Phần A
TÌM HIỂU VỀ THƠ LỤC BÁT
Giới
thiệu mở đầu.
Thơ lục bát
là thơ của Việt Nam, giống như thơ Đường luật của Trung Quốc, thơ Hai Ku của
Nhật Bản và nhiều thể thơ khác của các dân tộc trên thế giới. Thơ lục bát thân
thiết với tất cả mọi tầng lớp người Việt, sâu lắng và tinh tế trong biểu đạt
mọi trạng thái tư tưởng, tình cảm. Thơ lục bát nảy nở rực rỡ trong tục ngữ, ca
dao, hò vè các làn điệu dân ca nối dài từ đời này qua đời khác để rồi tồn tại
mãi mãi.
Thơ lục bát là thơ của một dân tộc, không lai
tạo bởi bất kỳ một thể thơ ngoại lai nào khác. Thơ dịu dàng và tha thiết giống
như tích cách của con người Việt Nam ta vậy. Thơ dễ làm, dễ thuộc và ai cũng có
thể làm được cho dù là người biết chữ hay không biết chữ. Một bài thơ lục bát
có thể dài đến vô cùng nhưng lại có thể ngắn đến chỉ là một cặp câu với mười
bốn chữ nhưng vẫn hội tụ đủ nội dung và nghệ thuật của một bài thơ.
I.
Những yếu tố chính của thơ lục bát
I.1. Luật thơ lục bát
I.1.1. Khái niệm về luật thơ lục bát
Thơ lục bát
được hình thành trước hết là bởi các nhóm
với sáu từ làm thành câu lục và tám từ làm thành câu bát. Các nhóm từ
này được ghép lại với nhau theo một quy tắc gọi là luật của thơ lục bát. Luật thơ lục bát bao gồm toàn bộ các
quy định về hiệp vần và sắp xếp từ ngữ, âm thanh trong các câu thơ. Luật thơ
lục bát được tóm tắt về sự sắp xếp từ ngữ trong câu lục theo thứ tự: Bằng,
bằng, trắc trắc, bằng, bằng. Đối với câu
bát các từ được xếp theo thứ tự: Bằng
bằng, trắc trắc, bằng bằng, trắc bằng.
I.1.2. Sơ đồ cơ bản của luật thơ lục bát
Qua rất nhiều
nghiên cứu của các thế hệ người Việt về thơ lục bát, chúng ta đã có nhiều phiên
bản về luật thơ lục bát qua các thời kỳ. Trong bài tìm hiểu này xin giới thiệu
một phiên bản có khá nhiều người tán đồng. Nếu ta gọi B là bằng và T là trắc ta
có sơ đồ luật thơ lục bát dưới đây
Vị trí
|
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
Câu lục
|
B
|
B
|
T
|
T
|
B
|
B
|
|
|
Câu bát
|
B
|
B
|
T
|
T
|
B
|
B
|
T
|
B
|
I.1.3. Giản lược về luật thơ lục bát
Nếu mỗi câu
thơ lục bát giữ đúng âm thanh bằng và trắc đúng như sơ đồ thì rất tốt. Tuy
nhiên nếu áp dụng một cách máy móc quá thường cũng khó tránh khỏi sự gượng ép
trong câu chữ và nội dung thơ. Người xưa đã nghiên cứu các vị trí âm thanh trên
sơ đồ và thấy rằng chỉ cần giữ đúng một số vị trí thì bài thơ vẫn đúng luật.
Cũng giống như công thức giản lược trong thơ Đường luật: “Nhất tam ngũ bất
luận, nhị tứ lục phân minh”. Nghĩa là chỉ cần các vị trí 2,4,6 giữ đúng âm
thanh bằng trắc là được, các vị trí 1,3,5 có thể tùy ý sắp xếp bằng trắc tùy tý
tác giả. Dưới đây là sơ đồ luật thơ lục bát giản lược.
Vị trí
|
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
Câu lục
|
-
|
B
|
-
|
T
|
-
|
B
|
|
|
Câu bát
|
-
|
B
|
-
|
T
|
-
|
B
|
T
|
B
|
I.2. Vần của thơ lục bát
I.2.1. Khái niệm về vần
I.2.1a Vần
giữa các từ
Lâu nay ta
luôn nói từ này vần với từ kia, câu này vần với câu kia, chúng ta sẽ cùng tìm
hiểu về vần qua một số ví dụ dưới đây.
Trước hết ta
nhận thấy các từ có thể khác nhau phần phụ âm đầu nhưng phần nguyên âm ghép với
phụ âm cuối của nhiều từ thường rất giống nhau. Những từ có phần sau giống nhau
khi đọc nên âm thanh phát ra cũng khá giống nhau, từ đó cho ta khái niệm từ này
vần với từ kia vậy.
Ví dụ: Ta có
2 từ quân và ngân
Hai từ quân và ngân đều có nguyên âm (â) ghép với phụ âm (n) ở cuối thành (Ân),
hoàn toàn giống nhau. Thế có nghĩa là quân
vần với ngân
I.2.1b Vần đúng và gần đúng (vần chính
và phụ)
+ Vần đúng (vần chính)
Vần đúng là
những vần có nguyên âm và phụ âm ghép sau nó giống hệt nhau chỉ khác bởi các
dấu của chúng, như vần (Ân) trong ví dụ trên.
+ Vần gần đúng (vần phụ)
Ngoài các cặp
từ có vần đúng còn có khá nhiều cặp từ có vần gần đúng, các cặp từ này có nguyên
âm giống nhau nhưng ghép với phụ âm cuối khác.
Ví dụ: Ta có 2 từ ngân và ngâm
Ân và âm chỉ hơi giống nhau nên gọi là vần gần đúng
I.2.1c. Vần giữa các nhóm từ.
Trước hết
chúng ta thống nhất với nhau hãy bỏ qua vấn đề văn phạm mà chỉ coi các ví dụ lấy
từ đồng dao dưới đây là các nhóm từ để khảo sát.
Ví dụ: Ta có các nhóm từ sau:
Ăn vóc,
học hay
Dung giăng dung giẻ, dắt trẻ đi chơi...
Thả đỉa ba ba,
chớ bắt đàn bà...
Các ví dụ
trên cho thấy các nhóm từ đều có các từ vần với nhau, khi thì chúng đứng cạnh
nhau như nhóm từ (Ăn vóc) và (học hay) vần bởi từ (vóc) và
(học). Khi thì ở vị trí cuối nhóm trước, cách một từ của nhóm sau như nhóm từ (Dung giăng dung giẻ) và (dắt trẻ đi chơi)
vần bởi từ (giẻ) và (trẻ). Khi thì ở vị trí cuối nhóm trước với vị trí cuối của
nhóm sau như nhóm từ (Thả đỉa ba ba) và (chớ bắt đàn bà) vần bởi từ (ba) và (bà) vv...
Những nhận xét trên cho thấy các nhóm từ vần với nhau thì đều phải có các từ
vần với nhau và đứng ở một vị trí nào đó trong các nhóm từ
Nếu ta coi
câu lục, câu bát là hai nhóm từ và chúng vần với nhau thì nhất thiết trong
chúng phải có các từ vần với nhau. Điều cần thiết là chúng ta phải tìm ra các
từ của câu lục vần với câu bát như thế nào và vị trí của nó sắp xếp ra sao.
I.2.2. Vần của một cặp câu lục bát
I.2.2a. Ví dụ về vần của một cặp câu lục bát
Thơ lục bát
có cấu trúc trước hết là một cặp hai câu thơ liền nhau, câu trên 6 từ, câu dưới
8 từ. Cặp câu này vần với nhau theo một quy luật cụ thể.
Ví dụ 1:
Câu thơ lục bát đâu rồi
Đi tìm bạc tóc chưa thôi
đi tìm
Ví dụ 2:
Trời
đất rộng, núi non cao
Tự do tự tại lẽ nào chẳng vui
Trong ví dụ
1, từ (rồi) cuối câu lục vần với từ (thôi) ở vị trí thứ 6 câu bát. Trong ví dụ
2, từ (cao) ở cuối câu lục vần với từ (nào) ở vị trí thứ 6 câu bát. Đây chính
là sự hiệp vần giữa 1 câu lục với 1 câu bát lập thành 1 cặp câu lục bát. Sự kết
nối trên chính là sự kết nối về vần trong thơ lục bát.
I.2.2b. Sơ đồ vần trong một cặp câu lục bát
Vị trí
|
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
Câu lục
|
B
|
B
|
T
|
T
|
B
|
B
|
|
|
Câu bát
|
B
|
B
|
T
|
T
|
B
|
B
|
T
|
B
|
Vần
|
|
|
|
|
|
V
|
|
|
I.2.3. Vần của hai cặp câu lục bát liền nhau
Những bài thơ
lục bát thường có nhiều cặp câu lục bát hợp lại. Sự kết nối của các cặp câu lục
bát thông qua hiệp vần giữa chúng với nhau chính là cơ sở hình thành bài thơ
lục bát.
I.2.3a. Ví dụ về vần giữa các cặp câu lục bát
Ví dụ:
Nơi đâu mình đã xé rào
Giấu cha, giấu mẹ để vào vườn sau
Nơi đâu mình đứng cùng nhau
Trên môi còn nụ hôn đầu đắm say
Trên đây là 2
cặp câu lục bát liền kề nhau với từ cuối câu bát (sau) của cặp trước vần với từ
cuối (nhau) câu lục của cặp sau.
Kết luận
Thơ lục bát
là tập hợp nhiều cặp câu lục bát vần với nhau theo một cách thức duy nhất đó là
từ cuối của câu bát cặp câu lục bát đứng trước vần với từ cuối của câu lục cặp
câu lục bát đứng sau.
I.2.3b. Sơ đồ vần của 2 cặp câu lục bát liền nhau
Vị trí
|
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
Câu lục 1
|
B
|
B
|
T
|
T
|
B
|
B
|
|
|
Câu bát 1
|
B
|
B
|
T
|
T
|
B
|
B
|
T
|
B/v
|
Câu lục 2
|
B
|
B
|
T
|
T
|
B
|
B/v
|
|
|
Câu bát 2
|
B
|
B
|
T
|
T
|
B
|
B
|
T
|
B
|
I.3. Các loại vần trong thơ lục bát
Vần trong thơ
lục bát được đặt tên theo nhiều cách, như dựa vào vị trí của vần trong câu, dựa
vào thanh âm, thậm chí vần còn có tên mô phỏng theo thân thể con người.
I.3.1 Vần đặt tên theo vị trí
Mỗi từ trong
câu được xếp theo thứ tự 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8. Từ đó cho thấy vần ở vị trí
thứ mấy thì gọi tên theo thứ tự đó. Người ta cũng gọi vần ở các khoảng đầu,
giữa, cuối của câu thơ, từ đó ta có vần đầu, vần giữa, vần cuối
Ví dụ:
Câu thơ lục bát đâu rồi
Đi tìm bạc tóc chưa thôi đi tìm
Ví dụ trên từ
(rồi) ở vị trí thứ 6 và cũng là vị trí cuối của câu lục, vần với từ (thôi)
nhưng lại ở vị trí thứ 6 trong câu bát.
I.3.2. Vần đặt tên mô phỏng theo thân người
Với cách viết
của chữ nho xưa theo hàng dọc, từ đó những chữ trên cùng là đầu, chữa ở giữa là
lưng và dưới cùng là chân, giống như thân người đứng thẳng. Chính từ đây ta có vần
lưng, vần chân. (người xưa gọi là vần lưng là yêu vận và vần chân là cước
vận)
Ví dụ:
Tưởng rằng đáy bể mò kim
Ở ngay
trước mắt còn tìm lạ chưa
Trong ví dụ
trên (kim) là vần chân, (tìm) là vần lưng
I.3.3. Vần đặt tên theo thanh âm
I.3.3a Vần bằng
Các từ có thanh
huyền và thanh không nằm trong cấu trúc vần thì đều là vần bằng.
Ví dụ:
Nghe
câu ru giữa đêm mưa
“Con
cò lặn lội” còn chưa giấc tròn
Tiếng
ai tha thiết bồn chồn
Mấy
mươi năm tưởng lối mòn đã quen
Ví dụ trên (mưa)
và (chưa) là những vần bằng thanh không, (chồn) và (mòn) là những vần bằng
thanh huyền
I.3.3b. Vần trắc
Các từ có
thanh sắc, nặng, hỏi, ngã nằm trong cấu trúc vần thì đều là vần trắc.
Ví dụ 1:
Bao
đêm em ngồi trên bến
Em
chờ anh đến suốt cả năm canh
Ví dụ 2:
Suốt
đêm ngồi bên ngọn nến
Em
chờ, em đợi anh đến thăm em
Ví dụ 3:
Bên
sông trăng soi vằng vặc
Người
về bỏ mặc ai đứng bên sông
Ví dụ 4:
Đường xa người đi đã mỏi
Dừng chân nghỉ lại để hỏi thăm đường
Ví dụ 5:
Chớ tin sắc màu rực rỡ
Để rồi bỏ lỡ
hạnh phúc ngày mai
Với các ví dụ
trên đây các từ in đậm đều là những vần trắc với các thanh sắc, nặng, hỏi, ngã
II. Thanh âm và nhịp điệu của thơ lục bát
II.1. Sử dụng thanh âm trong thơ lục
bát
Tất cả các từ trong thơ lục bát đều là những
thanh âm nằm trong cấu tạo của ngôn ngữ tiếng Việt. Thanh âm được hình thành
bởi những chữ cùng với dấu của nó (có cả trường hợp không dấu). Có đến 6 thanh
âm khác nhau, trong đó thanh không, thanh huyền thuộc thanh bằng. Các thanh còn
lại như thanh sắc, hỏi, ngã, nặng đều thuộc thanh trắc. Mỗi thanh đều có một
cấp độ cao thấp khác nhau nên khi ta đọc lên ta thấy hình như đó là những giai
điệu trong các bài hát. Bài thơ dễ thuộc, dễ nhớ và khơi dậy những xúc cảm dịu
dàng hoặc bi tráng. Hiểu rõ điều này chính là cơ sở cho việc tiếp cận với thơ
lục bát thuận lợi hơn, bởi luật thơ lục bát chính là sự sắp xếp thanh âm ở các
vị trí trong các câu thơ
II.2. Tránh khổ độc
Như trên đã
nói trong hệ thống tiếng Việt của ta có 6 thanh khác nhau căn cứ bởi các dấu,
trong đó gồm:
Thanh huyền;
thanh không dấu; thanh sắc, thanh nặng, thanh hỏi, thanh ngã. Đừng nghĩ rằng cứ
là bằng thì (không) hay (huyền) cũng vậy. Nếu sắp xếp không khéo thì câu thơ
đọc lên rất ngang, xưa gọi là khổ độc, để tránh điều này ta cần chú ý các
trường hợp sau:
Vị trí thứ 6
và thứ 8 cùng bằng nhưng không được xếp cùng thanh không hoặc cùng thanh huyền.
II.3. Ngắt nhịp trong thơ lục bát
Thơ lục bát
dùng nhịp điệu khá thoáng kể cả câu lục và câu bát. Ngoài những yếu tố bắt buộc
phải có tiểu đối như ở câu lục thì nhịp điệu của cả câu lục và câu bát đều có
các nhịp xen kẽ với nhau tùy theo ý thơ. Dưới đây là một số ví dụ về nhịp điệu
trong thơ lục bát.
II.3.1. Ngắt nhịp 2 của câu lục và câu bát
Thơ lục bát
có 2 nhịp cân bằng thường có dạng đối chọi giữa 2 vế. Đó cũng chính là cấu trúc
tiểu đối khá phổ biến ở cả lục bát chính thể và lục bát biến thể. Ngắt nhịp
theo phương pháp này mang tính so sánh để làm nổi bật nội dung mà người viết
xét thấy cần thiết. Ví dụ dưới đây có cấu trúc 2 nhịp với 3 từ trước và 3 từ
sau ở câu lục và 4 từ trước, 4 từ sau ở câu bát.
Ví dụ:
Làn thu thuỷ / nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm / liễu hờn kém xanh
Truyện Kiều - Nguyễn Du
Nhip 2 không
đều cũng xuất hiện nhiều không kém với các cấu trúc 2/ 4.
Ví dụ:
Khát đời / khát một vùng quê
Mà không còn dịp được về tận nơi
Người về thôn Vỹ - Trọng Hồng
II.3.2. Ngắt nhịp 3 của câu lục
Các trường hợp có 3 nhịp đều nhau với cấu trúc
2/ 2/ 2 ở câu lục của cả thơ cũng như ca dao, tục ngữ cũng khá quen thuộc.
Ví dụ:
Sớm tìm / phận đẹp / duyên ưa
Để em quên
nỗi niềm xưa với người.
Lục bát trong mơ - Trọng Hồng
Ngoài ra càng
không thiếu loại 3 nhịp không đều trong câu bát, đấy là những cấu trúc 2/ 2/ 4.
Hoặc cấu trúc 4/ 2/ 2 trong câu.
Ví dụ:
Ru con con
ngủ cho muồi
Nước non chưa gánh / mẹ ngồi / mẹ ru
Tục ngữ ca dao Việt Nam
II.3.3. Ngắt nhịp 4 của câu bát
Trong câu bát
có thể có đến 4 nhịp, mỗi nhịp 2 từ với kết cấu 2/ 2/ 2/ 2 như ví dụ dưới đây.
Ví dụ:
Nhớ khi ngồi
gốc cây hồng
Biết đâu / có lúc / lạnh lùng / gốc đa
Lục bát trong mơ - Trọng Hồng
III. Thơ lục bát phá luật
III.1. Khái niệm về thơ lục bát phá luật
Các phần tìm
hiểu trên đã nói khá kỹ về luật thơ luc bát. Đây cũng chính là luật dùng cho
thơ lục bát chính thể. Cứ như luật trên thì khá nhiều những ý thơ và từ ngữ cần
có trong thơ lại không đáp ứng được, nhất là tên địa phương, tên người và nhiều
cử chỉ khác trong hành văn cứ phải dùng từ thứ 2 là thanh trắc và từ thứ tư là
thanh bằng. Đặc biệt là từ cuối câu lục trong luật là vần và lại phải là thanh
bằng nay bỗng nhiên phải đổi thành vần trắc. Đó chính là nguyên nhân sự xuất
hiện thơ lục bát phá luật.
III.2. Những dạng thơ lục bát phá luật
III.2.1. Lục bát phá luật bởi vần trắc
Có rất nhiều
các bài thơ lục bát dùng vần trắc, đây chính là dạng phá luật bới từ thứ 6 theo
luật phải là vần bằng nay lại là trắc
Ví dụ:
Suốt
đêm ngồi bên ngọn nến
Em
chờ, em đợi anh đến thăm em
Ví dụ:
Đường xa người đi đã mỏi
Dừng chân nghỉ lại để hỏi thăm đường
Các vần (nến)
và (mỏi) chính là các vần trắc. Điều đó khảng định đây là dạng: Phá luật vần trắc
III.2.2. Lục bát phá luật nhị trắc
Dạng phá luật
thường xuất hiện đó là từ thứ 2 của câu lục từ bằng giờ đây là trắc
Ví dụ:
Trời
đất rộng, núi non cao
Tự do tự tại lẽ nào chẳng vui
Toàn bộ câu thơ
lục bát trên nếu đối chiêu với Lục bát giản lược thì duy nhất chỉ có từ thứ 2
(đất) là yếu tố phá luật. Ta gọi là: Phá
luật nhị trắc
III.2.3. Lục bát phá luật tứ bằng nhị trắc
Dạng phá luật
thứ 2 xuất hiện đó là từ thứ 2 từ bằng giờ đây là trắc, từ thứ 4 trắc giờ đây
là bằng
Ví dụ:
Khi tựa gối khi cúi đầu (truyện Kiều)
Ví dụ:
Khi chén rượu, khi cuộc cờ (truyện Kiều)
Qua ví dụ trên ta thấy vị trí 2 và 4 trong câu thơ đã thay đổi ngược
lại. Ta gọi là: Phá luật tứ bằng nhị trắc
III.2.4. Một số nét bàn về phá luật nhị trắc
Rất nhiều
người cho rằng đã làm thơ lục bát thì nên cố gắng viết thơ lục bát chính thể.
Những bài thơ lục bát phá luật như dạng nhị trắc thường bị chê và ít sử dụng.
Tuy nhiên nhiều nhà thơ lớn và nhất là cụ Nguyễn Du thì các câu thơ gọi là phá
luật thật là đắc dụng. Nếu thống kê đầy đủ các câu thơ phá luật các dạng của cụ
trong Truyện Kiều thấy rằng số lượng quả không nhỏ.
Tuy nhiên mỗi
trường hợp dùng từ thứ 2 là thanh trắc thì bao giờ cụ cũng thiết kế câu thơ ở
dạng tiểu đối, nghĩa là ngay trong câu thơ ấy đã hình thành 2 vế đối chọi với
nhau.
Ví dụ:
Người quốc
sắc / kẻ thiên tài
Mai cốt cách/
tuyết tinh thần
Từ câu thơ trên nửa đầu là: người
quốc sắc đối với kẻ thiên tài. Hoặc
như câu thơ dưới: Mai cốt cách đối
với tuyết tinh thần
Dưới đây là
một số ví dụ phá luật nhị trắc trích từ Truyện Kiều của Nguyễn Du để mọi người
tham khảo.
Người một
nơi, hỏi một nơi
Khi gió gác,
khi trăng sân
Khi tựa gối,
khi cúi đầu
Khi khóe
hạnh, khi nét ngài
Khi chén rượu,
khi cuộc cờ
Mai cốt cách,
tuyết tinh thần
Nền phú hậu,
bậc tài danh
Người quốc
sắc, kẻ thiên tài
Người nách
thước, kẻ tay dao
Đồ tế nhuyễn,
của tiêng tây
Duyên hội
ngộ, đức cù lao
Tin nhạn vẩn,
lá thư bời
Khi tỉnh
rượu, lúc tàn canh
Người yểu điệu,
kẻ văn chương
Thêm nến giá,
nối hương bình
Tuy nhiên cũng có những câu thơ dùng phá luật nhị trắc nhưng không dùng
tiểu đối. Đây là 1 trường hợp câu thơ được áp dụng trong trạng thái tác giả đau
đớn đến cùng cực than cho số kiếp của
người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc
mệnh cũng là lời chung...
Một trường hợp hy hữu khác nữa mà Nguyễn Du đã viết đó là lời mắng mỏ
đến gay gắt của Hoạn thư trước người hầu Hoa nô Thúy Kiều. Câu thơ như bóc trần
thói kệch cỡm kẻ cả trong thủ đoạn hại người do họ Hoạn đã bày ra.
Sao chẳng biết ý tứ gì
Cho chàng buồn bã tội thì tại
ngươi...
Những gì mà mọi người thấy được là việc vận dụng thơ lục bát chính thể
hay thơ lục bát phá luật đều nằm trong tầm tay người viết. Đừng câu chấp điều
gì để thơ hay đến được với mọi người.
IV. Thơ lục bát biến
thể
IV.1. Khái niệm về thơ
lục bát biến thể
Thơ lục bát biến thể chính là các bài thơ có cách gieo vần và hiệp vần
khác với luật thơ lục bát chính thể. Đặc điểm của lục bát biến thể là từ thứ
sáu của câu lục hiệp vần với từ thứ 4 của câu bát Thường thường thơ lục bát
biến thể hay đi kèm với lục bát phá luật.
IV.2. Lục bát biến thể vần bằng
Thơ lục bát
biến thể dùng vần bằng khá phổ biến trong các sáng tác từ trước đến nay với
những ví dụ dưới đây.
Ví dụ:
Thanh
niên việc xóm xông pha
Phụ nữ việc nhà
việc hội giỏi giang
Trong câu thơ
lục bát trên từ thứ sáu (pha) của câu lục hiệp vần với từ (nhà) của câu bát. Câu
thơ trên cũng đi kèm với dạng phá luật ở câu bát với các từ (nữ và hội) từ bằng
thành trắc. Đây chính là dạng thơ lục bát biến
thể vần bằng
IV.3. Lục bát biến thể vần trăc
Trong các sáng tác thơ lục bát không hiếm những bài thơ biến thể vần
trắc. Nghĩa là vần trắc của câu lục cũng hiệp vần với từ thứ 4 của câu bát
Ví dụ:
Bao
đêm em ngồi trên bến
Em
chờ anh đến suốt cả năm canh
Trong câu thơ
trên từ thứ sáu (bến) của câu lục hiệp vần với từ thứ tư (đến) của câu bát. Câu
thơ lục bát trên đây vừa là dạng lục bát biến thể kèm theo phá luật ở cả câu
lục và câu bát. Đây chính là dạng thơ lục bát biến thể vần trắc
IV.4. Cứu cánh của lục bát biến thể
Khi làm thơ lục bát ít người để ý đến thế nào là chính thể và thế nào
là biến thể. Tuy nhiên với lục bát chính thể câu thơ có vẻ như mềm mại hơn, còn
lục bát biến thể có vẻ như rành rẽ hơn và khá thú vị là giúp cho ta trong những
cơn vế tắc của sự dàn trải trong thơ. Chính vì vậy mà những người có thể chinh
phục được tất cả các dạng thơ này dễ đến được với đỉnh cao của thơ lục bát
V. Điều cần tránh trong làm thơ lục bát
V.1. Sử dụng vần hợp lý trong thơ lục bát
Thơ lục bát
thường dùng vần bằng, rất ít dùng vần trắc. Những bài thơ lục bát hay nhất
thường dùng các vần chính hoặc các vần gần đúng và không rơi vào trạng thái lạc
vần. Đặc biệt là không phạm các lỗi trong hiệp vần như các trường hợp dưới đây.
V.2. Sử dụng vần chính
Ví dụ:
Tưởng như mình viết rất nhiều
Thế mà cũng chỉ vài điều
thế thôi
Với vần (iêu)
trong nhiều và vần (iêu) trong điều của 2 câu trên ta thấy chúng giống
hệt như nhau, ta gọi là vần chính. Những người làm thơ lục bát càng gắn bó với
vần chính trong thơ thường gặt hái được nhiều thành công nhất
V.3. Sử dụng vần gần đúng (vần phụ)
Ví dụ:
Bỗng đâu nói nói cười cười
Những thương cùng nhớ thế rồi lại đi.
Với vần (ời)
trong cười và (ồi) trong rồì chỉ gần giống nhau. Tuy vậy ta cũng
vẫn có thể coi 2 câu trên vần với nhau,
ta gọi đó là câu có vần gần đúng.
V.4. Nên dùng vần bằng tránh dùng vần trắc
Về cơ bản thơ
lục bát chỉ có vần bằng, nhưng ta cũng gặp khá nhiều bài lục bát vần trắc như
đã nói ở trên. Tuy nhiên vần trắc sử dụng nhiều hơn cả là trong ca dao, tục ngữ.
Qua tìm hiểu nhiều bài thơ thấy rằng cũng nên dùng vần bằng và tránh dùng vần
trắc trong thơ lục bát.
Ví dụ:
Bao đêm em ngồi trên bến
Em chờ anh đến
suốt cả năm canh
Nếu có thể
thay bằng cặp câu sau thì vẫn đủ ý mà lại không phải dùng vần trắc:
Bao đêm trên bến trông ai
Mỏi mong chờ đợi kéo dài năm canh
V.5. Tránh lạc vần
Khá nhiều câu
thơ không những không theo vần chính và cũng không dùng vần gần đúng. Các từ ở
vị trí gieo vần được thay bằng những từ có vần khác hẳn
Ví dụ 1:
Xa quê từ ấy đã lâu
Lòng ta khao khát
những mong trở về
Vần (lâu)
cuối câu lục chẳng hề vần với (khát) ở vị trí 4 và (mong) ở vị trí 6 trong câu
bát như ví dụ 1; hoặc vần (này) không vần với (sang) trong câu 2 và câu 3 của
ví dụ 2.
Ví dụ 2:
Người về bên ấy xa xôi
Mải mê công việc bỏ tôi bên này
Ngày mai tôi sẽ tìm sang
Bắt đò ngược nước để mang người về
Khi đọc những
câu thơ như trên ta thấy nó trúc trắc, không liền mạch và khó thuộc, khó gieo
sự cảm hứng cho độc giả khi tiếp nhận nội dung nghệ thuật bài thơ.
V.6. Tránh trùng vần
Những câu thơ
lạc vần đã cho ta những sản phẩm không êm dịu lắm và rất khó thuộc, nhưng nếu
nhiều vần trùng nhau cũng chẳng tốt hơn.
Ví dụ:
Đã
từng lội suối trèo non
Đã
từng uống nước ở con sông đào
Đã từng ăn một trái đào
Giữa
nơi tiên giới mà nào có hay
Ai
ơi, ai hỡi có hay
Cõi
tiên thế cũng bằng nay cõi người
Vần (đào) ở
câu 2 và câu 3, hoặc vần (hay) câu 4 và câu 5 trên đây cho thấy các câu thơ trùng vần khi đọc lên nghe
hơi ngang và gượng gạo.
V.7. Tránh điệp vần
Nhiều bài thơ
lục bát tuy không trùng vần giữa 2 cặp câu như trên nhưng chỉ mới cách vài câu
lại trùng vần cũng là thiếu sót nên tránh.
V.8. Tránh dùng chung vần trong câu.
Ví dụ:
Thấy người
có nét cười tươi
Đoán người
chắc chỉ hai mươi tuổi đời
Ngay trong
một câu lục hoặc câu bát có khi có đến 3 vần (ươi) giống nhau như (người, cười,
tươi) trong câu lục, hoặc như (người, mươi, đời) trong câu bát trên đây. Câu
thơ ngang và gượng, khi đọc lên chẳng có nhạc điệu, khiến người đọc quên ngay
sau đó.
VI. Xướng hoạ thơ lục bát
Thơ lục bát
cũng có thể xương hoạ như một số thể thơ khác cùng với những quy tắc riêng, tuy
nhiên những bài lục bát xướng hoạ thường ngắn. Ngoài xướng hoạ đôi khi các tác
giả còn nối thơ hoặc nhại thơ, trên thực tế đây là những cách hoạ thơ không cần
theo đúng quy định mà chỉ cốt tỏ sự thân mật và đồng cảm giữa những người bạn
thơ với nhau, dưới đây là một số dạng hoạ thơ lục bát.
VI.1. Những quy định trong hoạ thơ lục bát
Hoạ thơ lục
bát trước hết là việc phải bám sát chủ đề bài xướng thể hiện rõ tình cảm của
người hoạ với người xướng thơ. Khi đã theo sát chủ đề bài xướng thì cũng nên
phân đoạn theo bài xướng. Khi bài hoạ theo một chủ đề khác với bài xướng thì
cấu trúc phân, đoạn cũng vẫn nên bám sát. Nếu có thể cũng nên giữ đúng nhịp
điệu.
VI.2. Hoạ thơ với 1 vần chân
Hoạ thơ lục
bát với 1 vần chân thường là dễ hoạ, lối hoạ này chỉ dùng vần chân của bài
xướng để hoạ. Nhất thiết không để 2 bài có sự trùng lặp từ thứ 5 câu lục và từ
thứ 7 (từ gạch chân) câu bát.
Ví dụ:
RA ĐI
(Bài xướng)
Nhớ
quê tranh thủ về quê
Xa
xôi cách trở khó về làm sao
Nhớ
xanh dòng nước sông đào
Nhớ
vàng con dốc đường vào bến sông
Nhớ
chiều mưa nước long bong
Biết
bao thương nhớ đợi trông u hoài
Trong
mơ rộn ra tiếng cười
Bước
chân bin rịn lòng người ra đi
NHỚ QUÊ
(Bài hoạ)
Nhớ
quê ta lại thăm quê
Ra
đi cho chán rồi về đó sao (!)
Những
năm lửa cháy, bom đào
Bao
người ngã xuống máu trào trên sông
Ra
đi dứt áo, trắng bong
Cả
đời chẳng chút mỏi mong đoái hoài
Bỗng
đâu nói nói cười cười
Những
thương cùng nhớ thế rồi lại đi.
VI.3. Hoạ thơ với
cả vần chân và vần lưng
Hoạ thơ lục
bát với cả vần chân và vần lưng có hơi khó hơn một chút. Quy tắc hoạ chỉ cần
không để 2 bài bị trùng lặp từ thứ 5 của câu lục, từ thứ 5 và thứ 7 (chữ gạch chân) của câu bát. Dưới đây là bài hoạ
với cả vần chân và vần lưng thơ lục bát
HÀNG
XÓM
(Bài xướng)
Em là hàng xóm của TÔI
Kể từ cha mẹ hẹn lời đầu XUÂN.
Gặp đâu chỉ có một lần
Thế rồi đồng ý kết THÂN
hai NHÀ.
Bên kia trồng một vườn CÀ
Bên này mua một đàn GÀ về NUÔI
Đầu năm mua muối chung đôi
Cuối năm góp vốn mua VÔI sửa NHÀ.
MONG
ĐƯỢC CÓ ĐÔI
(Bài hoạ)
Hỏi
người có nhớ đến TÔI
Từ
khi bén tiếng, trao lời đêm XUÂN
Tìm
nhau không biết bao lần
Chỉ
mong gặp mặt thành THÂN một NHÀ
Dẫu
trong nghèo túng dưa CÀ
Thể
nào anh cũng mua GÀ để NUÔI
Chỉ
mong mình được có đôi
Ngăn
phòng hạnh phúc quét VÔI dọn NHÀ
VI.4.
Một số cách hoạ khác
VI.4.1
Hoạ chắp vần.
Đây là sự vận
dụng theo lối đối đáp khi hát giao duyên ở vùng đồng bằng sông Hồng và hò đối
đáp ở các vùng ven sông, ven biển miền Thanh Nghệ. Với cách hoạ này người ta có
thể sử dụng toàn bộ câu lục hoặc toàn bộ câu bát, các câu còn lại ứng hoạ theo
vần. Cách hoạ giống như việc sử dụng chung câu lục của 2 bài dưới đây.
Ví dụ:
GỬI VÀO TRĂNG
Đã quay mấy vạn năm rồi
Vầng trăng vẫn ở trên trời cả năm
Khi trăng khuyết lúc trăng rằm
Trăng khi đầu tháng gọi bằng trăng non
Trăng suông cho dạ bồn chồn
Trăng già gớm giếc héo mòn nỗi riêng
Trăng lu bóng đổ xiên xiên
Trăng xanh vằng vặc còn nguyên giữa trời
Bóng trăng che kín cuộc đời
Bóng trăng tê tái lòng người mỏi mong
GỬI
LÊN TRĂNG
Đã quay mấy vạn năm rồi
Còn ta đâu thể ra ngoài trăm năm
Khi trăng khuyết lúc trăng rằm
Xuân xanh em vẫn thưa rằng còn non
Trăng suông cho dạ bồn chồn
Anh chờ em đã héo mòn tình riêng
Trăng lu bóng đổ xiên xiên
Dáng ai vẫn cứ đứng nguyên bên trời
Bóng trăng che kín cuộc đời
Thương ai chung thuỷ vì người chờ mong
VI.4.2. Hoạ nối vần
Cách hoạ nối
vần thường không buộc phải theo đúng vần của bài xướng mà chỉ tạo ra một vần
mới, hiệp vần với vần của bài xướng.
Ví dụ:
Nghe đồn anh giỏi văn chương
Đố anh biết cỏ ven đường mấy cây
Em
về hỏi mẹ cùng thầy
Nồi
hương bao cát cỏ dầy bấy nhiêu
VI.4.3. Hoạ nhại vần
Cách hoạ nhại
vần cho phép láy lại vần bài xướng kể cả từ đứng trước vần, tuy nhiên về nội
dung thì phải bám sát chặt chẽ và vận ý đối đáp với bài xướng, tựa như một bên
hỏi và bên kia trả lời vậy.
Ví dụ:
HOA
VIẾT CHO HOA
(Tặng thơ hoa Cúc)
Em
như giọt nắng hoa vàng
Rọi
trên trang giấy nhẹ nhàng thế thôi
Giá
như em đã cùng tôi
Xem
chung gương ở cái hồi thanh xuân
Chắc
rồi vần đã nối vần
Dắt
nhau đi đến trong ngần vườn tiên
Nỗi
niềm dù đã rất riêng
Mặc
ai rào đón phải kiêng "Hoa hồng"
"Sáu
mươi" người có còn không (!)
Để
ta mang lá trầu không đến nhà
Cứ
mong "Trẻ mãi không già"
Thế
rồi đến lúc sẽ là "... Tròn trăm "
Yêu
người ta viết lời thăm
Để
câu thơ với tháng năm đợi chờ.
