cửa
Cành lộc đu đưa biếc giữa nhà
Đôi khổ thơ xuân còn ướt mực
Một ly nước mới dậy hương trà.
HỘI XUÂN QUÊ
Một hội xuân quê mới mở ra
Chia vui khắp hết cả muôn nhà
Sân đu đầy chặt trai bên gái
Bãi vật chen nhau trẻ cạnh già
Đầu xóm hân hoan mùa đã gọn
Cuối thôn hể hả lúa thêm trà
Đất trời toả rộng hương no ấm
Ngàn tiếng ca vui giữa thái hoà.
CUỐI XUÂN CẢM TÁC
Xuân đã dần qua cuối tiết rồi
Gốc đào trước cổng đứng đơn côi
Tiếng chim sau núi lưa thưa hót
Bông gạo trên cành lặng lẽ rơi
Ánh nắng chiều vàng đang tụ lại
Vầng trăng đêm trắng sắp chia phôi
Giật mình mới đó mười năm lẻ
Một áng thơ buồn tỏ khúc nhôi
THỨC
Xa cách từ khi ấy đến nay
Quê xưa vẫn mãi ở tim này
Ai mơ muôn dặm đầy sương tuyết
Ta mộng lối về xanh cỏ cây
Đầu sáng mỏi mòn xem bóng nắng
Nửa chiều da diết ngắm chân mây
Nào ai biết được nhiều đêm thức
Trong lúc bao người đã giấc say.
MỘNG VỀ QUÊ
Bao núi bao sông đã lội qua
Đêm nay chợt nhớ đến quê nhà
Đầu ghềnh nước cũ chao lườn sóng
Cuối bãi trăng xưa rọi luống cà
Mái lá liêu xiêu nền đất ướt
Sân rêu vắng lặng vết chân nhoà
Trăm năm chớp mắt trôi qua cửa
Để lại bên song bóng nguyệt tà
THƯƠNG QUÊ GẶP NẠN
Nghe vỡ bao đê ở tỉnh nhà
Bão liền mấy trận thảy đều qua
Vuông tôm mới đắp không còn vết
Chạt muối chưa thu cũng chảy xoà
Sức vóc bao nhiêu đành mất cả
Công lênh ngần ấy cũng thôi hoà
Đành rằng hoạn nạn đâu không thế
Vẫn cứ đau riêng nỗi tỉnh nhà
RỪNG CHIỀU
Từng bước theo mây đến đỉnh đèo
Cúi mình ngó xuống giữa trong veo
Đôi dòng suối nhỏ dăng dăng chảy
Một vạt rừng non cuộn cuộn reo
Lấp loáng trên mây tung bọt trắng
Gập ghềnh dưới đá phủ xanh rêu
Hoang sơ cõi ấy kìa ai tạo
Để khách bâng khuâng giữa cảnh chiều
QUA BÃI KHÁCH XƯA
Mỗi ngày một trạm đã đi qua
Rừng rậm toàn cây chẳng có nhà
Võng vải treo lên đu bổng tít
Hoàng Cầm thắp đỏ khói luồn xa
Gió Lào thốc xuống ròn lưng áo
Sương muối trùm lên trắng mặt ga
Lờ mờ dọc suối lối chân qua
GẶP ĐƯỜNG DÂY CŨ
Rêu xưa cố bám bờ đen xám
Hiu hắt lều hoang đôi cột võng
Đường dây vẫn đó người không tới
QUA BẾN ĐẠI THAN
Chỉ thấy đay xanh kín bãi bồi
Bình Than ẩn bóng mé sông đôi
Bến xưa trống trận rung bao nhịp
Đền mới chuông trưa điểm mấy hồi
Nào thuở gươm thề nung thép chảy
Đâu thời hịch gọi cháy dầu sôi
Con đò cắt sóng qua dòng Cái
Hào khí Đông A lộng gió trời.
GỖ KHẢM LIÊN HÀ
Lưu truyền vốn cổ tự ông cha
Khảm tỉa soi châm vẫn nếp nhà
Rồng cuốn hổ nằm thâm sắc gụ
Công xoè phượng múa đỏ vân hoa
Mắt thầy khéo tạo hình muông thú
Chợt thấy hồn thơ trong thớ gỗ
Lung linh huyền ảo xứ Liên Hà
TRỞ LẠI CỔ LOA
Mấy chục năm rồi mải đó đây
Xuân nay về lại với nơi này
Thành xưa chặn giặc đang còn dấu
Giếng cũ gieo châu nước vẫn đầy
Chợ chẳng vơi đi mùa trám chín
Đền càng đầy chặt khói hương bay
Nỏ thần ngày ấy đi đâu mất
Để những hòn tên rỉ bám đầy
VẠN LÝ TRƯỜNG THÀNH
Vạn lý non sông vạn lý thành
Vồng lên dốc xuống lượn vòng quanh
Chon von đỉnh núi làn mây trắng
Bát ngát chân trời thảm cỏ xanh
Thảng thốt lòng khe con nước chảy
Bâng khuâng bậc đá mái đồn canh
Mang mang khí trận dường chưa tạnh
Xe cá về kinh gió vẫn tanh
HOA THU
Vườn ai cháy sáng giữa heo may
Khóm cúc vàng tươi nở đắm say
Thấp thoáng bầy ong đu dưới lá
Chập chờn đàn bướm lượn trong cây
Hương buồn mới thả tan vào gió
Màu nhớ vừa pha quyện dưới mây
Gợi nỗi cô đơn chiều vắng lạnh
Hoa thu người gửi vẫn còn đây.