HOA
VIẾT CHO HOA
(Hoa Cúc nhại
vần)
Nhởn
nhơ tắm ánh nắng vàng
Hương
thơm Cúc chỉ nhẹ nhàng thế thôi
Ngày
xưa hoa đã cùng tôi
Cài
duyên mái tóc từ hồi hoa xuân
Câu
thơ ai chắp mà vần
Ngõ
riêng ta đã trong ngần tình riêng
Tuy
hoa không nở vườn tiên
Không
ngào hương sắc chỉ kiêng “hoa hồng”
Đầy
vườn bát ngát những bông
Còn
mong chi lá trầu không đến nhà
Vô
tư chờ đón tuổi già
Thêm
vài chục nữa chắc là lẻ trăm
Quý
người ta muốn tới thăm
Ngõ
cài then chặt xa xăm biển chờ
Bài nhại chỉ
thay vần (bông) vào (không) và vần (xăm) vào (năm) của bài xướng, các vần còn
lại đều giống nhau
Phần B
THƠ LỤC BÁT DÙNG LÀM VÍ DỤ
CHỢ
TÌNH
(Kỷ niệm SaPa)
Vẫn còn có một chợ tình
Để nguôi đi chuyện của mình ngày xưa
Tháng năm lòng cách, mặt thưa
Có bao điều vẫn còn chưa cất lời
Hương đêm tĩnh lặng, bồi hồi
Nói câu cuối nữa để rồi chia xa.
NGUYÊN
CỚ
Vẫn còn có một vần thơ
Để cho ta gửi ước mơ tuổi già
Chỉ yêu một chút thôi mà
Ngờ đâu bà lão ở nhà đánh ghen.
QUA
HUẾ NHỚ VỀ THÔN VỸ
(Huế 7/2005)
Mong về thôn Vỹ từ lâu
Mấy ngày thăm Huế sao mau thế này.
Những bông hoa bắp gió lay
Bờ tường cao, lá trúc dày che ngang
Một màu ngọc biếc mênh mang
Chỉ còn có mỗi một hàng cau thôi
Em hoà vào với đất trời
Trắng trong sương khói để rồi tan đi
Người về thôn Vỹ làm chi
Đợi khi trăng mọc, chờ khi trăng về
Khát đời, khát một vùng quê
Mà không còn dịp được về tận nơi
Bẩy mươi năm đã qua rồi
Vần thơ còn đó con người về đâu!
KHẮC
KHOẢI KIỀU
(Hồ Tây 5/ 1999)
Mở Kiều nhớ cụ Nguyễn Du
Một cơn mưa trắng chiều thu bên hồ
Từng trang giấy cũ lu mờ
Kim, Vân, Kiều tự bao giờ đầy vơi
Hợp tan, tan hợp một đời
Ngày xưa cũng đã thế rồi lạ đâu
Ngẫm lời người viết đã lâu
Vận vào, mọi cái biết đâu vuông tròn
Hỏi rằng mai sự có còn…
Câu thơ tê tái bồn chồn lòng nhau
Những điều người đã đớn đau
Đời còn khắc khoải muôn sau với Kiều.
MƯA
XUÂN
(Bến Than 1983)
Dường như trời ấm lại rồi
Nhìn ra cuối bãi cả trời đang mưa
Áo em lấm tấm hạt mưa
Ai đem ngọc dát trên tơ óng vàng
Cỏ xanh phủ kín mặt đường
Bến sông con nước vấn vương tình
người
Em vừa rời bến đi rồi
Chỉ còn trước mặt một trời mưa xuân.
XÍCH
LÔ ĐÊM HUẾ
(Sông Hương 7/2005)
Vòng xe lăn lóc trên đường
Cầu Tràng Tiền cháy ánh vàng đèn đêm
Mồ hôi từng giọt, giọt thêm
Bắp chân trần cả màn đêm cuộn vào
Bên kia áo tím khăn đào
Bên này quần cộc sắn cao, lưng trần
Ai đi chơi cuộc phù vân
Người đang cặm cụi xoay vần áo cơm.
TÔI
CHO EM CẢ CUỘC ĐỜI
Tôi cho em cả cuộc đời
Những là bèo dạt mây trôi muôn trùng
Cho em tất cả não nùng
Cho em tất cả cõi lòng đắng cay
Cho em nước mắt vơi đầy
Xót đau hờn giận những ngày xa xưa
Cho em hết thảy gió mưa
Quãng đời phiêu dạt đẩy đưa hững hờ
Cho em chín đợi mười chờ
Cái danh, cái phận nhạt mờ xa xôi
Dường như em lẫn vào tôi
Để than, để tiếc, để rồi khổ đau.
TIẾC
(Phả Lại
10-2002)
Em về bên ấy làm dâu
Mẹ cha đi đón qua cầu mới xây
Ngày xưa cũng đoạn sông này
Nước sông thì lớn, đò đầy chẳng qua
Mấy lần lỡ hẹn đôi ta
Mấy lần hờn dỗi, rằng là quên nhau
Bây giờ đã có nhịp cầu
Tiếc rằng hai đứa gần nhau mất rồi.
LẠC
Lạc đường hỏi mãi cũng ra
Lạc nhau đành phải để xa một đời
Người ơi ta nói một lời
Gặp nhau rồi chớ để rời nhau ra
TAM
CỐC
(Tháng 7 năm
1995)
Đôi bên đá mọc ồn ào
Thuyền theo đồng nước đi vào Cốc Tiên
Dập dềnh sóng vỗ hai bên
Nước nghiêng cho đá nổi trên đất trời
Trần hang chạm sát mặt người
Cõi tiên cùng với cõi đời kề nhau
Cảnh tình ai vẽ trước sau
Đâu tiên, đâu bụt, còn đâu là người
Sau lưng sóng nước bồi hồi
Khoét sâu ngấn đá nói lời thời gian
Qua rồi quãng tối miên man
Cửa thông đã sáng đò nan trả người
Ngước lên, đỉnh núi xanh ngời
Bao la mây trắng, tiếng cười trong
veo
CHUYỆN
NHỮNG ĐÊM CHÈO
Hội làng mở hết ba đêm
Để cho anh được cùng em vào chèo…
Em thương cái Tấm phận nghèo
Anh giận cái Cám cả liều cướp duyên
Em đau Tiểu Kính oan khiên
Anh buồn Thiện Sỹ ươn hèn vì đâu!
Em chê cô bé Thị Mầu
Lấy tình trăng gió bắc cầu đòi duyên
Trách Dương vì chút bạn hiền
Để Châu Long dưới bóng đèn đầy vơi.
Lẽ đời đâu chỉ thế thì thôi
Những mù, câm, điếc tranh ngồi mâm
cao.
Trưởng làng dạy mõ học rao
Biết ai là kẻ khăn cao, áo dài (?)
Có bao câu chuyện cuộc đời
Có bao nhiêu kiếp con người đớn đau!...
Tích chèo có tự bao lâu
Mà sao vẫn chẳng nhạt mầu tháng năm
Ngày xưa dù đã xa xăm
Câu chèo đêm hội vẫn nằm trong tim.
NHỚ
Em không đi hết chặng đường
Để ai dang dở những thương cùng buồn
Biển xa gió động, sóng cồn
Vệt lân tinh xé cánh chuồn trong đêm.
Dẫu rằng đã cố tình quên
Lạ sao cái nhớ càng thêm, càng nhiều
Lối xưa ai rẽ nửa chiều
Để ai phải nhớ, phải yêu cả đời.
TRỞ
LẠI VƯỜN XƯA
(Côn Sơn mùa thu
1984)
Một mình trở lại vườn xưa
Nhớ về kỷ niệm buổi trưa năm nào
Nơi đâu mình đã xé rào
Giấu cha, giấu mẹ để vào vườn sau
Nơi đâu mình đứng cùng nhau
Trên môi còn nụ hôn đầu đắm say
Nơi đâu tay nắm trong tay
Chúng mình hẹn ước mai đây trở về…
Vẫn là trưa nắng mùa hè
Bên vườn còn đó gốc kè đơn côi.
LỤC
BÁT TRONG MƠ
Viết câu lục bát xa khơi
Gửi theo mơ đến với người còn không
Ai kia vẫn chửa lấy chồng
Để ai kia nữa nỗi lòng xót xa
Mấy mươi năm chẳng dám qua
Thương như đứt ruột nói ra chạnh
lòng
Nhớ khi ngồi gốc cây hồng
Biết đâu có lúc lạnh lùng gốc đa
Thường đêm thức dưới hiên nhà
Để khi gần sáng mơ xa gặp người.
CÂU
THƠ LỤC BÁT TRỞ VỀ
Câu thơ lục bát đâu rồi
Đi tìm bạc tóc chưa thôi đi tìm.
Tưởng rằng đáy bể mò kim
Ở ngay trước mắt còn tìm lạ chưa.
Câu ru thấm ướt đêm mưa
“Con cò lặn lội” còn chưa giấc tròn.
Tiếng ai tha thiết bồn chồn
Mấy mươi năm tưởng lối mòn đã quen...
Mong sao mưa tạnh trăng lên
Để câu lục bát trao duyên trở về.
CÓ
EM CÓ TÔI
Có em và cũng có tôi
Em không đến hội, ai ngồi đợi em.
Tôi làm một chút sương đêm
Để hoa em mãi trinh nguyên giữa đời
Tôi làm tia nắng mặt trời
Để hoa em thắm nụ cười trên môi...
Tôi làm ra chính là tôi
Để em là chính em rồi gửi trao
Tôi làm tờ giấy hồng đào
Để em gói nụ hôn vào yêu thương
Tôi làm ánh bạc trong gương
Để em gửi cuộc đời thường vào trong.
Tôi làm một chút đàn ông
Để em là gái kẻo không có gì.
VĨ THANH SAU TÁC PHẨM
Tìm hiểu thơ lục bát ra đời trong một hoàn cảnh rất giản dị, ấy là trong khi phong trào làm thơ trong địa phương ngày một nhiều thêm. Những tác giả làm thơ thành thạo khá đông tuy chưa là nhà thơ bao giờ. Nhưng cũng có không ít những người bước đầu là yêu thơ, đến với thơ, thưởng thức thơ và rồi dần dà cũng muốn làm thơ. Những bài thơ đầu tiên nhiều người thường chưa tự tin cho lắm, nhiều lần ngỏ ý xem hộ thơ để bổ khuyết cho. Mỗi lần được đọc những bài thơ như thế thường vui buồn lẫn lộn trong lòng. Cái vui thường nhiều hơn vì những bài thơ thật như câu nói thường ngày không trau truốt, ý lời thường giản dị đến mức cảm động cho dù đôi câu, đôi chữ còn sần, còn gượng, còn chưa đúng văn phạm, chưa đúng ngữ pháp, quên từ “L” sang “N”; viết hoa tuỳ tiện, chấm phảy, gạch nối bất kể chỗ nào, chưa nói đến sai vần, lạc điệu.
Điều này đâu có đáng trách vì những người làm thơ ngày là những thợ hồ, là những bà hàng xén, là những lão nông, đã bẩy tám chín mươi xuân, trong kê khai văn hoá đôi khi viết rõ rằng mới có lớp ba, lớp bốn, vả chăng non nửa thế kỷ đã qua rồi. Trả lời sao khi tất cả mọi chỗ đều cần góp ý, chỗ này còn sai, chỗ nọ còn chưa đúng vv...Thôi thì đành tìm lấy vài ba trang dòng trôi nổi ghép vào cho có một bài giúp những người bạn thơ đang tìm đến cùng thơ.
Cũng tự xét rồi, mình chẳng nhà thơ, cũng chẳng là thầy, lại càng chưa làm thơ giỏi thế mà sao dám viết, chẳng sợ đúng sai. Không thiếu những lời đàm tiếu đó đây về điều này, tiếng nọ, không thiếu các ngài hình to bóng lớn bàn ra, tán vào với những nguyên tắc này, điều kiện kia cùng với tư cách này, phương diện nọ.
Thế rồi nghĩ lại chuyện đời rằng “một nắm khi đói, bằng một gói khi no”, lẽ nào khi giúp cho người đói cứ phải chờ có đồ ngon, đồ quý khi người ta đang lúc đói lòng. Chê ư! chưa đúng ư! Xin những ngài đủ tài, đủ phép, đủ nhân cách hãy viết đi, hãy dạy đi cho thiên hạ cậy nhờ. Người ta nói đứng ngoài cuộc khen chê thường dễ, nhưng bước chân vào cùng với phong trào thì mới thấy trăm điều nào có dễ đâu.
Chính vì điều này mà nung nấu quyết tâm góp nhặt cho thành tác phẩm, cho dù còn nhiều sai sót mọi bề. Cho dù chỉ giúp cho một đôi ba chục người thôi và có khi chỉ tồn tại vài ba mươi ngày, tháng thì cũng như ta thắp đóm soi vào đêm tối tìm được cây bút chì vừa mới rơi ra và thế là đã đủ làm vui vậy.