CẢM THU
(Hoạ bài buồn thu)
Chiều quê nhè nhẹ toả hương may
Đôi chén sầu đong lắc chẳng đầy
Mái lá đáy hồ thoi thóp ngủ
Mảnh đò trên bãi lặng yên say
Đất trời vẫn cứ còn nguyên thế
Gió cát nào đâu đã đổi thay
Chẳng biết hôm nao vàng trút sạch
Để mầm xanh mới nảy nơi đây
ĐÊM THU
Bên trời vàng ủng ánh trăng suông
Từng đợt heo may gõ cửa buồng
Loáng thoáng trại xa đôi tiếng gáy
Chập chờn chùa cũ một hồi chuông
Thương con vạc trắng còn chưa ngủ
Giận lũ chim non đã động chuồng
Năm tháng mải mê chừng đã mỏi
Đêm thu dài rộng trải trên giường.
HOÀNG HÔN TRÊN SÔNG
(Bến Triều hè Đinh Hợi)
Hoàng hôn đã tắt cuối triền sông
Những chiếc sà lan chạy giữa dòng
Mấy khúc cuộn mình ôm sóng cả
Một đầu gầm rú vỡ thinh không
Giang sơn mấy độ qua chinh chiến
Đất nước từng phen đổ máu hồng
Muôn cuộc qua rồi không trở lại
Ngàn sau còn đó giữa mênh mông
BIẾT ĐÂU SỐ PHẬN
Nếu biết ta mình chẳng có duyên
Thì thôi đành vậy cố mà quên
Cúc vàng rời khỏi đồi Hoàng Cúc
Sen trắng quay về bến Bạch Liên
Buồn đó đợi qua kỳ cách biệt
Vui đây chờ đến lúc đoàn viên
Biết đâu số phận bày ra thử
Cố gắng kiên trì sự mới nên
CẢM XÚC SAO ĐỎ
(Hoạ thơ Nguyễn Tam Kỳ)
Thị trấn thanh xuân mới buổi nào
Thời gian thấm thoắt có là bao
Bước chân đi tới đường thêm rộng
Ánh mắt nhìn sang phố đã cao
Chợ mới hàng lên dòng cuộn chảy
Trường vui trẻ đến sóng sôi trào
Ba mươi năm ấy miền quê núi
Rực cháy huy hoàng một ánh sao.
Làm thơ vốn là công việc cả
đời của những người theo nghiệp văn chương. Cũng giống như cầy cấy gieo trồng
là công việc của người nông dân vậy. Cái sự làm thơ hay cầy cấy cho dù tài giỏi
đến đâu thì cũng phải tìm tòi, phải học mới làm tốt được. Những ngưòi không
hoàn toàn theo nghiệp văn chương nhưng lại yêu thơ và thích làm thơ nhưng chưa
có nhiều thời gian đi sâu tìm hiểu cách thức làm thơ thì đọc, viết và tìm hiểu
luôn cho những kết quả tốt đẹp. Khi ta đi sâu nghiên cứu mới thấy nhiều cái ta
còn nông cạn và thiếu hiểu biết dường bao.
Viết
được đôi điều trên ra giấy thực chất là sự cố gắng trong việc tìm đọc và xin
vắng mặt nhiều kiến thức của các tác giả đã viết ra trước đó trong giáo khoa và
trong các nghiên cứu đã được in thành sách. Trong đó còn có cả công sức của
nhiều người trong sự góp ý sửa chữa. Đáng quý hơn nữa là cho cả những sáng tác
tâm huyết của mình để làm mẫu. Xin được trân trọng cảm ơn tất cả và mong sự thể
tình cho những sai sót nếu có.
Về
phần nội dung của sách, cũng xin bày tỏ rằng với tinh thần hiểu thế nào thì
viết thế ấy, ngõ hầu để các bậc thi huynh, thi hữu cùng tiếp tục góp ý. Mong
sao một ngày không xa nữa có một tài liệu đơn giản, dễ hiểu và tốt hơn dùng cho
mọi người
Viết
xong tháng 6 năm 2002
Sửa lại tháng 11/2008
Lê Trọng Hồng
[1] Theo Lý luận văn học /trang 328 Nhà xuất bản giáo dục
[2] Theo lý luận văn học - NXB giaó dục
[3] Dân gian bài bác những người luôn máy móc từ hai vế đối: “Thần nông giáo dân nghệ ngũ cốc / Thánh sâu gươm vua gừng tam cò”
MỤC
LỤC
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét