Tổng số lượt xem trang

07/07/2014

ĐỜI THƯỜNG 1

 TUỔI THƠ

1
         
Những ngày chơi bời lêu lổng của Hằng đã không còn nữa bởi đám bạn cùng tuổi đã phải bắt đầu với các công việc vặt trong gia đình của chúng. Thế là chỉ còn có một mình cậu thuộc diện rỗi rãi, tha thẩn hết vào lại ra với vài thứ đồ chơi vặt vãnh của chính cậu. Gọi là đồ chơi nh­ưng thực ra cũng chẳng sang trọng gì. Một vài cái mảnh sành đ­ược mài nhẵn để làm con chọi. Mấy hòn đá xanh nhặt ở đ­ường tàu về để đẽo gọt làm bi.
Ngoài những lúc ngủ, thời gian còn lại cậu đều dành cả vào các trò nghịch ngợm và chế tác những đồ chơi ấy. Hai tay và quần áo Hằng lúc nào cũng toàn đất cát, bột đá trắng, sản phẩm của việc gia công chế tạo các viên bi. Đây cũng chính là công việc chiếm mất nhiều thời gian nhất của cậu.
Công đoạn chính của việc chế tạo bi bắt đầu là việc dùng dao rựa cùn để đẽo các viên đá từ to thành nhỏ rồi mài sơ bộ vào nền gạch cho tròn. Tiếp đó là việc đ­ưa các viên đá này vào giữa hai vòng tròn của hai cái kẹp đạn rồi lại xoay đi xoay lại làm cho viên đá trơn và nhẵn. Cái công đoạn này đ­ược các cậu bé trong làng gọi là lùa bi.
Việc làm ra một viên bi từ khi đẽo đá đến khi lùa cho thật tròn, thật nhẵn cũng phải mất hàng ngày, hàng buổi chứ không phải nhanh chóng gì đâu. Thế mà khi đem ra đánh với lũ bạn chỉ cần sơ ý hoặc kém tài một chút là mất vào tay chúng, lúc ấy mới tiếc làm sao. Tất cả mọi đứa trẻ trai trong làng đều ham làm và ham có nhiều các viên bi bằng đá nên khi làm ra đư­ợc một viên bi công phu quá, đẹp quá, nhẵn quá đến lúc mất, còn tiếc hơn ng­ười lớn tiếc khi mất một cục vàng.
Bên cạnh cái trò bi, đáo ấy lại còn trò chơi khăng, thổi diêm, thổi nịt. Trò nào cũng cuốn hút, bởi trò nào cũng gắn với những được mất. Cho dù cái được mất ấy chả đáng bao nhiêu về giá trị vật chất nhưng với lũ trẻ trong làng thì thế cũng đã là to lắm, vì có khi nào chúng nó có đủ tiền để mua được nổi một bao diêm hay một xâu nịt đâu. Diêm của chúng đều do lấy cắp bớt trong bao của bố mẹ, còn nịt thì do chúng nhặt nhạnh trong các gói hàng mà người ta tháo ra lấy hết đồ bỏ rơi lại đó.
          Từ mấy năm nay ở làng vẫn có một lớp học tổ chức ngay ở cái điếm giữa. Cái lớp học này dạy kèm một chương trình vỡ lòng với chương trình lớp một. Ai có học hơn từ trước thì cũng tự hạ xuống, còn ai chưa học thì cũng cố mà theo, thành ra việc học cũng thật khó khăn cho cả thầy và trò. Ông giáo dạy cái lớp hổ lốn này là ông trưởng bạ, trưởng bạ chỉ là tên công việc ông thường làm trước đây, còn ông tên là gì thì rất ít người đề cập đến. Ông trưởng bạ cũng đã dạy học nhiều năm ở các nơi khác nên ông tuy giống ông đồ nhưng cũng đã có những nét của một ông thầy có sự đào tạo về sư phạm chính quy. Ông rất dữ đòn và thường xuyên đòi hỏi học trò tôn kính ông giống như các vị lớn tuổi ngày xưa đi học chữ nho. Ông có một cái roi bằng mây nhưng lại buộc chập hai cái thành một, mỗi khi có người không thuộc bài là roi ông lại vút lên giáng vào những cái mông nghe mà phát sợ. Cũng có khi ông dùng nó quật lên những bàn tay đặt ngửa trên bàn khi có người quên viết tập hoặc viết chữ quá xấu, quá bẩn. Những người bị đánh vào tay thường đau đến hai ba ngày mới khỏi, nhiều khi vết đánh đỏ mãi đến cả tuần. Có điều là chỗ nào có lỗi thì ông đánh đúng vào chỗ đó, nên bàn tay phải chính là nơi ông trừng phạt, khi bị trừng phạt, bị đau thì lại  viết xấu, viết xấu lại sẽ bị đánh, bị đau. Mỗi con người đều sinh ra hai tay, mỗi tay đều phải dùng để làm việc, nhưng mà bao giờ cái tay bên phải cũng đều vất vả nhất, gian nan nhất và cho đến khi gặp ông trưởng bạ thì nó lại còn bị đau nhất. Đáng lý nó phải được khen khao hoặc giả cũng được quan tâm bằng một hình thức nào đó, vậy mà trên khắp thế gian này đã có ai phán giúp một đôi điều. 
          Cậu con trai nhà ông Tân cũng được gửi vào lớp học của ông trưởng bạ như một học sinh vỡ lòng cùng một quyển vở với một cây bút. Ông Tân gửi cậu vào đây hy vọng là cậu đọc được cái chữ thì chỉ in ít mà thôi, còn cái chính là muốn để cho ông giáo rèn cặp cậu, giữ để cho cậu không bỏ đi chơi lang thang đây đó. Cho nên việc đi học của cậu cũng chỉ là do có mấy cái tiện thể cùng một lúc mà buộc phải làm. Ngoài việc tập đánh vần, tập đọc trên lớp, mỗi ngày cậu còn phải tô chì một bài mà thầy đã viết sẵn, sao cho các nét mực không được trệch ra khỏi nét chì mà thầy đã viết trong vở. Cậu cũng được thầy ưu ái hơn vì nhà cậu ở ngay lớp học, hàng ngày thầy vẫn thường xuyên vào chè nước cùng ông bố của cậu nên có sự gì ông giáo cũng nói ngay cho bố cậu biết mà không cần phải xử phạt. Cũng chính vì thế mà cậu lười học hơn những đứa khác, kém hơn những đứa khác.
Bài học ông trưởng bạ dạy cho học trò luôn bám sát với chương trình của nha giáo dục phổ cập từ  khi còn ở chế độ cũ. Ngoài các chương trình học bằng tiếng Việt, các học trò còn phải học thêm chương trình tiếng Pháp, những bài tập đọc, tập viết tiếng Pháp luôn làm cho số học sinh mới vào gặp khó khăn. Những bài học thuộc lòng lại càng khó hơn nữa, đến ngay cả đọc phát âm còn không nhớ huống hồ còn nói đến chuyện dịch nghĩa, chính vì thế mà có rất nhiều cô cậu phải đòn, càng phải đòn càng ghét môn tiếng Pháp và rồi lại càng ghét thêm thực dân Pháp. Nhiều lúc cậu nghĩ sao mà cái thằng Pháp nó ác thế, bom đạn nó mang sang giết người ác đã đành đến cái chữ của nó mang sang cũng làm cho người ta điêu đứng, khổ sở. 

                                                      2

Sang đầu tháng hai năm 1955 ông Tân về thăm quê, lần này ông mang theo Hằng cùng về. Việc thăm quê chỉ là phụ, việc chính là ông đưa cậu  con của bà hai cùng về rồi để lại trông nom cháu bé cho chị cả đi làm. Dưới quê hồi này mùa màng thật là bận rộn, anh cả thì đi vắng, chị cả thì chẳng có ai đỡ đần, hơn nữa khi vào đông vụ chí kỳ ai ai cũng đều bận, chị cả vướng cháu không ra đồng được nên ông bà Tân đành phải cho cậu về quê giúp chị một thời gian. Thế là trong lần đi học đầu tiên này cậu đã phải bỏ học giữa chừng.
          Làng Tây Lạc cách tỉnh lỵ có hơn chục cây số, con đường về làng cũng không được rộng rãi gì, cho dù đây là tuyến đường chính đi từ tỉnh lỵ xuống biển. Hàng ngày có đến hàng dăm chục chuyến xe ô tô qua lại, ngoài ra còn có hàng trăm chuyến xe ngựa đi về vừa chở hàng lẫn chở khách. Quang cảnh bên đường thật là tiêu điều xơ xác, đây đó một vài quán hàng lẻ tẻ dọc đường bán vài cốc nước chè xanh chủ yếu để phục vụ cho những người đi bộ hoặc gánh hàng rong giải khát với một chút tiền ít ỏi không làm vơi đi tý xíu tiền công mà họ vừa kiếm được trong ngày. Cái thứ tiền công chỉ vừa đủ mua nổi không quá hai đấu gạo, còn số gạo thì lại không đủ cho hai bữa của một gia đình đông người.
          Chị cả chưa có nhà ở riêng mà phải ở nhờ nhà của người chú ruột, cũng may chú cũng không đông con nên cũng không đến nỗi quá chật chội. Ngôi nhà ông chú và vợ chồng của người con lớn của chú ở là một ngôi nhà tranh bốn gian lợp rạ, tường trình bằng đất rất khéo. Bức tường được trình phẳng đến nỗi nếu không đến tận nơi xem thì chắc sẽ cho là tường gạch trát vữa, duy có bức tường hậu là có vết nứt hơi lớn đe doạ đến việc đổ tường. Chị cả và cháu đều ở dưới nhà ngang, ngôi nhà này nối với nhà trên theo hình thước thợ, đây cũng là căn nhà tre nhưng bé hơn nhà trên một ít, vốn trước đây nó cũng là nhà ở chính của gia đình ông chú nhưng từ khi dựng được ngôi nhà trên thì mới không ở nữa. Cũng là mái tranh tường đất nhưng tất cả mọi chỗ từ trong nhà ra ngoài, sân chỗ nào cũng sạch sẽ. Hàng ngày sau khi làm xong mọi việc cụ Nhẫm lại quét dọn và sắp xếp nên mọi thứ rất gọn gàng, ngăn nắp. Bên trong hai căn nhà nối nhau theo hình thước thợ là một cái sân đất khá rộng rãi được đầm nén phẳng phiu và vuông vắn. Hàng ngày cụ Nhẫm ra vườn đằng sau chặt vài cây tre mang vào pha ra để đan lát, khi thì là cái rá, cái rổ, lúc lại là cái giần hay cái sàng để dùng trong nhà. Mỗi lần đan xong một thứ cụ lại mang vào bếp hơ lên ngọn lửa để đốt các sợi lông tre xổ ra. Đến khi nứt cạp cụ thường dùng răng cắn vào cạp rồi mới rút sợi mây, thành thế nên trên vòng cạp của rổ hoặc rá đều có vết răng của cụ. Một lần cụ chợt nhìn thấy Hằng đang nhìn mình cắn cạp rổ rá, cụ cười và kèm sau đó là lời giải thích:
          - Có cắn thế cạp mới chắc! Những người đi chợ mua rổ rá thường nhìn vào dấu cắn này mà chọn, có thế mới mua được thứ tốt.
          Hằng cũng chỉ cười mà không nói gì, trong bụng thì cậu nghĩ rằng sau này cậu sẽ không làm nghề đan lát vì nếu cứ cắn như vậy thì rất ghê răng. Có lẽ cụ Nhẫm trêu cậu thế thôi chứ nếu cái rổ nào cũng làm thế thì chả mấy chốc mà gẫy hết cả răng.
          Hàng ngày Hằng phải dậy rất sớm để trông cháu cho chị cả đi làm. Cũng vì đồng xa nên chị cả chỉ đi làm có một buổi sáng, còn buổi chiều thì chị ở nhà trông cháu để cho Hằng đi học cùng với cô A con của ông Khánh và cô Tý con bà Xước. Thầy dạy học cho bọn trẻ là cụ Mậu, cụ cũng chỉ là thầy đồ có một chút vốn chữ quốc ngữ vừa đủ để dạy cho bọn trẻ vỡ lòng, mẫu giáo mà thôi. Lớp học của cụ ở ngay trên nền nhà, bọn trẻ tự mang theo những cái ghế để vừa kê sách khi viết bài, còn lúc tập đọc thì dùng làm ghế ngồi. Những bài học hàng ngày vẫn là tập tô, tập viết, tập đọc và học thuộc lòng. Những bài học thuộc lòng đa phần là những bài ca dao ngắn, những bài hát ru lục bát nên cũng dễ học, dễ nhớ. Điều quan trọng đối với cụ Mậu là làm thế nào để cho các học trò nhỏ của mình tỏ ra có tiến bộ, bên cạnh sự hiểu biết của các học trò là điều mong muốn của người thầy làm thế nào để cho các bậc phụ huynh dễ nhận ra rằng con cháu của mình cũng đã học được mà tiếp tục gửi con, gửi cháu đến cho cụ, để rồi họ sẽ đóng góp cho cụ một vài đấu gạo trong lúc đói kém khó khăn này.

                                                                 3
         
Ngoài việc trông cháu và đi học chú em chồng của chị Thảo chẳng giúp thêm cho chị được gì nữa, còn chị thì tất bật suốt cả ngày. Cũng có lần chị cả cho cậu đi tập làm việc cùng với chị khi chị gửi cháu cho cụ Nhẫm. Lần ấy hai chị em ra bờ ao trước cửa làng lấy bèo cái về cho lợn, cũng không biết chị mượn đâu được đôi quang gánh ngắn khá vừa so với độ cao của Hằng. Bèo vừa chất lên là cậu gánh thử ngay, xem ra cậu gánh cũng được nên chị cả cũng không để ý đến nữa, chị cúi xuống để nhặt bèo vào gánh của mình. Chú em thì hăm hở lắm nhưng chỉ mới đi được một đoạn đã thấy lấy tay sờ lên vai, có lẽ là cậu bị đòn gánh cọ đi, cọ lại nên đã bắt đầu đau vai. Đây là lần đầu tiên trong đời cậu tập gánh nên dễ đau và nhanh đau là phải, thế là cậu nghĩ đến việc đổi vai nọ sang vai kia cho đỡ đau. Vì là lần đầu tập gánh nên việc đổi vai như thế nào cậu cũng chưa tường tận lắm. Lúc đầu cậu định dừng lại rồi xoay đòn gánh trên vai, nhưng xoay đến đâu thì cứ như cái đòn gánh lại cứa vào vai và cổ đến đó, thế là cậu đành hạ cả gánh xuống rồi chui đầu qua đòn gánh để sang vai bên trái. Vừa sang vai xong thì thấy chị cả cười ngặt, cười nghẽo, rồi chị tiến lại gần bảo chú em hạ gánh xuống để xem chị dở vai. Thực ra thì việc dở vai cũng không khó lắm, cái đáng lưu tâm ở đây là vai của cậu đỏ tía và đã sưng lên rồi nên cậu không muốn để cho cái đòn gánh nó nhay lên trên đó mà thôi. Thế rồi chị cả làm động tác đổi vai cho Hằng xem, chị lại định còn bắt cậu dở vai thử để cho chị xem có được hay không, chị nhấn mạnh việc đổi vai phải xoay về đằng sau mà không được xoay về đằng trước. Thì ra lúc nãy khi chị ngước lên thì thấy Hằng vừa chui đầu từ bên này sang bên kia nên chị tưởng là cậu xoay đòn gánh ra đằng trước, có lẽ vì thế mà chị buồn cười đến mức như vậy. Sau lần tập gánh với bao chuyện buồn cười lại đến chuyện tập tát nước. Thực ra cũng không còn là chuyện tập nữa mà là tát nước thật.
Mùa nắng năm ấy đã kéo dài mấy tháng liền, nên ngay từ khi cấy các thửa ruộng của nhà đã thiếu nước. Hàng ngày các hộ có ruộng ở vùng ấy đều có ý chia phần cho từng nhà đến tát nước. Chờ mãi đến năm sáu ngày liền, hôm ấy mới đến phiên chị cả lấy nước. Dồn tát nước vào ruộng sâu quá thành ra không dùng được gầu sòng mà phải dùng gầu giai. Chị cả lại chỉ có một mình nên chẳng làm gì được. Chị cũng đã cố gắng đi mượn người nhưng tất cả những người có thể giúp chị thì đều quá bận, bất đắc dĩ lắm chị đành phải bảo cậu em chồng đi tát nước cùng chị. Hằng nghe nói được đi tát nước thì rất vui vẻ vì mình sắp được làm các công việc của người lớn mà lâu nay cậu chưa bao giờ được sờ đến.
Chị cả cũng buộc lại sợi dây gầu cho ngắn lại sao cho Hằng có thể kéo được. Sau khi tìm chỗ đứng cho mình, chị cả lại đi sang chỗ của Hằng để hướng dẫn cho cậu về cách đứng, rồi cách cầm dây gầu. Mới kéo  gầu nước đầu tiên Hằng đã chúi cả người về phía dồn nước, tý nữa thì ngã nhào xuống dồn. Chị cả hoảng quá định thu dây gầu lại nhưng chú em không cho, xem ra có lẽ cậu vẫn muốn tập tát nước cho bằng được. Đến lần thử thứ hai thì cậu có tiến bộ hơn tuy rằng chị cả chỉ dám múc có lưng gầu một. Hai chị em cố gắng nhũng nhẵng mãi cũng cũng múc được ướt mặt ruộng. Đến lúc này thì cậu đã quá mệt và đòi nghỉ. Ngay chị cả cũng muốn nghỉ vì chị cũng mệt. Chị cả mệt không phải vì làm quá nhiều, chẳng qua chị mệt vì cứ phải lựa theo cậu em. Nếu kéo mạnh thì sợ cậu ngã thành ra cứ phải kéo nhè nhẹ. Mỗi lần thả gầu chị lại phải cố hạ thấp xuống cho cân đối rồi đưa dần gầu nước lên như kéo nước từ giếng khơi lên vậy. Dù sao thì cũng ướt được chân lúa, thế cũng đã là quý lắm rồi, còn muốn kéo thêm cho đầy thì tối nay sẽ nhờ số chị em trong họ ra giúp thêm cho một lúc. Với một cái thành quả bé tý như vậy cũng làm cho Hằng vui thích, mà không vui sao được vì chỉ mới gần chín tuổi cậu đã có thể làm được công việc của người lớn, cho dù công việc đó chẳng có đáng gì so với nhiều công việc khác của nhà nông.

                                                           4
         
Ngoài việc trông cháu, giúp việc cho chị và đi học cậu còn luôn bày ra cho số bạn cùng tuổi rất nhiều các trò nghịch ngợm, nào là các trò bán hàng bằng lá cây để vui chơi, trò trốn tìm lẫn nhau trong đêm tối. Riêng trò trốn tìm thì cậu luôn luôn chiến thắng, tất cả bọn trẻ con từ cái A đến cái Tý, cùng mấy đứa bé tý khác ở trong xóm. Chúng nó chả làm thế nào tìm ra được cậu. Chỉ riêng mỗi một mình cậu nếu đã đi trốn thì chỉ khi nào cậu không thích chơi nữa mà tự đi ra thì lũ trẻ mới bắt được cậu. Cũng có khi Hằng đi trốn vào một cái đống rơm của nhà cụ Đãng hoặc của nhà cụ Đồ rồi ngủ luôn ở trong đó làm cho chị cả đi tìm trợn cả mắt lên mà vẫn không thấy. Những lúc như thế chị cả lại sợ cậu giận gì mình mà đi trốn nên càng lo lắng, nhiều khi bỏ cả cơm nước rồi cuống cuồng lên để đi tìm em. Cho dù sau đó đã nghe Hằng nói rõ nguyên nhân rồi nhưng chị vẫn bán tín bán nghi, cho là mình đã làm điều gì đó không phải nên em phật ý giận mình. Những lúc như vậy chị chỉ mong sao bố sớm về để trả cậu về cho bố mẹ. Ngoài các trò chơi thông thường của bọn trẻ ra Hằng còn có những trò nghịch tệ hại hơn nữa. Một trong các trò ấy là trò chơi ăn trầu bằng thân của cây sắn giây mà cậu cắt được ở trong vườn của cụ Đồ. Một mình cậu đã bày ra một đám cưới của một đứa trẻ này với một đứa trẻ khác, bất chấp đó là cô cháu hay là anh em cậu chỉ cần có đám cưới là được, vì chỉ có đám cưới mới có lý do để ăn trầu. Những đứa trẻ lại cũng chẳng cần gì cả miễn là cứ được nhai các đoạn sắn giây rất ngọt là được. Cũng phải nói rằng vào thời bấy giờ trẻ con ít được ăn đường mật hoặc các thức ăn có chất đường nếu như chưa đến các ngày hội hè hoặc tết nhất, vì vậy mà cái chất ngòn ngọt của cây sắn dây cũng là những thứ mà chúng ao ước được ăn. Cây sắn giây có vị ngọt nhiều nhất là đoạn thân bánh tẻ nằm gần giữa gốc và ngọn, cũng chính vì vậy mà mỗi lần cắt được đoạn thân trên thì cây sắn cũng bị cắt cụt. Chỉ trong có mấy ngày  mà hết vườn nhà cụ Đồ lại đến vườn nhà bà Đãng đều có cây sắn giây bị héo lá. Những người có vườn cũng chỉ nghĩ rằng có lẽ là cây sắn bị sâu, về sau thấy cây sắn bị chết nhiều quá đâm nghi thế là họ phát hiện ra cây sắn bị ai đó cắt. Chắc họ cũng đoán ra thủ phạm nhưng lại không bắt được tận tay nên họ chỉ dám nói bóng, nói gió mà thôi.Thế rồi chuyện này cũng đến tai chị cả, chị bực lắm nhưng mà không biết nói vào đâu, chị chỉ hỏi cậu xem cậu có cắt sắn hay không, dĩ nhiên là cậu phải chối chứ chả lẽ lại đứng ra nhận, mà đứng ra nhận thì chắc chắn là sẽ bị mắng hoặc có thể còn bị đánh là đằng khác. Đành rằng chị cả là không dám đánh nhưng mấy đứa cháu của cụ Đồ chắc gì chúng đã tha. Thế rồi cũng tý nữa là bị lộ nếu như cậu không nhanh trí bế ngay thằng cháu rời khỏi nhà ngay lúc đấy. Chẳng là mỗi lần cậu muốn chơi lâu thì cậu lại bắc ghế với lên mái nhà là nơi cậu giấu các đoạn sắn giây để lấy cho thằng cháu một đoạn sắn giây để nó cho vào mồm nhằn đi, nhằn lại. Lần này không biết thế nào tự nhiên nó lại nghĩ ra cái trò nhằn cái thân sắn giây thế là nó cứ chỉ lên mái nhà rồi khóc ré lên đòi chị cả, cũng may là chị cả cũng chẳng hiểu thằng bé đòi gì còn cậu em chồng khi phát hiện ra đã bế vội nó đi chơi, dĩ nhiên là khi vắng người cậu đã di chuyển những đoạn sắn giây ấy đi nơi khác.
          Sau những ngày hè nóng bỏng với các trò chơi kéo dài từ ngày này sang ngày khác tưởng như vô tận cũng đã kết thúc. Những ngày thu đầu tiên đang từ từ đến trong tiết heo may se lạnh, ngoài đồng cây lúa đã tròn mình. Những ông bà già sớm ngày ra đã có người phải mặc áo sợi dài tay cùng với cái khăn đen trùm kín trên đầu chống lạnh. Suốt trong những ngày hè Hằng thường trốn đi cùng mấy đứa trẻ trong xóm để đi bơi lội ở các ao làng chạy dọc bên đường cái. Người ta đồn rằng trong làng có đến năm mươi tư cái ao tất cả, trong đó có đến hai phần ba số ao là của nhà lão Quản Ri. Số ao này bây giờ đã không còn của Quản Ri nữa mà nó đã thuộc về các ông nông dân mà đội cải cách đã chia cho mọi người. Cũng chính vì cứ lặn hụp trong những cái ao đó mà cậu bị đau mắt. Trông cậu lúc này thật buồn cười, hai chân đất lúc nào cũng nhem nhuốc bùn đất. Cái áo sơ mi trắng nhờ giờ nhuộm đầy mực tím cùng với than gio trông thật bẩn thỉu, cái quần cộc bằng vải chéo go màu đen cứng còng mà lại rộng tuềnh trông cứ như là đi mượn của ai chứ không phải của mình vậy. Bên dưới bộ tóc rễ tre cứng quèo là hai con mắt đỏ hoe hoe lúc nào cũng đầy rử rạp ở hai đầu khoé mắt.

                                                                     5

Cũng không biết ông Tân về quê từ lúc nào vì khi về ông lại về nhà ông Khánh trước chứ cũng không về chỗ con dâu và cháu. Có lẽ ông cũng e nơi con cháu mình ở chỉ là nơi ở nhờ, ở cậy mà thôi, dẫu sao thì nhà ông Khánh cũng là nhà anh em gần gận hơn so với nhà của cụ Nhẫm, chú của con dâu. Sau mấy ngày ở chơi cùng anh em họ hàng và con cháu, ông Tân đưa cậu cùng lên Hà Nội. Khi chia tay chị em bịn rịn không muốn rời xa, nhất là thằng cháu thì cứ khóc dãy lên đòi đi với chú. Có lẽ nó tưởng là chú vẫn cõng nó đi chơi như mọi khi nên nó khóc và đòi đi dữ lắm, nhất là mấy hôm nay nó lại có một ông nào đó luôn bế ẵm và cho nó ăn quà, đặc biệt là lại rất thương yêu nó, mãi sau cái Tý phải bế nó đi chơi nơi khác để cho nó tạm quên đi. Cũng từ hôm bố về chị cả mới ít đi làm hơn, ngoài phần thời gian chợ búa mua sắm thức ăn để lo tiếp đãi ông bố thì chị luẩn quẩn hơn với cậu em chồng, chị hỏi kỹ hơn về sở thích ăn uống, rồi cả về các việc chơi bời, học hành của cậu nữa. Chị dặn đi, dặn lại về các việc gì mà chị làm em không vui thì đừng nói với thầy để thầy khỏi mắng chị. Cậu em cũng chỉ gật đầu thế thôi vì cậu chả để ý đến việc gì nữa ngoài việc mừng vui khấp khởi là sắp được về với mẹ.
          Sau quãng đường gần mười lăm cây số đi bằng xe ngựa từ chợ mới Giao Cù qua chợ Chùa rồi lên đến thành phố Nam Định, hai bố con ông Tân vào bến xe Nam Định để mua vé lên xe. Mọi việc đều do ông bố làm, cậu con thì chỉ như cái đuôi bám theo ở đằng sau, vậy mà vẫn còn sợ bị lạc. Vừa lên xe là cậu đã bắt đầu ngủ, một giấc ngủ kéo dài đến mấy giờ liền trong lòng ông bố. Ngoài trời se lạnh nên sự ấm nóng trong xe thật hợp với giấc ngủ của trẻ nhỏ, hơn nữa cái sự rung xóc của xe lại cứ như là ai đó đang đưa nôi nên bất kỳ ai cũng đều như muốn ngủ chứ không riêng gì bọn trẻ con như cậu. Khi cậu thức dậy thì xe đã lên đến Hà Nội, ông bố đánh thức cậu dậy rồi lại kéo cậu đi dọc hai con phố đầy dãy các cửa hàng tạp hoá. Có rất nhiều các loại đồ chơi mà cậu nhìn thấy, nhưng hình như cậu biết bố cậu cũng không có tiền để mua nên cậu cũng chỉ nhìn vậy để thèm mà thôi. Sau khi ông bố mua cho cậu một cái bánh chưng ăn cho đỡ đói rồi hai bố con lại lên xe để về nhà. Bắt đầu lên xe bố đã dặn người phụ xe là cho ông về đến Bia Đổ. Bia Đổ thực chất không phải là một địa danh mà đúng theo nghĩa đen của nó là tại đó có một cái bia đá hình khối vuông rất to nằm đổ kềnh ngay đầu con đường rẽ liên tỉnh đi qua huyện Từ Sơn để rồi đi sâu hơn nữa vào các thôn xã của tỉnh Bắc Ninh. Con đường này đã là con đường chính từ nhiều năm trước đó cho mãi đến khi có con đường quốc lộ số một thì nó mới chịu nhường lại chữ chính để nhận mình thành con đường phụ, tuy nhiên nếu là đối với người đi bộ thì cái tên chính vẫn còn nguyên giá trị. Thế là cái bia đổ từ chỉ điểm bằng hình ảnh cụ thể đã thành tên gọi quen miệng của những anh tài xế và các khách đi đường chờ xe. Quãng đường từ bến xe về đến Bia Đổ rất ngắn chỉ độ non mười cây số là cùng, tuy nhiên tuyến xe thì còn rất dài. Từ bến khởi đầu là bến Hàng Vôi ngay đầu cầu Long Biên, xe sẽ đi lên tận Vĩnh Phúc rồi lên đến cả Lào Cai, Yên Bái và còn có thể xa hơn nữa, tuy nhiên hai bố con ông Tân lại chỉ đi đến Bia Đổ mà thôi. Ngoài cái bia đổ là đặc điểm của lối rẽ này người ta còn gọi chỗ ấy bằng một cái tên là Vực  Gạo, cái tên này chủ yếu là gọi tên một cái vực ở ngay bên phải của đường rẽ này. Cũng không ai biết Vực Gạo có tự bao giờ, mà chỉ biết rằng khi mình đẻ ra thì nó đã có rồi. Vực Gạo rộng độ gần hai hecta và có bề mặt hơi vuông, cũng không rõ từ bao giờ người ta truyền tụng rằng Vực Gạo thông đến với sông Đuống và còn có thể thông đến tận sông Hồng. Vực Gạo sâu lắm, nhiều người có hơi dài đã từng ra đến chỗ sâu nhất để lặn xuống thì họ bảo rằng họ đã lặn hết cả một hơi vẫn không đến đáy, chính vì vậy mà người ta đồn rằng vực thông với sông Đuống, Sông Hồng. Nhưng có lẽ là họ muốn doạ những người yếu bóng vía hoặc họ muốn doạ lũ trẻ con để chúng khỏi đi nghịch nước để tránh bị chết đuối mà thôi. Từ Vực Gạo vào đến làng Đồng Dầu chỉ độ tám trăm mét nên hai bố con ông Tân lững thững đi bộ để về nhà. Ông Tân thong thả đi trước còn Hằng thì phải chạy gằn ở đằng sau, vì chân cậu ngắn nên khi bố bước một bước thì cậu phải bước đến hai, ba bước mới theo kịp nên trông cậu giống như đang phải chạy gằn. Cũng vì cậu bị đau mắt nên khi còn ở trên xe ông Tân đã đưa cho cậu đeo cái kính dâm của ông, lúc ngồi trên xe thì kính không tuột do cậu ngồi hơi ngửa ra, nhưng đến khi xuống xe đứng thẳng lên, thành ra cái kính cứ tuột ra, cậu vừa chạy gằn vừa phải giơ tay lên giữ kính nên cậu đi càng chậm, ông Tân lại cứ vừa đi vừa phải đứng chờ. Quãng đường gần một cây số cũng đã làm cho cậu mệt xoài, vì lâu nay cậu cũng hay chạy nhảy nhưng cũng không mấy khi đi cả một quãng đường dài liên tục như vậy bao giờ.
          Đi bộ mãi rồi hai bố con ông cũng về đến nhà, người đầu tiên cậu gặp là bà mẹ của cậu, bà đón cậu bằng cách đứng nhìn chăm chú và chỉ hơi mỉm cười mà không nói gì. Sau khi đã nhìn kỹ cậu từng tý một bà đến lấy hộ cho cậu cái kính ra khỏi đầu rồi đem cất lên trên mặt cái hòm thóc. Mãi cho đến lúc này bà mới  cất tiếng nói vừa như phân bua vừa như xác nhận:
- Trông cũng đã cao hơn thì phải? Có lẽ thế thì số quần áo cũ cũng đã chật rồi!
Ngay lúc đó bà đưa cậu ra ngoài bể nước mưa rồi lấy khăn ra rửa mặt cho cậu, vừa rửa bà vừa ca cẩm về cái sự bẩn thỉu và cả cái sự đău mắt của cậu, bà bảo với cậu:
- Chỉ cần dử của một bên mắt thì hai con lợn xề ăn no, gớm sao mà chị em nhà mày lại chẳng biết chữa chạy gì xất cả cơ chứ.

                                                       6

Bà xuống bếp đơm cho cậu một bát cơm nguội chan với canh cua mà nhà ăn từ trưa còn lại, cũng chả biết nhà nấu thế nào mà mới độ hơn tiếng đồng hồ mà đám canh cua nấu với rau lang đã xanh biêng biếc đến kỳ lạ, trông bát cơm thấy cứ như là cơm bị nhuộm phẩm xanh, tuy thế nhưng khi ăn vào lại thấy rất ngon, nhất là trong lúc này cậu đang rất đói, cậu ăn thêm gần hai nưng nữa rồi mới thôi.
          Sau khi cơm nước xong cậu mới để ý thấy nhà mình vắng vẻ quá, quanh đi cũng chỉ có bố, quanh lại cũng chỉ có mẹ với hai cô em bé tý, xung quanh làng nước đều ở xa cả.Từ ngày chia quả thực bố không chịu nhận ngôi nhà của ông lý Long vì bố không muốn lấy không của người khác bất cứ một cái gì, rồi đội cải cách cứ nhất thiết yêu cầu cả nhà ra khỏi cái điếm để đội lấy làm trụ sở thì nhà đã dọn ra chùa thay chân cho nhà cụ Vá đã bỏ về quê. Ngôi chùa của làng Đồng Dầu khá rộng và có cách bố trí khá đẹp cả về kiến trúc nhà lẫn khuôn viên bên ngoài, chùa được thiết kế có kết cấu theo hình chữ đinh quay về hướng tây, phía trước chùa là một khoảnh sân gạch rộng gần một sào, tiếp theo là một dẻo vườn chạy dọc theo sân chùa, đây là khoảng chuyển tiếp để đến một cái ao rộng gần hai sào bắc bộ, ngăn cách giữa ao và vườn là một bờ tre khá dày ngả ngọn xuống ao trông thật hữu tình. Hai bên chùa là khu ruộng đến hơn năm sào Bắc Bộ, đây là ruộng riêng của chùa, vẫn gọi là ruộng nội tự. Phía sau chùa cũng là một khoảnh vườn rộng cũng phải đến hơn mười thước Bắc Bộ trồng cây ăn quả. Toàn bộ khuôn viên trên được bao phủ bằng một luỹ tre dằy dặn mà bên ngoài muốn vào cũng không vào được.
          Chùa chính có năm gian, gian đầu tiên bên trái là nơi thờ Đức Ông, tượng của ngài to gần bằng người thật ngồi ngay ngắn trên ngai, mình ngài mặc áo thụng có nhiều hoạ tiết hoa lá, đầu đội mũ cánh chuồn màu đen, chân đi hài thêu hoa rực rỡ. Khuôn mặt của ngài mang sắc đỏ thẫm rất đặc trưng. Toàn bộ khuôn hình của ngài toát ra sự oai phong và trang nghiêm đến dễ sợ. Gian tiếp theo là nơi đặt bệ thờ tượng vị hộ pháp cao lớn ngồi trên mình sư tử, đầu chạm mái chùa. Ngài có khuôn mặt trắng và rất hiền, khuôn mặt của ngài có các nét của người phụ nữ. Một tay ngài giơ lên ngang đầu và hướng ra phía trước như muốn phô ra một vật gì đó, theo mọi người nói thì hình như đó là một viên ngọc thì phải. Gian đầu tiên bên phải là tượng một vị thánh có khuôn mặt màu chì hơi xanh bên dưới khuôn miệng là một bộ râu quai nón. Tiếp theo về bên trái là tượng Đức Thánh Hiền, ngài cũng có khuôn hình to gần bằng người thật, ngài có khuôn mặt mang sắc trắng, mình mặc áo thụng vàng ống rộng, trên đầu đội mũ tỳ lư có đến tám tấm thẻ hình hoa ghép lại, mỗi tấm trông giống như là một cánh hoa sen, trên đó vẽ nhiều các vân hoa và đường viền rất đẹp. Toàn bộ khuôn hình của ngài toát ra một nét hiền lành chân thật giống như một người mẹ. Gian kế bên là nơi đặt tượng vị hộ pháp có khuôn mặt đỏ hồng râu và lông mày khá rậm cũng cao lớn chạm nóc chùa, cũng ngồi trên mình  sư tử, tay ôm một thanh long đao to lớn đang giơ lên như sắp giáng xuống mình những kẻ nào dám xâm phạm đến mọi thứ trong chùa. Gian giữa được nới rộng gấp đôi so với các gian khác và được phát triển về phía sau thành cái chuôi vồ để làm tam bảo. Tam bảo được chia thành ba khuôn chạy dọc về phía sau, hai bên hẹp độ non một thước đặt tổ hợp tượng nói về tích Quan Âm Thị Kính ở về bên trái, còn bên phải cũng là một tổ hợp tượng trong đó có một pho mang dáng hình của nữ nhân. Khoảng giữa được xây giật bậc từ thấp đến cao, bề mặt của mỗi bậc rộng hẹp tuỳ theo diện tích đáy của các tượng đặt trên đó. Bậc đầu tiên cao hơn mặt nền gần một mét, trên đó có giàn Cửu Long gồm tượng của đức phật Thích Ca Mầu Ni để trần mặc xà rông đứng chân trước, chân sau có vẻ như hơi kiễng chân, người hơi khom về phía trước, tay bắt quyết giơ lên cao. Cả bức tượng nhỏ như một quả bí xanh con được chế bằng đồng đen nên mỗi khi đánh sáng ra mầu đỏ rồi lại tự đen ngay sau đó vài phút. Giàn Cửu Long uốn theo hình cầu vồng, bên trên đó có đến hơn một chục tượng La Hán, có lẽ cũng làm bằng đồng đen. Bậc tiếp theo là tượng các vị Phán Quan, trên nữa là Phật Bà Quan Âm nghìn mắt, nghìn tay, hai bên là Thiện Tài Đồng Tử. Trên nữa là Phật Tổ Như Lai, hai bên Phật Tổ là Anan và Cadiếp. Trên cùng là toà Tam Thế cùng với các bức tượng, tượng trưng ba kiếp là quá khứ, hiện tại và vị lai. Đa số các chùa đều có cấu trúc nhà cửa cùng với các tượng na ná giống nhau. Nhưng có lẽ là tượng chùa Đồng Dầu có nhiều nét thanh tú rất gần với đời thường nên nhìn rất đẹp. Sát góc ngoài hồi phải có một quả chuông lớn đúc rất đẹp treo trên quá giang. Trên thành chuông có rất nhiều văn bản bằng chữ nho khắc chìm trên bốn mặt. Các vú chuông có hình viền bằng các hạt tròn luôn sáng loáng do thường xuyên dùng vồ để gõ vào. Bên dưới quả chuông là một cỗ ngựa bạch được đặt trên một giá có bánh xe để tiện cho di chuyển.
          Đằng sau chùa là ngôi nhà tổ năm gian lợp ngói mũi, đây cũng là một ngôi nhà khá lớn so với rất nhiều ngôi nhà dân có ở trong vùng. Gian giữa là nơi đặt điện thờ thánh mẫu, trên ban có ba pho tượng mẫu cỡ lớn được che phủ bằng những vuông khăn nhiễu đỏ, ngoài ra còn có rất nhiều các đồ thờ cúng khác. Bên dưới ban thờ mẫu là nơi thờ công đồng tứ phủ cùng với tranh ngũ hổ sơn son thếp vàng trên gỗ. Trên quá giang của gian giữa là đôi thanh xà, bạch xà cuốn quanh mình gỗ. Gian cạnh về bên phải là nơi đặt các bát hương của con hương đệ tử gửi bán và thờ cúng tại chùa. Gian cạnh bên trái là nơi thờ tổ, trên ban có tượng của vị tổ trụ trì đầu tiên ở chùa. Hai đầu hồi nhà là hai gian buồng, buồng bên trái là nơi chứa các loại xoong nồi, bát đũa, phục vụ cho những khi mở cỗ bàn, tiệc tùng trong các kỳ đại lễ. Còn gian buồng bên phải được lấy làm nơi ở cho cả gia đình, đó là cái tổ ấm của  bố mẹ và cả ba anh em của Hằng. Giáp với hồi bên phải là ngôi nhà ngang bốn gian bằng gỗ lợp ngói nối với nhà tổ thành hình thước thợ, nơi này dùng làm nơi sắp cỗ cho khách thập phương hoặc con hương, đệ tử  ở xa về. Đầu hồi bên trái có một cái bể nước mưa chứa  được gần mười khối nước dùng làm nước ăn quanh năm. Lùi xuống thêm một chút nữa là một cái bếp tường đất lợp rạ. Ngoài hai gian dành cho nấu nướng, bếp còn để ra một gian làm chuồng trâu và chuồng lợn.
          Với toàn bộ các kết cấu nói trên làm cho ta cứ liên tưởng đến một khu trang trại, tuy nhiên đây lại chỉ là nơi cư trú tạm thời của gia đình Hằng. Tóm lại là gia đình cậu vẫn là gia đình không có nhà, vẫn phải làm người đi ở nhờ, vô gia cư, cho dù nơi ở hiện nay là một nơi ở rất tốt đẹp và lý tưởng. Đến một ngày nào đó gia đình cậu sẽ lại phải ra đường khi mà những người trong làng không còn muốn để cho họ ở đây nữa.Việc từ chối tất cả những quả thực của đội cải cách chia cho có phải là quyết định đúng đắn của ông Tân hay không sẽ còn cần phải xem lại về sau này, nhất là quyết định này đã đi ngược lại với tất cả mọi người lúc bấy giờ.

                                                                 7

Vào ngày mồng năm tháng chín dương lịch năm ấy là ngày khai trường cho tất cả các cấp học ở trên khắp miền Bắc Việt Nam. Ngày khai trường giống như một ngày hội cho tất cả mọi người. Không riêng gì các em lớn tuổi, các em nhỏ cũng được các bậc cha mẹ đưa đến trường. Hằng cũng như những đứa trẻ khác được bố đưa đến trường đi học. Ông Tân cũng không biết con mình học ở mức nào nên ông đưa cậu đến học lớp vỡ lòng của ông giáo Nguyễn Văn Thiện. Nơi lớp học ông Thiện dạy lại ở ngay ngôi điếm giữa làng, nơi mà gia đình cậu đã bị đội cải cách đuổi ra hồi cải cách ruộng đất.
          Ngay trong ngày đầu tiên cậu đã bị thầy Thiện gọi lên sát hạch. Nói là sát hạch cho đúng từ ngữ hồi đó thôi chứ thực ra chỉ là cuộc thăm dò sức học của học sinh mà thôi. Bài giảng của thầy Thiện hôm đó nhằm giúp cho học sinh biết cách phân chia vần, cách ghép vần và cách đánh vần. Bài có vần ia và vần ua, cả bài gồm mấy từ  (IA- Chia rẽ mỉa mai - UA) .Tất nhiên là cậu có thể đọc ngay cả câu một cách ngon lành mà không phải đánh vần như thầy yêu cầu. Thấy cậu học trò có vẻ khá, thầy Thiện lại muốn khai thác thêm bằng cách yêu cầu cậu giải nghĩa xem từ đó nói lên cái gì. Đến lúc này thì cậu  có vẻ bí, vì cả câu chả nói lên điều gì cả. Cậu đứng hơi lâu mà vẫn chưa nghĩ ra được cái gì, thế rồi cậu cũng nói bừa đi cho xong:
- Thưa thầy đây nói về không đoàn kết ạ!
          Thầy ồ lên phấn khởi rồi giải thích thêm cho học sinh nghe. Thầy nói về ý nghĩa của việc đoàn kết, thầy nói cả việc toàn dân đoàn kết đánh giặc Pháp thắng lợi bằng các câu chuyện rất là hay, đến nỗi tất cả học sinh đang mất trật tự là thế mà cũng im phăng phắc để nghe. Vậy mà không ai ngờ được thầy lại là một nhân viên phòng nhì trong bộ máy của chính quyền thực dân Pháp. Điều này cho mãi đến năm 1962, nghĩa là sau đó gần sáu năm thì chính phủ mới cho người đánh xe ô tô về tận sân đình làng đọc lệnh bắt đưa đi làm mọi người không gì còn ngạc nhiên hơn thế.
          Trong thời gian học thầy Thiện, cậu chả phải lo gì đến việc học vì tất cả chương trình học chỉ nhằm cho học sinh đọc thông, viết thạo, thì cái việc đó cậu đã qua từ lâu rồi. Lẽ dĩ nhiên là cậu được thầy hết sức yêu quý vì dẫu sao cậu cũng là con mồi để thầy sử dụng khi cả lớp gặp bế tắc. Nhiều khi lớp gặp những bài khó đọc, thầy đã gọi đến ba bốn em mà vẫn chưa có em nào đọc tốt thì đến lúc đó cậu sẽ được gọi lên đọc làm mẫu để cho không khí lớp học đỡ căng thẳng đồng thời cũng kích thích các học sinh khác sẽ cố gắng chăm học hơn. Sau một năm học cậu cũng đã lên lớp một với sự đánh giá tốt của thầy giáo Thiện.
          Lên lớp một Hằng vẫn học ở lớp cũ nhưng là học buổi chiều, thầy giáo mới của lớp một là thầy Nguyễn Huy Chuyên, thầy là người ở ngay Tiền Thôn, nhà thầy cách lớp học có độ một cây số, hàng ngày thầy đi bộ tắt qua cánh đồng để xuống lớp học. Thầy Chuyên rất dữ đòn, thầy dữ đòn không khác cụ trưởng bạ ngày xưa là mấy. Cũng đã có nhiều bậc phụ huynh phản ảnh với nhà trường về việc này nhưng hầu như thầy cũng không chịu thay đổi.  Hàng ngày thầy không dùng roi mây nhưng lại dùng một cái thước gỗ bằng lim khá dài vừa để làm cây chỉ vào các chữ cho học sinh đọc bài, vừa để gõ xuống bàn làm hiệu lệnh yêu cầu học sinh trật tự, đến khi phạt học sinh thì cây thước trở thành một cái roi rất lợi hại.
          Thầy Chuyên cũng khá thân với cha mẹ cậu nên ông cũng không mấy khi động đến cậuT, nhưng cái chính là cậu cũng ít khi mắc lỗi, bài học thì không còn phải nói gì hơn vì mọi nội dung trên lớp cậu đều hoàn tất và vẫn giữ được phong độ như khi còn học ở lớp vỡ lòng. Thời gian học ở lớp một cũng qua đi nhanh chóng và sang đến năm 1958 thì cậu  đã lên học lớp hai. Mỗi ngày đi dạy học thầy Chuyên thường đi sớm hơn bình thường để vào nói chuyện với ông Tân trước khi đến lớp. Câu chuyện của hai người mỗi ngày cũng chỉ xoay quanh về thơ phú chữ Hán và vài ba câu chuyện về làng xóm cùng một vài quan niệm về văn phong, lễ giáo v v... Hình như hai ông có hẹn nhau từ trước nên khi thầy Chuyên xuống đến nơi thì ông Tân đã đun sẵn nước và pha xong ấm trà hiệu Chính Thái ướp hoa sói, đến khi uống tàn ấm trà thì cũng vừa lúc thầy đi đến lớp giảng bài. Cũng có nhiều hôm do mải đàm đạo mà thầy cũng đến hơi muộn, nhiều bạn xôn xao định bỏ về nhưng Hằng đã tiết lộ là thầy đã đến rồi nên các bạn ở lại chờ. Sang đầu năm học lớp hai cậu học kém hẳn đi vì hồi này cha cậu ốm khá nặng, nhiều hôm cậu phải nghỉ học để ở nhà để giúp bố một số việc sinh hoạt hàng ngày. Thầy Chuyên hồi này cũng ít qua lại uống trà vì thầy cũng bận nhiều việc, nhất là từ khi thầy lấy người vợ thứ hai này về lo quán xuyến việc nhà thay cho bà cả mất đã lâu.

                                     8

Việc học tập của Hằng đang có những tiến bộ thì lại không thể tiếp tục vì ông Tân ốm ngày càng nặng thêm lên, thế là Hằng phải nghỉ học để ở nhà trông nom bố cho mẹ ra đồng. Đến gần tết âm lịch năm 1960 thì ông cụ yếu đi nhiều, nhưng sau một thời gian chạy chữa thuốc men cùng nơi, khắp chốn ông cụ có khoẻ trở lại nhưng lại bị mất tiếng. Hàng ngày ông lại mở giấy bút ra để làm giấy sớ cho các con hương, đệ tử chuẩn bị cho kỳ khai xuân vào ngày mồng chín tháng giêng năm mới. Rất nhiều công việc cần sai phái nhưng cô con gái bé quá lại mải chơi nên ông Tân không gọi được chính vì vậy nên rất cần có người ở liền ngay bên cạnh để có thể ghé tai sát gần miệng nghe ông sai bảo.Thế là cậu lại phải bỏ học lần thứ ba trong quãng đời học sinh ngắn ngủi của mình để ở nhà giúp bố, có lẽ số phận đã xui khiến như vậy.
Tết canh tý năm 1960 chầm chậm qua đi trong không khí nặng nề và buồn. Ngay từ những ngày trước tết cậu đã không được đi chơi đâu xa vì còn phải ở nhà giúp bố các công việc dọn dẹp, bài trí tất cả các nơi thờ cúng trong chùa. Từ việc quét dọn toàn bộ khuôn viên cả chùa đến việc lau chùi các ban bệ, bao sái các pho tượng và các đồ thờ cả từ  trên tam bảo đến phủ mẫu cũng hết mấy ngày. Thế rồi thay chân hương, thay nước, thay hoa ở khắp mọi nơi, mọi chỗ cũng mất khá là thời gian.Từ chiều ba mươi đến hết ngày mồng ba tết, tất cả những người đi lễ chùa đều đến nhận sớ rồi tự mang lên tam bảo dâng lễ rồi lại tự mang sớ ra sân chùa để hoá.
          Ngày mồng chín tháng giêng đến rồi mà ông Tân vẫn bị mất tiếng chắc chắn là ông không có thể hoàn thành khoá lễ đầu năm được, trong lúc không thể tìm đâu ra người thay thế ông đành cố vận động con mạnh dạn đứng ra làm lễ thay mình. Trong mấy năm qua cậu có đọc thông viết thạo nhưng chỉ là đối với loại chữ quốc ngữ thôi chứ còn với loại chữ nho thì cậu chả biết một tý gì. Ông Tân liền đưa cho cậu một quyển kinh bằng chữ quốc ngữ và bảo cậu đọc thử, cậu đọc rất nhanh nhưng nó dõng dạc quá và chẳng ra thế nào cả. Ông Tân vẫn bắt cậu tập đi tập lại đến mấy lần, mỗi lần ông bắt cậu đọc lại nét mặt ông nghiêm đến lạnh lùng làm cho Hằng cũng hoảng. Cậu nghĩ có lẽ lần này nếu cậu không làm được chắc ông cụ sẽ cho mấy gậy chứ chẳng chơi, mặc dù từ khi bé đến lúc đó cậu chưa hề bị ông đánh lần nào. Cũng có lẽ chưa bao giờ bị đánh đòn nên cậu rất giát đòn, mặc dù cái sự miễn cưỡng đến khổ sở cậu vẫn đành phải có tập, cuối cùng thì cậu cũng đã đọc tương đối giống ông bố của cậu.
Thế rồi ngày mở khoá lễ khai xuân cũng đã đến, cả hai bố con ông Tân cùng ngồi trên sàn lễ, ông Tân thì gõ mõ còn Hằng thì đọc kinh thay cho ông trong một quyển sách in bằng chữ quốc ngữ. Nhiều người khi nghe cậu đọc kinh thì cứ tấm tắc khen có giọng đọc nghe thật êm dịu, duy chỉ mỗi việc là cậu không đọc được các bản sớ bằng chữ nho nên các con hương đệ tử  chưa được vừa ý lắm. Lần đầu tiên ngồi trên sàn lễ lại ngay trước mặt rất nhiều các cụ cao tuổi cậu run lắm, nhiều lúc tưởng như bị hụt hơi không đọc được nữa. Do cậu cũng chưa quen với việc kéo dài giọng ở những từ cuối và các đoạn nghỉ lấy hơi không được đúng chỗ thành ra nhiều cụm từ cũng bị cắt rời ra không còn liền mạch. Cũng may những câu kinh viết theo từ Hán nên khi đọc lên người nghe chỉ thấy âm thanh đều đều như nhau, còn về ý nghĩa thì cả người đọc lẫn người nghe cũng chẳng hiểu gì, có lẽ vì thế nên chả có cụ nào có phản ứng cả. Sau khi đọc tên các lá sớ của từng gia đình xong thì cậu được rút lui khỏi sàn lễ, thật là một phen hú vía. Những ngày sau đó ông Tân vẫn tiếp tục bắt cậu  lên làm lễ vào các buổi chiều. Mỗi buổi cậu lại phải đọc một bản kinh vẫn bằng cái giọng kéo dài nghe chẳng rõ tiếng nào vào với tiếng nào. Những hôm ông Tân mệt mỏi  không giám sát là Hằng chỉ thắp hương nhanh nhanh, chóng chóng cho xong rồi lẩn ra phía cổng để vào trong làng chơi với lũ bạn cùng tuổi.
Từ sau những ngày tết sức khoẻ ông Tân ngày càng giảm sút, sự đi lại cũng chỉ loanh quanh trong nhà mà không ra khỏi cổng chùa. Nhiều việc sinh hoạt cá nhân đã thấy cần phải có người giúp đỡ mới hoàn thành, thế là cậu lại phải nghỉ học ở nhà giúp bố. Ban đầu tưởng cũng chỉ mươi ngày là cụ Tân sẽ khỏi không ai ngờ được cũng từ ngày đó cụ cứ suy yếu dần cho đến khi cụ mất.
Phải nghỉ học để ở nhà trông bố ốm là việc rất cần phải làm, không những thế còn cần phải tự nguyện một cách hết mình mới thể hiện là một người con có hiếu, giống như lời răn dạy của các thầy giáo thường ngày trên lớp. Cho dù là vậy nhưng đó là đối với những người đã lớn, còn đối với các cô cậu nhóc con thì dù có nói thế nào thì cái sự ham chơi, ham tụ tập cùng với chúng bạn vẫn luôn lôi kéo và cuốn hút không gì cưỡng lại được. Ngoài cái sự chơi bời còn cái sự học của cậu cũng đang có nhiều điều tốt đẹp, trong khi cậu rất vui vì được thầy yêu, bạn mến vì cậu học khá mà lại hay giúp đỡ bạn bè nên cái việc phải bỏ học làm cho cậu buồn hơn cả việc không được đi chơi. Thế là lại một lần nữa Hằng lại phải bỏ học khi chưa qua hết học kỳ một của lớp hai trường phổ thông.
Sau ngày bố mất, nhà còn không biết bao nhiêu là chuyện sảy ra đang cần phải giải quyết. Nào là chuyện nợ nần chồng chất của mẹ trong khi vay mượn để thuốc men cho bố trong suốt hai năm vừa qua. Mãi sau này mẹ kể lại cậu mới biết số nợ lúc đó phải trả trong suốt bẩy năm mới hết, cậu không ngờ số nợ lại lớn đến như vậy. Sau việc nợ lại đến việc làng muốn nhà cậu phải rời đi để làng đón sư về trông coi chùa cho làng, chả là vì việc cúng lễ mẹ cậu không làm bao giờ còn cậu thì bé quá, cậu không thể đảm đương được. Thật là những việc tày trời cả, những việc không thể đừng được nữa, những việc dường như quá lớn đối với một gia đình của một người đàn bà goá cùng với những đứa trẻ hết sức ngây thơ. Có lẽ những con người nhỏ bé kia sẽ không vượt qua được mất nếu như họ không gặp được những điều may mắn mà số phận đã giành cho.
Ngày làng đón nhà sư nữ Đàm Thuỷ về chùa thì mẹ con Hằng vẫn chưa tìm được nơi cư trú. Sau mấy ngày đi vắng vào mãi tận Quan Đình, Quan Độ để thăm hỏi, tìm kiếm vẫn chưa có kết quả, bà mẹ Hằng  đành quay trở nhà để tìm cách khác. Khi về đến nhà thì bà mới biết nhà sư mới làng đón đã về chùa rồi. Sau một hồi gặp gỡ, bà cũng nói qua cho nhà sư biết về hoàn cảnh của mình, rồi bà hứa sẽ cố gắng chuyển đi trong thời gian ngắn nhất. Có lẽ lúc ấy bà cũng cứ nói phóng vậy thôi chứ kỳ thực bà cũng chưa biết tính thế nào. Mãi đến chiều hôm đó thì nhà sư mới gọi bà ra để nói về quyết định của sư về việc đồng ý cho gia đình bà cùng ở lại chùa cho đỡ vắng vẻ. Chỉ có điều là số ruộng trong khu nội tự được tính vào số ruộng mà đội cải cách chia cho thì gia đình phải nhượng lại một phần cho sư canh tác để lấy lương thực và giành một phần cho sắm sửa hương đèn. Đang lúc khó khăn về nơi ở mà lại có được điều này thì đó là sự đáng mừng không còn gì hơn được. Sau chuyện nhà ở là đến chuyện nợ nần, chuyện này còn nan giải hơn nữa vì nhà cậu đã ở vào trạng thái nghèo túng đến mức chẳng có gì có thể bán được lấy dăm chục bạc. Không biết sẽ giải quyết việc này ra sao nếu như bà Thơ Bẩy có ý đòi các khoản nợ mà mẹ cậu vay mượn trong suốt thời gian vừa qua.
Nói về bà Thơ Bẩy trước hết phải kể về mối quan hệ của bố Hằng với ông Thơ Bẩy cách đó mười mấy năm về trước. Ngày ấy Hà Nội và một phần của tỉnh Bắc Ninh vẫn nằm trong vùng tạm chiếm của quân Pháp, chính quyền của làng xã vẫn theo cách sắp đặt của chính quyền phong kiến, nghĩa là việc quản lý làng xã vẫn do lý trưởng cùng với các ông chánh phó hội cùng với các chức dịch đảm trách. Bên cạnh đó là các bộ phận chuyên môn như trưởng bạ, thơ ký làm các công việc về giấy tờ văn tự, khế ước vv… Các công việc giấy tờ này ông Thơ Bẩy vẫn thường nhờ ông Tân phụ giúp mỗi khi cần phải trình lên bề trên vào các dịp cuối năm hoặc cuối các kỳ phu phen thuế khoá. Ngoài các công việc về tính toán, ghi chép sổ sách, ông Tân lại khá thông thuộc các thuật dự đoán về vận mệnh thông qua tứ trụ và bốc quẻ dịch nên khi xong công việc hai ông thường ngồi bàn nhau về lẽ thuận nghịch của trời đất, số mệnh của xã hội cũng như của  bản thân mỗi người. Trước đó ông Tân đã dự đoán về đứa con sắp sửa chào đời của ông là trai, đến khi bà vợ của ông đã sinh ra một cậu con trai vừa trắng trẻo vừa bụ bẫm thì ông càng tin tưởng. Cũng từ đấy mối quan hệ của hai ông càng thân mật hơn và lẽ đương nhiên là có sự quan hệ gần gũi hơn của hai bà vợ, sau khi ông Thơ Bẩy mất đi, mối quan hệ có thưa đi một chút nhưng cũng không phải là hoàn toàn mất hẳn.
Trong những năm giảm tô, cải cách nhà bà Mỹ, vợ ông Thơ Bẩy bị đội cải cách quy thành địa chủ. cũng từ đó gia đình bà luôn bị giám sát và bị cách ly ra khỏi cộng đồng, mọi người trong gia đình bà luôn sống cô đơn trong sự ghẻ lạnh của tất cả mọi người trong họ, ngoài làng. Kể ra mà nói thì chưa hẳn mọi người đã muốn xa lánh gia đình nhà bà, mà chủ yếu là sợ đội ghép cho tội thông đồng với địa chủ để rồi chuyển thành tội phạm phản dân, hại nước nên chẳng dám gần. Biết đâu họ chả lại vu cho là địch để rồi đem đi bắn thì khốn. Cả làng lúc ấy chỉ còn ông bà Tân là dám đi lại với bà Mỹ bởi vì ông bà Tân là những người quá bần cùng trong suốt cả một thời gian dài, cái sự bần cùng đã có lúc làm cho ông bà Tân không còn cảm nhận ra sống tốt hơn hay là chết tốt hơn nữa, cũng chính vì vậy mà ông bà  không còn biết sợ đội là gì nữa, nhất là sau khi đội không cho ông Tân vào Nông hội, khi ông không nghe theo lời đội tố ông Tổng Tường là một địa chủ ở ngay gần nhà ông.
Chính từ mối giao cảm ấy mà sau này bà Mỹ đã đối tốt trở lại với bà Sâm và giúp bà một cách vô tư đến thế. Ngoài bà Mỹ ra bà Sâm còn nhờ cậy được rất nhiều người khác trong làng nữa nên số nợ bà vay khi ông Tân ốm đã được hoãn, trả, vay rồi lại hoãn, trả, vay cho đến khi trả hết kéo dài đến gần bẩy năm liền mà chẳng ai có điều tiếng gì.

                                                   9

Mặc dù nhà chùa đã có lời như vậy nhưng hai mẹ con cậu vẫn muốn tìm cách để sớm có điều kiện mua được ngôi nhà cho mình, trả lại gian buồng bấy lâu nhà chùa vẫn cho ở nhờ. Trong một lần toàn xã có chủ trương cấp đất ở cho một số hộ đông con, Hằng đã cùng với mẹ lên gặp ban lãnh đạo của thôn để xin đất làm nhà. Kỳ họp năm ấy ban lãnh đạo của xã kết hợp với thôn đã chia đất cho rất nhiều người, mẹ con bà Sâm cũng được chia mười thước đất để làm nhà ở. Có đất cũng đã là rất đáng mừng, nhưng mà còn lấy cái gì để mà dựng thành nhà mới là khó.
Trong những năm đầu ra ở chùa ông Tân đã cùng các con trồng một lứa xoan có dễ đến hai chục cây nhằm để sau này đốn xuống đem ngâm để làm nhà. Đến khi có đất bà Sâm định cho đốn xuống đem ngâm thì ban lãnh đạo của làng ra giữ lại. Sau khi nghe mẹ con bà Sâm trình bày về dự định trồng xoan và cố chứng minh về việc trồng xoan là do gia đình của bà thực hiện cùng những chứng thực của nhiều người nhưng những người lãnh đạo vẫn kiên quyết không chấp thuận. Họ ngang nhiên thừa nhận rằng họ có biết số xoan này là của ông bà trồng nhưng là trồng trên đất của làng nên bà không được lấy. Trước những phán quyết hết sức cứng rắn của các ngài chức sắc thời mới của làng, mẹ con bà Sâm đành ngậm bồ hòn làm ngọt. Thế là kế hoạch làm nhà của gia đình Hằng đã hoàn toàn phá sản. Cái sự vui mừng bao nhiêu khi được cấp đất đã được thay bằng nỗi tuyệt vọng bấy nhiêu khi triển khai kế hoạch làm nhà.
Tuy rằng không làm được nhà nhưng việc phải rời chùa luôn canh cánh trong lòng Hằng. Nhiều lần Hằng cằn nhằn với mẹ khi thấy bà cụ hình như không đả động gì đến việc rời chùa. Ngày ấy có một đôi vợ chồng người con cả của ông lý Xương tên là Long vừa mới xây lại nhà nhưng chưa ở được bao lâu thì anh Long lăn ra chết. Người vợ bồng bế hai con về quê mẹ đẻ bỏ lại cho người em chồng ngôi nhà vừa mới xây xong còn chưa sạch mùi vôi. Người em ấy không ai khác lại chính là anh Phượng, người mà một thời bà Sâm đã từng làm vú nuôi trông nom anh khi bà đến làm vú cho nhà ông lý Xương. Tuy làm vú nuôi nhưng bà Sâm coi anh Phượng như con của mình nên ngay cả khi anh Phượng đã lớn tuổi rồi anh vẫn luôn quý mến bà cụ như người ruột thịt, đến khi bà Sâm ngỏ ý đến ở nhờ là anh đồng ý ngay. Ngày hôm sau anh Phượng dọn sang nhà của người anh để ở, gian nhà cũ của anh cũng kề bên cạnh anh nhường lại để bà Sâm dọn vào. Cũng từ ngày ấy gia đình Hằng không còn ở chùa nữa, tuy nhiên gia đình Hằng vẫn là người chưa có nhà, một gia đình có hoàn cảnh đặc biệt ở nông thôn lúc bấy giờ...


                                                    ĐI HỌC

                                                         1

Sau ngày ông Tân mất một thời gian thì cũng đã gần hết năm học đối với các trường phổ thông, thế là Hằng đành phải bỏ dở hơn nửa năm học, chả biết rồi khi sang năm mới cậu sẽ đi học như thế nào. Ngày ấy anh cả vừa mới từ bộ đội chuyển ngành về Công ty xây dựng của Bộ nội thương, đơn vị của anh đóng ở khu Sở Dầu thành phố Hải Phòng khu này rất gần khu ga Thượng Lý. Công việc hàng ngày của anh là cùng với các công nhân khác vào sở dầu để xây lắp các bồn dầu bằng thép.
Suốt trong mấy ngày về nhà lo việc tang lễ xong anh cả lại về đơn vị công tác. Gần hai tuần sau đó anh mới lại lên bàn với mẹ kế về việc đưa cậu em xuống ở với anh một thời gian. Việc cho cậu xuống với anh có nhẽ là để cho cậu đỡ buồn và cũng để hai anh em có dịp gần gũi nhauS, để rồi cùng bàn kế hoạch ổn định đời sống gia đình trong thời gian tới. Thế rồi Hằng đi cùng với anh cả xuống Hải Phòng gần ba tháng trời rong chơi khắp nơi trên thành phố cảng. Khi Hằng rời Hải Phòng về đến nhà cũng vừa dịp bước vào năm học mới nhưng cậu không thể đi học cùng các bạn cùng lớp cũ vì cậu đã bỏ học thời gian quá dài, chắc gì cậu đã theo được, nhưng điều quan trọng hơn cả là không ai có quyền cho cậu học tắt. Thấy cậu con trai hình như có ý không chịu đi học nữa bà Sâm đành vào gặp thầy giáo Chuyên để nhờ thầy động viên cậu đi học tiếp. Thầy Chuyên vốn có mối quan hệ tốt với gia đình cậu từ trước nên ông đã ra tận nhà động viên cậu tiếp tục đi học. Ông hứa sẽ nói với nhà trường về hoàn cảnh  cùng với học lực của cậu để nhà trường xem xét chấp nhận cho cậu cùng lên học ở lớp ba như các bạn khác. Ông nói lớp ba của cậu sẽ học là do ông Bàng trực tiếp dạy, ông Bàng lại là ông chú của thầy nên thầy sẽ nói để ông nhận cậu vào. Sáng hôm sau cậu cũng chuẩn bị sách vở đến lớp như các bạn khác nhưng trong bụng thì luôn lo lắng không biết đến lúc vào lớp thì sự việc sẽ diễn ra làm sao.
Lớp ba mà Hằng sẽ theo học được bố trí tại góc bên trái của đình làng Tiền Thôn như lời của thầy Chuyên nói nhưng không phải do thầy Bàng dạy mà lại do một thầy giáo mới chuyển từ nơi khác về từ mấy ngày trước đó. Tất cả các bạn đã tập trung đến lớp sớm hơn mọi khi, trong đó có cả Hằng. Mọi người lại tổ chức các trò chơi như mọi ngày kể cả khi ở làng cũng như khi đến lớp của năm học trước, chỉ có mình Hằng thì rất lo, nhất là khi thấy thầy giáo dạy lớp này không phải là thầy Bàng. Cậu cứ nghĩ không biết thầy Chuyên có biết điều này không, ngộ nhỡ thầy giáo mới hỏi đến thì mình sẽ nói ra sao nhỉ. Càng nghĩ cậu càng lo lắng, lo lắng đến nỗi bồn chồn đứng ngồi không yên, lo lắng đến ngao ngán cả người. Có lẽ linh tính của cậu đã đúng về sự việc mà cậu vừa nghĩ tới và rồi sự việc ấy đã sảy ra. Sau khi thầy giáo vẫy tay gọi các học sinh về để tập trung, thầy đọc lần lượt danh sách học sinh của lớp, thầy đọc qua gần hết số học sinh có tên với các chữ cái ở vần Đ rồi sang các vần khác, Hằng nghĩ có lẽ sắp tới sẽ có tên mình. Thế rồi thầy chuyển qua hết vần có tên của Hằng mà cũng không thấy, Hằng lại nghĩ có lẽ việc mình nghĩ đến vừa rồi chả lẽ lại đúng như thế chăng, hay là tên mình sẽ ở cuối cùng vì đây là trường hợp đặc biệt được bổ sung vào sau. Hằng đang nghĩ ngợi lan man thì thầy Hiệu đã đọc đến tên học sinh cuối cùng của lớp. Khi thầy rời mắt khỏi quyển sổ điểm ngước lên thì thầy nhận ra vẫn còn một học sinh nữa chưa vào chỗ ngồi, thầy hơi bối rối,  có lẽ thầy cho là mình đọc sót tên một ai đó, thầy xin lỗi sau đó thầy hỏi:
- Em tên là gì?
Hằng lý nhí trong miệng nói tên của mình raH, thầy lại cúi mặt vào sổ điểm để tìm tên của cậu, thầy tìm đi, tìm lại nhưng vẫn không thấy, trông rõ là thầy rất băn khoăn chưa biết là sẽ sử lý trường hợp này ra sao. Kể từ khi Hằng biết mình không có tên trong sổ điểm Hằng đã nghĩ đến việc thầy Chuyên có khi đã quên không nói việc này với thầy Bàng, hoặc giả thầy Bàng chuyển giao lớp cho thầy Hiệu lại quên không nói về trường hợp của mình nên đến bây giờ sự thể đã sảy ra như vậy, tuy nhiên lúc ấy Hằng đâu có nghĩ được mạch lạc như thế. Phần thì lo lắng, phần thì xấu hổ với bạn bè, mặt thì đỏ gay, đỏ gắt, tay chân thì luống cuống không biết để vào đâu, cậu gần như phát khóc lên được khi chỉ còn có một mình đứng ở ngoài hàng. Có lẽ phải đến ba, bốn phút sau cậu mới trấn tĩnh lại được, lúc này cậu lo nhất là thầy sẽ cho là mình là người gian trá, còn việc có học hay không đã không còn là chuyện quan trọng nữa vì dù sao cậu đã quyết định nghỉ học rồi, chẳng qua việc cậu lên nhập học hôm nay là do thầy Chuyên bàn ra và bảo cậu làm chứ cậu có tự nhiên để lên đây rồi lại chịu xấu hổ như thế này đâu. Sau khi tự tìm cho mình một lý do mà cậu cho là chính đáng thì cậu mạnh dạn hẳn lên và cậu quyết định nói hết tất cả cho thầy Hiệu về sự việc mà thầy thấy lạ như vừa rồi. Sau khi nghe Hằng nói một thôi những câu đứt quãng thì thầy Hiệu cũng vỡ lẽ được phần nào, thế rồi thầy Hiệu nhanh chóng quyết định nhận Hằng vào Lớp. Thầy chuyển một bạn ở bàn đầu xuống cuối lớp để xếp cho Hằng ngồi ngay vào chỗ đó. Vừa xếp vị trí cho Hằng thầy vừa nói với Hằng và dường như thầy cũng nói với cả lớp:
- Trước hết em cứ học buổi hôm nay, ngày mai tôi sẽ trao đổi lại với các thầy rồi sẽ sắp đặt lại sau.
Sau khi phát biểu với học sinh về việc thầy vừa chuyển về dạy ở trường và nói thêm về lý do tại sao thầy Bàng sẽ không dạy ở lớp này như sự mong muốn của các phụ huynh đề nghị hồi cuối năm ngoái vì thầy Bàng còn phải đi chữa bệnh mất một thời gian. Tiếp theo sau các phát biểu của thầy là một chương trình ôn tập kiến thức năm cũ, thầy nhắc lại một số nội dung đã học năm ngoái sau đó thầy kiểm tra. Người được thầy gọi lên bảng đầu tiên là Hằng, thầy ra một đề toán đố sau đó bảo Hằng giải, thầy còn yêu cầu viết cả phép tính lẫn lời giải. Lúc nãy mất bình tĩnh bao nhiêu thì giờ đây cậu lại bình tĩnh bấy nhiêu, các phép tính và lời giải được Hằng viết ra một cách nắn nót trông đến đẹp làm thầy Hiệu rất hài lòng, thầy cất giọng hỏi:
- Tất cả các em đều có đáp số như thế chứ?
Cả lớp đồng thanh cất tiếng (có) âm vang khắp cả một góc đình. Thầy tiếp tục kiểm tra một số bạn khác, cũng có bạn không làm được nhưng rồi lại có bạn xung phong lên làm thay cuối cùng đều giải xong các bài tập thầy ra. Buổi học qua đi nhanh chóng và chẳng để lại điều gì vướng bận, chỉ có mỗi mình Hằng lại phải lo nghĩ trên suốt chặng đường về. Ngay chiều hôm ấy Hằng nói với mẹ về ý định nghỉ học của mình với sự quyết đoán đến không ngờ. Nhìn sắc mặt con bà mẹ không khỏi lo lắng, không biết có việc gì đã làm cho nó bất mãn đến vậy. Có lẽ câu chuyện buổi sớm nay đã làm cậu tổn thương quá lớn về lòng tự trọng của mình nên sau khi nói xong với mẹ là cậu bỏ đi chơi ngay mà không có vẻ muốn giải thích gì thêm. Biết tính con bà từ khi còn nhỏ nên bà không khỏi băn khoăn, bà đoán mãi mà vẫn không biết lý do ra làm sao, bà nghĩ có lẽ phải hỏi lũ bạn nó thì mới tìm ra được nguyên nhân của việc này. Thế rồi bà cũng tìm ra nguyên nhân của sự việc, bà liền vào gặp thầy Chuyên để hỏi xem có cách gì giải quyết được không. Cũng may là hồi này thầy Chuyên dạy vào buổi chiều nên bà vào gặp được ngay. Sau khi nghe bà nói lại sự việc thầy Chuyên mới giật mình nhớ ra, thầy dặn buổi chiều thầy sẽ rẽ qua chỗ hội đồng nhà trường để nói lại với thầy hiệu trưởng, ông còn dặn bà về bảo ngày mai nó cứ đến lớp kẻo các thầy phiền lòng. Ông còn bảo với bà rằng ông đã nói với thầy hiệu trưởng và thầy đã đồng ý rồi chắc vì thay giáo viên nên mới xảy ra việc vừa rồi bà bảo nó cứ yên tâm mà đi học. Chiều tối về nhà cậu nghe mẹ nói vậy cũng vẫn bán tín bán nghi, tuy nhiên cậu vẫn làm hết các bài tập để ngày mai đến lớp.
Vừa bắt đầu vào lớp thầy Hiệu liền điểm danh, khi đọc đến tên của Hằng ở dòng cuối của sổ điểm thầy thông báo với cả lớp về sự việc của Hằng hôm qua, thầy nói:
- Trong lớp ta có thêm bạn Hằng nữa là có tất cả sáu mươi học sinh. Bạn Hằng không có học bạ nên danh sách các thầy chưa kịp đưa vào, lớp có hơi đông các em cố gắng tập trung nghe giảng hôm sau nhà trường sẽ sắp xếp lại.
Ngay sau thông báo cho cả lớp thầy Hiệu quay sang nói với Hằng:
-Tối qua thầy Trường hiệu trưởng đã trao đổi với thầy về việc này, Hằng cứ đi học bình thường cùng các bạn, trường hợp không theo được thì sẽ chuyển lớp sau.
Buổi học thứ hai bắt đầu bằng việc kiểm tra vở bài tập ở nhà của một số các bạn, người phải mang vở lên đầu tiên vẫn là Hằng. Thầy xem vở của Hằng khá kỹ, sau đó mới xem đến vở của các bạn khác, xem xong thầy bảo với cả lớp:
- Số bài tập thầy cho các em về nhà làm không khó mà lại nằm ở ngay trong sách giáo khoa vậy mà các em làm sai cả. Trong bốn em chỉ có Hằng làm hết và làm đúng cả số bài ra, còn lại hầu như các em làm thiếu và lại sai hết cả.
Sau khi thầy ghi chép vào các quyển vở của các bạn xong thầy ngửng đầu lên và cất tiềng gọi:
- Em Hằng lên bảng, em giải bài số hai cho cả lớp tham khảo, các em nhớ ghi lại bài này, số bài còn lại hôm sau thầy sẽ chữa.
Hằng lại lên bảng để chữa bài tập như hôm trước, cậu viết nắn nót hơn và trình bầy rất gọn gàng cả vế làm tính lẫn vế lời giải. sau khi viết xong bài giải lên bảng thầy vẫy Hằng lại đưa cho số vở thầy vừa thu để kiểm tra lúc đầu giờ, thầy bảo:
- Em trả lại sách cho các bạn chép bài.
Về đến chỗ ngồi Hằng mới giở vở ra xem, một hàng chữ viết bên lề vở cứ đỏ rực lên – (Làm bài tốt, cần cố gắng hơn) Trên mỗi đáp số thầy viết một chữ (Đ) trông như những trái đào đỏ bao trùm lên trên những con số viết bằng mực tím. Cũng ở bên lề trái của cuốn vở, chỗ bài tập số hai thầy viết con số mười rõ to, dưới con số là một cái gạch dài kéo gần hết một phần tư chiều rộng cuốn vở.
Hằng vui lắm với con số mười đầu tiên của năm học và cũng là con số mười đầu tiên của cả lớp. Từ đấy trở đi hình như Hằng đã quên đi cái sự đã làm cậu buồn bã suốt hai ngày qua, cậu lại vui chơi ồn ào cùng các bạn như những ngày nào. Từ sau ngày phải nghỉ học ở nhà trông nom bố trong hơn sáu tháng qua hình như đây là lần đầu tiên cậu bỏ được khuôn mặt rầu rĩ để trở lại khuôn mặt rạng rỡ thông minh vốn có.

                                                          2

Những năm học lớp ba cũng qua đi nhanh chóng, trong lòng của Hằng không để lại một chút ấn tượng nào về sự việc diễn ra hồi đầu năm học. Kết quả của chín tháng học với bẩy lần lên bảng danh dự đã làm cho các thầy có liên quan đến câu chuyện đặc biệt của Hằng thở phào nhẹ nhõm. Trong kỳ phát phần thưởng cuối năm học Hằng thật vui khi lên nhận những quyển vở bìa đỏ mới tinh thơm mùi giấy mà thầy hiệu trưởng trao cho. Cũng trong năm học ấy Hằng được các anh phụ trách thiếu niên kết nạp vào Đội TNTP của trường. Ngoài việc sinh hoạt ở Đội TNTP của trường Hằng còn sinh hoạt ở Đội TNTP ở làng và cũng được các anh phụ trách rất yêu mến và giao cho rất nhiều công tác. Hàng ngày sau các buổi học về Hằng lại đi chăn bò cùng các bạn, buổi tối thì tham gia sinh hoạt văn nghệ của Đội thiếu niên ở trong thôn. Anh Thỏ phụ trách thiếu niên là người rất yêu văn nghệ, anh có chân trong đội tuồng cổ của làng, anh thường đóng các vai kép nhỏ trong các vở. Hình như máu nghệ sĩ trong anh đã cuốn hút rất mạnh bọn trẻ trong Đội thiếu niên, nhất là những cậu bé cũng ham thích ca hát như Hằng. Suốt cả mùa hè năm ấy Hằng ít khi ở nhà bởi những cuộc vui trang lứa và các cuộc văn nghệ liên miên không khi nào dứt. Hầu như các đêm khuya sau khi sinh hoạt xong Hằng ngủ ở nhà bạn mà không về nhà. Sau mấy lần thấy Hằng đi vắng mẹ cũng đi tìm, đến khi thấy Hằng ngủ ở nhà bạn mà không có chuyện gì sảy ra thì bà cũng yên tâm mặc cho Hằng muốn ở đâu thì ở. Có lẽ phải đến hơn một năm Hằng chuyên ngủ ở nhà Bộ, về sau Hằng còn ngủ ở nhà Quỳnh và nhà Đĩnh, đấy là nói chuyện của những năm sau này. Bạn bè của Hằng không chỉ có những đứa cùng học một lớp mà còn cả những đứa ở làng lớn hơn một chút như Quỳnh và cả những đứa cùng tuổi nhưng không cùng học một trường như Bộ, ngoài ra còn cả bọn ít tuổi hơn vài tuổi cũng bị cuốn hút vào cái guồng máy mê chơi và nghịch ngợm. Nói là mê chơi và nghịch ngợm vậy thôi chứ thực ra tất cả các đứa trẻ đều rất dễ thương và đáng mến bởi những trò chơi của chúng chẳng làm hại cho ai. Mỗi ngày chúng vẫn hoàn thành công việc của mình như chăn bò, cắt cỏ, rồi cả các việc như bắt cua, bắt cá, lấy rau lợn và còn biết bao nhiêu việc khác nữa trong các việc vặt của gia đình.
Ngày ấy các sinh hoạt văn hoá hết sức hiếm hoi, ngoại trừ những ngày làng vào đám thì mới có một vài tối biểu diễn văn nghệ. Những làng có đội văn nghệ thì tự đứng ra biểu diễn lấy, còn những làng không có đội văn nghệ thì đi thuê ở các làng bên cạnh. Mỗi tháng cả xã mới được đội chiếu bóng lưu động về xã chiếu cho hai buổi, hoặc giả các làng lân cận không biết bằng cách nào đó thuê được các đội cải lương Chuông vàng Thủ đô, đội cải lương Kim Phụng về diễn một vài tối thì vui không thể nào kể xiết. Những buổi như thế người đi xem thường rất đông, nên cả trẻ con lẫn người lớn đều cố gắng nấu cơm ăn sớm để đi đến mua vé vào xem. Nhiều khi mua vé vào sân từ lúc chưa lặn mặt trời, rồi chờ đợi hơn ba tiếng đồng hồ buổi diễn mới bắt đầu thế mà rồi cũng chả thấy ai ca thán điều gì. Riêng lũ trẻ con thì không thể chủ động về việc cơm nước được vì bố mẹ chúng có cần gì mà phải nấu cơm vào lúc nửa chừng nửa vời như vậy, vì thế mà chúng thường nhịn đói để đi xem. Lúc chờ đợi và lúc xem thì chúng không thấy đói, chỉ đến lúc về thì chúng mới lả người ra, nhưng lúc ấy chúng cũng đành phải chịu vậy không biết kêu ai, mà kêu ai cho được, mình làm mình chịu thế thôi. Đấy là nói những đứa có tiền, lại còn những đứa không có tiền thì chỉ còn cách trốn chui rào để mà vào. Đa số các đội chiếu bóng cũng như các đội biểu diễn văn nghệ hay thuê các vị trong ban công an của địa phương hoặc các tổ dân quân du kích canh gác và họ làm rất chặt nên nhiều khi các cậu nhí không thể có cách nào chui trốn được. Lẽ dĩ nhiên đành phải đứng ngoài chờ tháo khoán mới được vào xem vớt vát được vài cảnh, vài màn cuối.  Không biết có phải do cách giáo dục ngày ấy nghiêm cẩn hơn thời bây giờ hay sao mà đa số các đứa trẻ không tiền thì cũng tự chịu vậy thôi chứ chả có đứa nào dám ăn cắp đồ của cha mẹ đi bán lấy tiền đi xem bao giờ.
Ngày ấy lũ trẻ cũng có rất nhiều các trò chơi và chúng thường tổ chức chơi một cách nhanh chóng. Những trò chơi đơn thuần mang tính ăn thua như đánh bi, đánh đáo, thổi diêm, thổi nịt, thậm chí cả các trò đánh rải ranh, đánh cóc, chơi ô ăn quan, là những trò rất dễ tổ chức. Ngoài ra còn các trò chơi như đánh bi chọi, đánh khăng; những trò chơi mà những kẻ thắng có quyền bắt kẻ thua phải cõng, phải kiệu, phải hầu hạ kẻ thắng một việc gì đó ví thử như dắt trâu, gánh cỏ vv…Cũng có trò chơi cho phép kẻ thắng bôi lên mặt kẻ thua một vệt nhọ nồi đen kít trông đến ngộ. Trò này rất thịnh với các ván bài Tam cúc hoặc Tu lơ khơ giữa ba bốn đứa quây tròn cùng đánh trong những chiều đông rét mướt.

                                                        3

Năm nay các học trò lớp bốn phải lên học nhờ ở một cái đình của làng Thạc Quả. Mấy đứa ở Tiền Thôn, mấy đứa ở Hậu Thôn đi học gần hơn nên chúng thường đến rất sớm. Hôm nào cũng vậy, khi Hằng và bọn học trò của làng Đồng Dầu vừa đến là lớp vào học ngay nên không đứa nào kịp giở sách ra xào qua bài cũ nên khi thầy kiểm tra hầu như các cậu không trả lời được. Nhất là những hôm trong xã có văn nghệ hoặc có chiếu phim thì càng tệ hơn vì bọn trẻ càng không kịp học bài cũ, không kịp làm bài tập và lẽ dĩ nhiên là thường bị thầy phạt bắt ra khỏi lớp đứng ở ngoài đó mà nghe giảng cho đến hết tiết học mới được vào. Trong số học sinh ở Tiền Thôn luôn bị mắng, bị phạt là cậu Lực, cậu Thu. Thật ra là các cậu này bận việc nhà quá nhiều nên không có thời gian mà học nữa. Tuy nhiên khi đã là học sinh thì cho dù thế nào thì việc học cũng không được trễ nải, cho dù thế nào thì thầy cũng không chấp nhận cho những học sinh như vậy. Tuy học hơi kém nhưng mà Lực lại rất khéo tay, Lực làm những bộ râu giả bằng sợi hệt như các bộ râu của phường tuồng, ngoài ra Lực còn làm những cái gậy nhọn đầu buộc những sợi tơ xanh đỏ cũng giống như các đạo cụ của phường tuồng trông đến là đẹp. Mỗi hôm đến lớp sớm là Lực đeo râu, mang gầy ra rồi nhảy từ bàn này sang bàn khác múa hát như một kép hát. Lực đóng đủ các vai mà Lực biết, khi thì là vai Trương Phi, có khi lại là vai vua, mà cũng không biết vua của triều đại nào vì vua Đường thì cũng như vua Tống, cũng chỉ có bấy nhiêu câu hát như vậy mà thôi.
Thế rồi chín tháng học của lớp bốn cũng đã qua đi một cách nhanh chóng. Đây là năm học cuối cùng của chương trình học cấp một. Rất nhiều học phần khá cao đã được đưa vào chương trình để làm cơ sở kiến thức cho bậc học cấp hai sắp tới. Những cô bé, cậu bé không dễ gì có thể tiếp nhận được nếu không chịu khó học bài và làm các bài tập một cách đầy đủ. Sang năm nay Hằng học tốt hơn so với năm ngoái. Thầy Vũ Kim Đàm luôn để ý khá đặc biệt đến cậu trong suốt cả năm học về mọi mặt làm cho cậu lúc nào cũng như bị căng ra. Không biết có phải vì câu chuyện vào lớp theo kiểu nhảy cóc của cậu hồi năm trước hay không mà hầu như hiếm có buổi học nào thầy bỏ quên kiểm tra đến cậu. Có lẽ chính vì thế mà kết quả học của cậu khá tốt so với nhiều bạn cùng lớp. Ngoài những phần thưởng cậu được nhà trường khen cậu còn được thầy đã ghi vào học bạ những điều thật tốt đẹp. Thầy còn mạnh dạn ghi vào đó nhận định của thầy về triển vọng văn học của cậu. Những điều thầy ghi vào học bạ nói trên cũng mãi sau này cậu mới biết do cậu được nhận lại được quyển học bạ do cô giáo chủ nhiệm lớp 5c của cậu đưa cho.
Khi ngồi viết những dòng này trên trang sách cậu không khỏi trạnh lòng khi nghĩ về những dòng nhận xét của thầy giáo Đàm. Những dòng nhận xét vừa có ý khen ngợi nâng đỡ, vừa mang tính khuyến khích dường như thầy bảo hãy cố gắng hơn lên. Thế mà cậu đã không làm được gì, thật không xứng đáng với niềm mong mỏi của một người thầy. Kể ra thì quyển học bạ cũng đã bị cháy mất cùng với hàng đống sách vở tài liệu mà cậu đã gửi anh Hiệp trưởng kho vật tư của nhà máy điện Thanh Hoá trước khi cậu đi bộ đội. Không biết thế nào mà khi cả đống sách vở của cậu cùng với hàng đống các sổ sách cùng với phiếu xuất kho bùng cháy không sao cứu được thì quyển học bạ lại vẫn còn. Sau khi cậu rời bộ đội phục viên về đơn vị nghe tin kho bị cháy, trong đó có cả số sách vở tài liệu của cậu thì cậu cũng chẳng còn muốn đến hỏi anh Hiệp làm gì nữa. Thế mà đến gần hai năm trời sau anh Hiệp lại đưa cho cậu quyển học bạ rách bìa này, thành ra mỗi khi cầm đến nó cậu lại tự dằn vặt về những lời thầy đã ghi trong đó.

                                                       4

Từ sau ngày hoà bình lập lại Đảng và Chính phủ cũng đã tập trung nhiều cho công tác giáo dục, tuy nhiên mọi sự cố gắng cũng chỉ giúp cho xã Dục Tú có cơ ngơi cho một cấp học mà thôi. Cả huyện Đông Anh lúc đó mới có ba bốn ngôi trường cấp hai, nên việc đi học cấp hai buộc các học sinh phải rời trường của xã để đi học nhờ xã khác. Cũng có một số học sinh sang trường cấp hai Tiền Phong ở thị trấn Yên Viên thuộc huyện Gia Lâm học nhờ. Mãi đến năm 1962 huyện Đông Anh mới mở thêm một số trường cấp hai trong đó có một trường cấp hai được mở ở xã Quyết Tâm (bây giờ gọi là xã Cổ Loa) thì số học sinh lên cấp hai của xã Dục Tú mới chuyển về học ở Cổ Loa. Lúc ấy trường thường mang tên của các xã, nên trường có tên là trường cấp hai Quyết Tâm. Tên trường thì có đấy nhưng phòng học của trường thì lại chẳng có cái nào. Khi ấy các lớp học được gửi ở các ngôi chùa, ngôi đền, thậm chí còn gửi nhờ ở các nhà dân. Lớp 5c của Hằng được gửi ở đình làng Cổ Loa; nơi ấy tập trung rất nhiều các di tích lịch sử xây dựng từ xưa. Đầu tiên phải kể đến là cây đa cổ thụ có trên một ngàn tuổi. Cây đa này có thân mình đồ sộ đến mức người ta đã xây bên trong thân nó một khuôn cửa tò vò có bề ngang đến một mét rưỡi, chiều cao đến hơn một đầu một với, nghĩa là chiều cao đến hơn hai mét. Xung quanh khu vực gốc đa quy vuông đến gần ba trăm mét vuông có đến mười mấy cái rễ từ các cành đa rủ xuống cắm sâu vào lòng đất, cái lớn nhất cũng phải vừa hết một vòng ôm của người lớn, cái nhỏ cũng có đường kính trên hai mươi nhăm phân tây. Còn các cành của nó thì che kín gần hết phân nửa sân đình. Một di tích khá đặc biệt là am thờ Công chúa Mỵ Châu. Am thờ bé đến nỗi chỉ vừa đủ diện tích để đặt pho tượng đá cụt đầu, nên mỗi khi vào trong am đi quanh pho tượng cảm thấy rất chật chội. Pho tượng đá này tương truyền là hiện thân của Công chúa Mỵ Châu được các bậc tiền nhân khiêng từ nơi khác đem về, sau nhiều lần những người già cả trong làng được Công chúa báo mộng. Pho tượng đá khá to lớn, có lẽ cũng gấp ba bốn người thường. Tượng đã bị quân Pháp phá vỡ tạo ra các vết nứt và cũng đã được trám vá bằng chất liệu xi măng. Vào những mùa hè tượng bị hấp hơi nước ướt rườn rượt, khi sờ vào mát lạnh cả tay. Không xa bao nhiêu  về phía Bắc là cả một quần thể của cả khu vực đền thờ An Dương Vương cùng với dấu vết của tường thành ốc xưa còn lại. Lũ trẻ hàng ngày đến Cổ Loa đi học chưa có nhiều kiến thức lịch sử về nơi mình vẫn đang sinh sống, nhất là lại thường quá quen thuộc với những hình ảnh, đồ vật, quang cảnh mà họ bắt gặp thường ngày nên đôi khi còn rất coi thường. Nhưng dù sao thì mỗi ngày qua họ được các thầy, các cô giảng giải nên không biết từ lúc nào trong lòng mỗi người cũng có sự ngấm nghía để rồi mai ngày lớn lên trong họ có cái hình, cái bóng của quê hương cùng với những gì tốt đẹp được nhân lên trong mỗi bước đường mà họ sẽ đi trong cuộc đời đầy sóng gió và cũng đầy vinh quang rực rỡ trong những năm lao động và chiến đấu sau này.
Trường cấp hai Quyết Tâm về cơ cấu sẽ có ba khối học, mỗi khối có ba lớp, tuy nhiên trong năm đầu tiên này thì mới chỉ có một khối đó là khối các lớp 5. Hằng và cả số học sinh của làng Đồng Dầu được đưa vào lớp 5c do cô Lê Thị Yến vừa làm chủ nhiệm vừa làm giáo viên giảng môn toán học. Môn văn thì do thầy Trần Ngọc Kim giảng dạy. Hai môn sử địa đều là của thầy Vũ Tú Nguyên, còn  môn sinh vật là của cô Kim Bảo.
Những ngày đầu tiên bước vào cấp hai thật là vui, riêng Hằng còn vui hơn khi cậu được bầu vào ban cán sự lớp. Cho dù chẳng hiểu là mình sẽ phải làm gì trong cái chức trách cán sự nhưng Hằng cũng thấy rất khoái chí. Hằng đâu có ngờ rằng sau này cậu lại bị liên luỵ quá nhiều bởi cái chức trách hữu danh vô thực này. Hàng ngày cứ đến mỗi giờ học các thầy, các cô đều nhằm đích vào Hằng. Nào là cả lớp có làm bài tập hay không, cả lớp đã đóng học phí chưa. Khổ sở hơn nữa là cậu cứ phải đầy đủ bài vở vì cứ mỗi khi các thày, các cô kiểm tra các bạn mà có độ ba, bốn người không thuộc là các thầy, các cô sẽ gọi đến Hằng. Đành rằng đi học là phải học bài, làm bài đầy đủ, nhưng đôi khi các học trò cũng tự cho mình được quên học bài, quên làm bài tập để vào bãi chiếu phim  một đôi lần trong một tháng, bởi vì có phải dễ gì có được một buổi chiếu phim ở nơi thôn quê đồng ruộng. Tất nhiên là không thể bỏ học, bỏ làm bài tập để xem phim mà chỉ là ngầm khất chương trình hôm đó đến hôm sau mà thôi. Nhưng Hằng thì đâu có được làm như thế bởi cái chức trách lớ ngớ vừa nói ở trên.

Được cái Hằng học khá thông minh nên kết quả năm học cậu đạt khá cao. Hầu như tất cả các bài kiểm tra của các môn Hằng đều được điểm 5. Hằng đã đạt học sinh xuất sắc toàn diện ở mức A1. Các bạn, các thầy chia vui với Hằng. Cái tiếng học giỏi của Hằng bay về tận làng Đồng Dầu, bay về tận trường Dục Tú làm vui lòng biết bao những người thân yêu của Hằng, làm thoả lòng biết bao các thầy cô đã dạy dỗ Hằng. Có một người thầy luôn luôn nhìn Hằng bằng một bên mắt nheo lại như bảo cậu rằng chớ có tự vừa lòng để rồi phí công tôi đặt niềm tin ở cậu. Đó là thầy Chuyên, người thầy đã hơn một lần hết lòng vì cái cậu bé nhóc con lầm lỳ ít nói và hay ngồi lặng lẽ nhìn xa tận phía chân trời.
                                5

Cứ như thế Hằng học hết ba năm học cấp hai ở trường Quyết Tâm trong ba năm liên tiếp. Ngày rời trường đã đến mà mọi người vẫn tưởng chỉ là chia tay về hè như mọi năm thôi. Chả biết mọi người nghĩ sao còn Hằng thì băn khoăn bối rối không biết tính thế nào. Việc có đi học tiếp được hay không quả thật là rất khó, bởi trường cấp 3 lại ở mãi trên huyện, một địa điểm quá xa để có thể đi bộ đến trường vào các buổi sáng, phần thì nhà Hằng lại quá nghèo, đâu có thể mua nổi một cái xe đạp để mà đi học như mấy đứa con nhà khá giả. Mỗi ngày nhà Hằng cũng chỉ có gạo ăn ở mức hơi thiếu một tý cho cả nhà, nếu Hằng mang đi một ít để học trọ thì nhà sẽ bị đói. Như vậy thì việc học của Hằng sẽ chẳng còn có thể tiếp tục được nữa. Thêm nữa mẹ Hằng đã già yếu lắm rồi việc làm ăn đã đến lúc cần Hằng san sẻ bớt. Với bằng ấy lý do đã bắt buộc Hằng không còn cách lựa chọn nào khác hơn là phải nghỉ học.
Không như một số các bạn khác nghỉ hè rồi vẫn còn được rong chơi để thăm thú bạn bè, bắt đầu vào hè là Hằng về nhà để đi làm hợp tác. Ngay từ những ngày đầu đi làm hợp tác Hằng đã được bà con trong đội đề nghị đứng ra làm thư ký đội thay cho người thư ký cũ lên làm thư ký cho hợp tác xã. Kể ra mà nói thì đây cũng là sự may mắn rất lớn của cậu, vì cùng lúc đó có khối các cậu cùng về mà bà con lại không tín nhiệm. Nói về cái học khá của cậu có lẽ chỉ là phần thứ yếu vì công việc làm thơ ký đội chủ yếu chỉ là ghi chép công điểm cho bà con, thế rồi cộng trừ nhân chia một tý công điểm, một tý thóc lúa hoa màu mà các xã viên được chia trong từng vụ mà thôi. Cái sự tín nhiệm ở đây chủ yếu là các ông bà xã viên đã yêu mến cậu ở cái sự vui tươi, lễ phép và cả cái tính thẳng thắn, ngay từ bé đã không trộm cắp hoặc tham lam của ai bất cứ thứ gì.
Từ sau ngày nghỉ hè cô giáo hiệu trưởng Nguyễn Thị Ngọc Anh vẫn xuống thăm chơi nhà của các phụ huynh, cũng đến mấy lần cô vận động Hằng cùng các bạn tiếp tục đi học lên cấp 3. Bà còn hứa với bà mẹ của Hằng là bà sẽ dùng uy tín của mình để xin cho Hằng có được học bổng như khi còn học cấp 2, nhưng vì ngại ngần trong việc nhờ cậy, làm phiền đến cô nên Hằng vẫn quyết định sẽ nghỉ học. Cô Anh lại phân tích thêm về một số cách học khác và cuối cùng thì cô động viên Hằng đi học chuyên nghiệp. Thực ra thì Hằng cũng đã làm hồ sơ xin đi học chuyên nghiệp để gửi về trường ngay từ  khi còn đang học dở cấp 2, tuy nhiên đến lúc ấy thì các trường chuyên nghiệp chưa nơi nào gọi cả.
Vào trung tuần tháng 8 năm ấy thì Hằng có giấy gọi đi học trường trung cao cơ điện. Phần vì nghe bạn bè kháo nhau rằng học trung cao kéo dài đến hơn ba năm, hơn nữa là sau khi ra trường phải làm cán bộ kỹ thuật, một công việc mà Hằng rất ghét ngay từ khi tiếp xúc với một số cán bộ kỹ thuật của nhà máy diêm, nhà máy gỗ trong lúc Hằng đi làm thuê những năm trước đó. Mỗi lần trông thấy họ Hằng chỉ muốn chửi cho họ một trận bởi cái sự vênh váo của họ trong lúc giao nhận công việc hàng ngày. Rồi đến vài giấy gọi nữa nhưng Hằng cũng không đi vì một trong các giấy ấy là giấy gọi của trường trung cấp ăn uống, giấy còn lại là của trường trung cấp dệt, lúc ấy Hằng cho rằng đây toàn là những công việc của phụ nữ nên chẳng thiết gì đến sự học nữa.
Cũng chính trong thời gian này ở cục vật tư địa chất đóng ngay ở Dốc Vân lại thông báo tuyển người. Chỉ cần làm việc trong 6 tháng là sẽ được vào biên chế thành công nhân như tất cả mọi người. Đang lúc bế tắc lại có cơ hội tốt, thế là Hằng quyết định sẽ đi làm cho ngành địa chất. 

                                                    6

Ngay khi vào làm ở địa chất Hằng cùng các bạn đã được đưa lên ô tô chở một mạch lên huyện Hữu Lũng của tỉnh Lạng Sơn. Nơi đây được cục vật tư địa chát cho xây dựng một cái kho để chứa hàng đề phòng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ngày một tăng lên. Công việc ở đây ban đầu chủ yếu là  phát rừng san đường vào sâu trong dãy núi Cai Kinh, rồi bốc đá làm đường để cho xe ô tô có thể ra vào được.
Hàng ngày từng tốp công nhân mới tuyển còn chưa được cấp phát bảo hộ cắm cúi làm việc. Cho dù công việc chẳng nhẹ nhàng gì, nhưng đa số mọi người trong đội đều là những thanh niên, thanh nữ trẻ nên họ rất vui. Cho dù là đào hàng khối đất hào rắn đanh đến bốc hàng chục khối đá từ mỏ đá Núi Voi về công trường nhưng ai cũng say mê với công việc. Những chàng trai trẻ đều muốn thể hiện sự hơn hẳn của mình trước các cô gái để mong các cô có chút cảm tình. Còn các cô gái thì lại muốn mình là những người xinh đẹp chịu thương, chịu khó để lọt mắt các chàng trai. Chính vì thế mà các anh trong ban lãnh đạo của đội như anh Dậu hầu như chẳng cần phải đôn đốc mà công việc vẫn chạy băng băng.
Ngoài những vất vả trong công việc mọi người còn phải đối đầu với nguy hiểm do máy bay địch bắn phá khi đi trên đường hoặc đến làm việc ở những nơi trọng điểm. Cũng có nhiều lần họ thoát chết trong gang tấc bởi chỉ nhờ may mắn trong nhanh chậm, giống như lần máy bay Mỹ ném bom phá huỷ cửa hàng ăn uống chợ Mẹt hay lần chúng ném bom hòng cắt đứt cầu Mẹt chặn đường giao thông của chúng ta.
Công việc ăn uống của đội đều do đội tự làm lấy, ngoài mấy món trường ca như bí ngô, cá mắm, lại đến muối vừng, măng tre hoặc lạc rang để cả vỏ tẩm muối mặn chát. Lâu lắm mới có một ít thịt con lửng mua được ở các chợ quanh vùng, cũng có khi có một ít thịt trâu mang từ cơ quan lên khi có các cán bộ về công tác.
Người Nùng ở xã Cai Kinh và các vùng quanh khu vực đều kiêng ăn thịt trâu, bò và thịt chó. Họ cũng không ăn hành và một vài gia vị khác nên lúc đầu khi  chưa làm được lán còn phải ở nhờ nhà dân thì sự  kiêng khem thật là vất vả. Về mặt ăn uống thì thế nhưng về tình cảm thì giữa công nhân với nhân dân trong vùng lại thật tốt, nhất là với đám con gái người Nùng thì sự gắn bó còn khăng khít hơn nhiều. Lấy cớ giao lưu để học tiếng và tìm hiểu phong tục có vài đôi trai gái hình như bắt đầu đã có những mối cảm tình hết sức tế nhị.Trong số thanh niên trẻ trong đội chỉ có Hằng là trắng trẻo thư sinh hơn cả, hơn nữa lại ăn nói khá mạnh dạn nên có rất nhiều cô gái muốn gần. Lẽ dĩ nhiên là cậu cũng thể tránh khỏi bị cuốn hút vào cái không khí chung ấy. Sau rất nhiều cuộc gặp gỡ trò chuyện cho dù là chỉ ở trong nhà của các cô gái cùng với bố mẹ của các cô nhưng cái sự đầu mày cuối mắt thì vẫn cứ lộ ra.
Người Nùng ở Cai Kinh có một số đặc điểm rất đặc biệt đó là đa số các chàng trai thì rất đẹp traiN, còn đa số các cô gái thì lại rất xấu. Những chàng trai cao lớn và trắng trẻo bao nhiêu thì các cô gái lại đen và nhỏ bé bấy nhiêu. Trong cả một bản có lẽ chỉ được mươi cô còn có chút ưa nhìn, số còn lại thì thật đáng ngại gặp, ngại gặp không phải vì họ xấu mà vì đám thanh niên vùng xuôi sợ họ mồi chài. Đã từ lâu người ta đồn đại rằng các cô con gái ở vùng cao thường có một số loại thuốc hoặc các loại bùa rất đáng sợ. Nếu chàng trai nào ở dưới xuôi không may mà bị họ thích là họ sẽ chài, thế rồi các chàng trai này cứ lú lẫn bỏ cả quê hương cha mẹ để mà ở lại với cô ta cho đến hết đời mà không thể thoát ra được. Ngoài ra họ còn sợ nhiều thứ khác, giả như họ có thể bị người nhà của các cô gái giết bằng cách đưa đến các vùng rừng có hổ để cho hổ ăn thịt rồi loan tin là bị hổ vồ. Đến lúc ấy thì ngay cả chết cũng bị chết oan mà không thể tìm ra tội chứng của kẻ giết người. Chính vì vậy nên cái sự yêu đương thì hình như chưa cậu nào dám đặt vấn đề. Còn cái chuyện lợi dụng tình ái khi họ tiếp xúc hàng ngày cùng nhau thì chả cậu con trai nào dám, kể cả trong khi nói chuyện ở nơi vắng vẻ cũng như khi đi vào rừng hái quýt, hái ổi riêng rẽ chỉ có hai người với nhau.

                                                             7

Trong số các cô gái người Nùng, có một cô khá xinh xắn có tên là Hoàng Thị Cỏm. Cô mới chỉ mười sáu tuổi đang đi học văn hoá ở trường nội trú của tỉnh. Ngoài nước da trắng, khuôn mặt trái xoan cô còn có sức quyến rũ bởi dáng người thon thả và duyên dáng. Cô nói tiếng kinh khá sõi, nếu chỉ hỏi han trò chuyện trong độ mươi phút thì không ai bảo cô là người Nùng, ngoại trừ bộ quần áo chàm cô rất hay mặc khi cô về nhà. Cho dù chiếc áo chàm khá rộng, luôn dài đến ngang đùi che đi phần thân thể của cô nhưng người ta vẫn nhận ra cơ thể đầy sức quyến rũ của cô.
Trong một lần về nhà cô được tiếp xúc với đám thanh niên vùng xuôi thông qua sự giới thiệu của các bạn, cô đã nói chuyện rất nhiều bằng tiếng Nùng với Hằng. Không biết có phải do cô thích cái anh chàng trắng trẻo này hay là cô chỉ thích nói chuyện với cậu chỉ vì lúc ấy cậu là người biết nhiều tiếng Nùng hơn so với các bạn.
Lúc chia tay cô ghé sát tai cậu và thì thào:
- Mình với anh cùng tên, mình với anh là một đấy nhé!
Hằng không kịp hỏi gì thêm thì cô ấy đã vụt quay trở vào nhà. Hằng đứng ngây ra đến một lúc lâu mà vẫn chẳng nghĩ ra được sự thể là thế nào. Chả lẽ tiếng Nùng âm Cỏm là Hằng hay là khi cô ấy đến trường học cô đổi tên theo tiếng Kinh với cái tên mới là Hằng.  Cho mãi đến về sau này điều thắc mắc ấy cậu vẫn không được ai giải đáp cho.
Họ chia tay cũng không lâu la gì lắm, chỉ mới qua hết một tuần học đã thấy cô có mặt ở nhà. Anh trai của cô đã bảo cho Hằng biết trong lúc đi ngang qua lán công nhân để vào rừng đặt bẫy. Trong số các chàng trai cùng đi làm với Hằng ngày ấy hầu như chỉ có mình Hằng là hay chơi bời cùng số con trai và cũng hay thăm viếng với các ông ké, bà mế nên Hằng khá thân thiện với số đông những người trong bản. Riêng về anh trai của Cỏm thì khá thân hơn vì anh này khá thông minh và lại rất khéo tay. Nhiều lần anh bảo nhận Hằng làm em rể cho dù Hằng chưa hề gặp cô em ấy lần nào. Lần này thì không thể tránh được rồi nhất là cái cô em ấy lại hưởng ứng một cách nhiệt tình sự gợi ý của ông anh. Có lẽ vì thế mà anh vừa tin cho Hằng biết vừa cười một cách ý nhị.
Thực ra thì Hằng chưa bao giờ nói gì đến cái sự gắn bó của mình với cô ấy vì Hằng cũng sợ bị cô ấy chài như ngày nào mẹ Hằng đã kể. Còn cô ấy thì hình như mặc nhiên coi cái sự ấy như là đã định rồi. Có lẽ việc này là do người anh của Cỏm bịa ra. Phải chăng anh cũng muốn cho cô em gặp được văn minh của miền xuôi hay là muốn cô em rời xa hẳn cái cơ ngơi của cha mẹ để sau này anh chẳng vướng bận gì.
Những ngày xa vắng bất chợt bị cuốn đi để sự rạo rực tràn ngập dồn lại cho những giờ khắc gặp gỡ.Tuy rằng tất cả cũng chỉ là những câu chuyện cuộc sống cùng với sự động chạm da thịt vào nhau thôi nhưng sao mà cảm xúc lạ kỳ đến vậy. Nhiều lúc Hằng tưởng như mình bị tan ra bên sắc màu lam tím của những nếp vải thô ráp nhuộm chàm. Hay là Hằng đã bị chài rồi! Có lẽ là chưa vì sau những lúc như thế Hằng lại thấy bình tĩnh trở lại tự điều chỉnh được mình. Mười sáu tuổi, chỉ mới mười sáu tuổi, còn mình nào có nhiều hơn được bao nhiêu.
Mỗi lần gặp gỡM, mỗi lần trò chuyện, Hằng thường nghĩ đến những câu chuyện tình yêu từ trong phim ảnh, từ trong sách vở, từ trong tiểu thuyết. Sự đẹp đẽ đến thánh thiện, đến đắm say và cả đến oanh liệt nữa cũng dần hé mở lôi kéo đi theo, khuyến khích học theo. Cả đống những ý tưởng làm họ choáng ngợp, làm họ bối rối; bối rối đến không còn biết sẽ làm gì nữa.. Họ chỉ dám hôn thật nhẹ vào bất chợt chỗ nào mà họ chạm vào thế rồi chia tay và tiếc mãi về những gì mà họ cùng khao khát.    
     
                                                     8

Những ngày vui chưa được bao lâu thì công trình cũng đã sắp hoàn thành. Một số công nhân đã chuyển đi công trường mới ở tận trên khu vực Đồng Mỏ, số còn ở lại Cai Kinh không còn nhiều, trong đó có Hằng. Ngoài công việc ban ngày, Hằng còn phải ở lại trông coi lán vào ban đêm mà không vào bản như mọi khi vì trong thời gian này Cỏm cũng ít về. Không biết có phải do bận học hay do Cỏm giận vì Cỏm chờ mãi mà chưa thấy Hằng nói ra cái điều quan trọng kia. Cỏm không biết rằng trong lúc ấy Hằng băn khoăn đến thế nào về hoàn cảnh của mình.
Ngày ấy nhà Hằng Nghèo lắm. Rời chùa mới được vài năm, nhà Hằng vẫn phải ở nhờ nhà của anh Phượng. Xin đất xong, cố mãi nhà Hằng vẫn chưa làm nổi một ngôi nhà. Đồ dùng thì chả có thứ gì ngoài hai cái giường gỗ tận dụng mà ông bố của Hằng tự đóng lấy từ năm nảo, năm nào, đến nay thì đã bắt đầu mọt ruỗng ra rồi. Lấy vợ về, vợ sẽ ở đâu! Trong cái căn nhà không buồng, không vách của nhà anh Phượng. Lại còn công việc làm ăn, còn miếng cơm, manh áo cho mẹ, cho em và cho cả đôi uyên ương nửa xuôi, nửa ngược này nữa. Lại còn sự nghiệp vừa mới bắt đầu! Mình còn phải đi! Ai sẽ là người đỡ đần người vợ trẻ con này khi mình đi vắng. Rồi còn địa phương họ có cho phép hay không khi cô ấy chưa đủ tuổi. Miền xuôi đâu có thể làm bừa đi như trên vùng cao thiểu số mà được. Tất cả những điều ấy đã bắt Hằng phải chần chừ, lưỡng lự mặc dù Hằng biết sẽ chẳng bao giờ Hằng còn có thể tìm được một người con gái đẹp mê hồn như thế nữa. Tất cả những điều ấy Hằng đâu có thể nói ra với Cỏm và với gia đình cô ấy.
Chính trong những ngày buồn bã ấy thì chú Phó cục trưởng đi công tác qua rẽ vào gửi cho mảnh giấy của mẹ nhắn Hằng về. Không biết mẹ nhắn về để làm gì mà gấp gáp như thế nên Hằng quyết định sẽ tự mình ra về mà không chờ chú cục phó đón như lời dặn của chú lúc đưa thư cho cậu.
Vừa đi vừa lạc phải mất hơn năm tiếng đồng hồ Hằng mới đến được ga Bắc Lệ để lên tàu về nhà. Cuộc ra đi này của Hằng chỉ có vài người trong ban lãnh đạo của đội biết, bạn bè và cả Cỏm cũng không sao biết được. Hằng cũng không ngờ lần ra đi này cũng là lần từ biệt Cai Kinh, từ biệt Chợ Mẹt, Lạng Sơn đến mãi gần bốn mươi năm sau mới lại có dịp quay trở lại trên một chuyến xe khách chạy sáu mươi cây số lướt đi trên đường, trong một lần tham quan Trung Quốc.
Về đến nhà Hằng được mẹ đưa cho một bì thư trong đó là giấy báo đi học của Trường điện lực Thái Nguyên. Nhận giấy mà Hằng ngạc nhiên đến sững sờ cả mình mẩy vì không hiểu tại sao mình lại có giấy báo này. Trong kỳ làm hồ sơ đi học chuyên nghiệp Hằng chỉ làm có ba bộ, đã có ba trường gọi mất rồi. Các trường đều ghi là sẽ không trả hồ sơ vậy thì hồ sơ này làm sao mình lại có. Sau khi ba trường gọi Hằng không đi, Hằng đã làm thêm hai bộ nữa lên xin xã nhưng xã nói chỉ có thể xác nhận không quá ba bộ, thế là Hằng mang về vứt ở nhà, làm gì còn bộ nào nữa đâu mà lại có giấy gọi. Hay là trường họ nhầm lẫn gì chăng. Hằng xem đi xem lại tờ giấy báo nhưng không thấy chỗ nào sai kể cả họ tên và nơi ở. Mà cái làng Đồng Dầu này làm gì có ai là Hằng nữa đâu. Tìm hiểu mãi rồi cũng vỡ lẽ ra do khi Hằng đi làm vắng cô Ngọc Anh xuống thăm số phụ huynh học sinh cũ đã rẽ vào thăm mẹ Hằng. Sau khi nghe bà mẹ Hằng kể lại sự tình thế là bà lấy số hồ sơ của Hằng để lại mang lên xã xin xác nhận cho rồi gửi tiếp về ban tuyển sinh huyện và thế là Hằng mới có tờ giấy báo thứ tư này. Có lẽ cán bộ xã nể bà giáo là huyện uỷ viên mà họ quen biết  trong các kỳ họp nên đã xác nhận số hồ sơ mà bà mang lên xin hộ.
Khỏi phải nói đến sự hàm ơn của Hằng đối với cô hiệu trưởng đến thế nào. Vậy mà từ khi ấy cho mãi đến sau này Hằng không còn có thể gặp lại cô giáo đáng kính của mình nữa. Khoảng cách địa lý của mỗi người, công việc xã hội, công việc gia đình của mỗi người, đã vĩnh viễn chia cách cô trò của họ. Cô như là một người mẹ lo cho rất nhiều những đứa con, chắc cô không còn nhớ những gì đã lo cho Hằng. Còn với Hằng thì không bao giờ có thể quên được tấm lòng của người mẹ ấy.

                                         9

Sau gần mười ngày lo cắt hộ khẩu, lo bán lương thực để lấy giấy cắt chuyển lương thực xong là Hằng lên nhập trường. Cứ như trong giấy báo này thì có đến vô số những con số một bắt buộc các học sinh phải nhớ và phải thực hiện. Đầu tiên là các học sinh phải đến trường vào ngày 11 tháng 11 năm 1965, tiếp theo là các học sinh phải hỏi thăm đến số nhà 111 phố Đồng Bẩm Thành phố Thái Nguyên để vào nhập học.
Hằng lên đường với một cái ba vuông mà anh cả cho. Đây là vật dùng để đựng quần áo của bộ đội thời  kháng chiến chống Pháp. Nó là một miếng vải bạt cắt theo hình chữ thập. Các góc được may một miếng vải chéo để khi gấp vào đồ dùng nhỏ không từ các góc rơi ra. Hai bộ quần áo bằng vải ka ki và vải pôpơlin Nam Định, một cái chăn chiên là tất cả những gì mà Hằng mang theo.Tuy rằng nhà Hằng nghèo thật nhưng Hằng lại chưa khi nào phải mặc quần nâu áo vá như nhiều các bạn khác. Đồ đạc mới duy nhất chỉ có cái màn một và mấy thứ lặt vặt như lọ thuốc đánh răng, cái bàn chải, cùng mấy quyển sách, quyển vở mà thôi .
Chuyến tàu Bắc, Yên Viên đi Quán Triều chậm như bò trên đường. Chỉ có hơn bẩy chục cây số mà suốt từ tối đến quá nửa đêm mới đến được ga Đồng Quang. Trời đêm không đèn, không điện vì tránh máy bay Mỹ đánh phá, vả lại cũng quá khuya nên đường xá vắng ngắt không một bóng người. Sau khi đã hỏi thăm khách trên tàu về địa điểm mình sẽ đến, Hằng cũng đã sơ lược nắm được phần nào quãng đường mình sẽ phải đi. Mò mẫm mãi rồi Hằng cũng đến được phố Bắc Nam của thị xã Thái Nguyên. Đang không biết tìm ai để hỏi thăm tiếp thì nghe phía trước có người đang nói chuyện rì rầm. Hằng cố đi thật nhanh cho kịp mong sao hỏi thăm được về phố Đồng Bẩm, bởi Hằng nghĩ nếu không hỏi thăm được thì khó có điều kiện gặp được ai nữa để mà hỏi thăm. Vừa ghé sát vào mặt hai người đi đường để hỏi thăm về Đồng Bẩm thì nghe cả hai cùng nói chúng tôi cũng về đó mà không biết đường đây. Thật không còn gì chán chường hơn khi nghe hai người đi đường nói vậy. Dù sao thì từ lúc một mình bây giờ có thêm hai người nữa thành ba cùng đi nên cũng đỡ buồn hơn. Cả ba đang  lếch thếch mò đi trong đêm tối đen như mực thì đến một chiếc cầu. Một ngọn đèn phòng không leo lét bên đường làm cho cả ba mừng không thể nào tả xiết. Một người trong họ buột miệng:
- May quá, có chỗ hỏi thăm rồi.
Giọng nói của người này hơi ngòng ngọng, nghe rất quen, hình như mình đã nghe nói khi nào rồi thì phải. Đang còn phán đoán thì chợt lại nghe người thứ hai cất tiếng hỏi thăm đường. Ngoài giọng nói rất quen thuộc còn cả địa chỉ hỏi thăm cũng lại quá quen nữa làm Hằng chột dạ. Hằng nghĩ chả lẽ mấy cậu này cũng đi học như mình. Mãi đến khi giáp mặt thì cả ba người mới nhận ra nhau là bạn cùng trường.
- Thế nào, có phải các cậu cũng vào trường điện lực phải không?
Họ hỏi thăm nhau hết chuyện nọ đến chuyện kia có lẽ phải đến hai mươi phút rồi mới lại tiếp tục lên đường. Hoá ra hai anh bạn vừa gặp lại chính là Nội và Thảo học ở lớp 7A. Thảo khá nổi tiếng về sự tinh nghịch, còn Nội thì lại nổi tiếng về các hoạt động tập thể và có tiếng là lành tính. Nội học cũng vào loại giỏi và lại là một trong những đoàn viên đầu tiên của chi đoàn học sinh của trường. Nội khá đẹp trai và có nhiều tài vặt, đặc biệt là rất sát gái. Cứ như sau này Nội nói ra thì hình như ngay khi còn học ở trường phổ thông Nội đã yêu khá thành thạo, yêu ngay cả những bạn gái cùng học trong lớp 7A của chính mình.
Ba người lại mò mẫm đi tiếp, bây giờ thì họ đã đi qua cầu Gia Bẩy, nơi mà họ vừa dừng lại để hỏi thăm và đã nhận ra nhau. Cây cầu khá rùng rợn vì nó là nơi chứng kiến sự chết chóc của mấy trăm người trong hai lần giặc Mỹ đem tàu bay phản lực ném bom vào cầu trong ngày 17 tháng 10 trước đó mới gần một tháng. Mọi người không ai nói gì nhưng Hằng biết trong mỗi người đang nghĩ về cái chết chóc gớm giếc đó mà căm thù quân giặc, xót xa cho tất cả những người xấu số. Thật đáng buồn khi mọi người chúng ta đã không thể làm gì để ngăn cản tất cả những tàn ác mà kẻ thù đang từng ngày trút xuống đầu những người dân vô tội.
Không thể tìm ra ngôi nhà số 111 và cũng chả hỏi thăm được aiK, ba anh em đành vào ngủ nhờ trên hè của một cửa hàng bán sách để chờ đến sáng. Mệt mỏi do đi bộ mang nặng lại thức quá khuya cả ba ngủ như chết cho đến tận sáng banh ra mới dậy được. Vừa thu gọn đồ dùng vừa nhanh chóng quay đến khu vực tối qua đã đến để tìm. Hằng hỏi thăm mấy người làm vôi ở ngay con dốc nhỏ cạnh đấy thì được họ cho biết số nhà 111 chính là căn nhà tranh lụp xụp mà đêm qua ba anh em đã qua lại đến mòn cả chân ở đấy. Căn nhà ấy không phải là trường mà chỉ là điểm đến hỏi thăm con đường rẽ để vào nơi trường sơ tán. Từ đây vào đó còn phải đi đến hơn cây số nữa mới đến nơi. Đang còn hỏi thăm chưa xong thì từ xa đã nghe tiếng củaThảo la ré lên:
- Tìm thấy số nhà 111 rồi chúng mày ơi!
Mọi người quay về phía phát ra tiếng nói củaThảo thì thấy Thảo từ mái hiên lụp xụp chui ra. Thảo vừa cười vừa chỉ ngược vào bên trong mái nhà có ý bảo cái số nhà ở bên trong đó. Thì ra đây là căn nhà không có người ở, trên tường chả có chỗ đóng đanh treo biển nên chủ nhà đã gài cái biển số vào bên trong mái hiên, chính vì thế mà mấy anh em tìm không được.
Lại thêm một lần chán chường nữa mà không thể nói ra, bởi ai cũng nghĩ rằng ngôi nhà số 111 ấy phải là ngôi nhà cao ba bốn tầng trông thật nguy nga tráng lệ và rồi hàng ngày họ sẽ cắp cặp đến học hành và làm việc. Nào ngờ cái trường mà họ học lại ở trong tít mãi ở tận rừng xanh núi đỏ và còn chưa biết là nó to bé ra sao. Tuy vậy họ cũng đành phải vào để mà nhập học chứ còn biết làm thế nào bây giờ.

                                    10

Ngay sau khi gặp cán bộ của trường mọi người mới biết là trường có ba khu học tập. Khu thứ nhất tập kết các học sinh học về cơ khí và điện ở ngay tại xóm Cổ Rùa. Khu thứ hai ở lùi vào sâu bên trong một ít gọi là xóm Thác Lở, là nơi tập kết số học sinh học về nghề sửa chữa lò hơi. Số học sinh học nghề sửa chữa Tua bin thì vào sâu mãi tận khu mỏ đá Núi Voi (Núi Voi của Thái Nguyên chứ không phải của Lạng Sơn), nơi ấy gọi là xóm Cầu Đá. Cũng chỉ đi quá ra ngoài một chút đã là phường phố, thế mà nơi Hằng và các bạn đến lại là thôn bản của rừng rú buồn rứt cả người.
Những ngày học tập, lao động liên miên làm cho các cậu không còn có thì giờ để chơi bời nữa, thế là việc lên lớp và nhất là việc đi lao động làm đường sắt sơ tán máy biến thế hoặc đi xúc xỉ đổ vào sọt treo quanh tường nhà máy để chống bom đạn là những lúc vui hơn cả. Dù sao thì có lúc như thế họ mới được gặp nhau để mà trò chuyện, để mà tán tỉnh lẫn nhau, làm khuây khoả nỗi buồn chán ở nơi khỉ ho cò gáy này.
Ngày ấy các học sinh đi học chuyên nghiệp và cả các sinh viên học đại học cũng đều do nhà nước nuôi không. Chế độ sinh hoạt đều rập khuôn theo kiểu trại lính, mà không được có ý kiến gì khác. Mỗi tháng các học sinh được ăn 15 cân lương thực, trong đó có đến ba mươi phần trăm là chất độn. Chất độn có thể là mỳ bột hoặc ngô say ghế lẫn với gạo. Buổi sáng, mỗi người được ăn bữa phụ bằng một cái bánh mỳ luộc nhỏ như  nắm tay trẻ con. Mặc dù cái bánh chả ngon gì nhưng vì hàng ngày ăn uống luôn luôn thiếu nên dù không ngon cũng không ai bỏ. Bữa trưa và chiều thì ăn bữa chính có cơm và vài món thức ăn. Đang sức ăn, sức lớn bây giờ không đủ no nên hầu như anh, chị nào cũng thèm cơm. Có một điều không biết tại sao luôn thiếu ăn như vậy nhưng các cô, các cậu đều cứ lớn vượt trội hẳn lên.
Trong mấy tuần gần đây quân Mỹ tập trung tăng cường đánh phá vào Thái Nguyên nên mỗi buổi học lớp cứ phải dừng để ra hầm trú ẩn ba bốn lần. Những lần đi sang nhà máy bây giờ cũng không còn được an toàn nữa. Nhà máy điện Thái Nguyên bị đánh phá mấy lần liên tiếp. Khu điều khiển trung tâm và cả cầu vượt từ đó sang nhà máy chính cũng bị làm sập. Rồi cả khu vực đuôi lò cũng bị bom làm hư hại nhiều. Những tầng tầng, lớp lớp các sọt xỉ che phủ bên ngoài cũng chả giúp che chở được. Cả khu tập thể và cái căng tin hàng ngày vẫn bán và phân phối nhu yếu phẩm cũng bị sập đổ tan tành. Số gia đình công nhân ở trong khu tập thể cũng phải sơ tán vào mãi tận rừng xanh, núi đỏ.
Ban ngày các lớp đều tập trung vào học lý thuyết cơ sở và lý thuyết chuyên môn, ban đêm lại sang nhà máy tham gia lao động. Những kiến thức mà các học sinh hàng ngày được học hầu như mới mẻ hoàn toàn đối với tất cả mọi người. Phần lý thuyết cơ sở bao gồm có vật liệu cơ khí, điện học, nhiệt học, vẽ kỹ thuật, nguyên lý và cấu tạo của máy tua bin và lò hơi cho nghề vận hành và sửa chữa lò, máy. Phần học về chuyên môn thì có các công nghệ gia công cơ khí với ba bốn năm nghề như rèn, gò, tiện, nguội và cả nghề hàn điện, hàn hơi. Các bài về sửa chữa gồm thêm cả các phần về tháo lắp, căn chỉnh và cách sửa chữa từng bộ phận khi chúng bị hư hỏng. Việc học lý thuyết đối với mọi người xem ra rất mơ hồ, chỉ đến khi thực hành các học sinh mới được vỡ vạc ra đôi chút. Cuối cùng thì khoá học cũng đến lúc kết thúc sau mười mấy tháng trời vất vả.
Trong thời gian vừa quaT, ngoài việc đánh phá nhằm ngăn cản ta về mặt quân sự, bọn Mỹ còn tập trung phá hoại ta về kinh tế. Các nhà máy điện là mục tiêu hàng đầu ở lĩnh vực này. Trên miền Bắc có mấy cái nhà máy điện thì bấy nhiêu cái  bị đánh phá, nên đa số các nhà máy đều đang cần khôi phục, sửa chữa ngay để kịp thời cung cấp điện cho sản xuất và chiến đấu. Lẽ dĩ nhiên là rất cần có thêm các công nhân sửa chữa để thực hiện nhiệm vụ này. Cũng chính vì vậy nên mới qua một năm các học sinh đã phải ra trường mà chả cần đủ mười tám tháng như chương trình học đã thông tri trên giấy gọi.
Năm nay nhà trường thay  phương pháp tổ chức thi tốt nghiệp từ việc làm bài trên giấy bằng vấn đáp ngay trên hội trường. Các thầy phải đổi khối dạy để tổ chức thi cho khách quan. Có lẽ các thầy biết khá rõ về kết quả học của Hằng nên hầu như các thầy chỉ hỏi những câu hỏi chính mà không cần đặt câu hỏi phụ nên Hằng thi rất nhanh chứ không như các bạn khác luôn bị các thầy vặn vẹo cho đến là khổ. Cùng với kết quả thi đạt điểm năm cho toàn bộ các môn học Hằng được nhà trường khen và được cả Đoàn thanh niên khen về thành tích học tập và lao động. Sau này thầy giáo chủ nhiệm lớp sửa chữa tua bin có nói với cả lớp rằng Hằng là một trường hợp chỉ có một từ trước đến giờ và có lẽ cả về sau này nữa cũng khó có thể có lại trường hợp như thế này một lần nữa. Đọc đến chỗ này có thể có người nghĩ đây là truyện ký và đoạn trên có phần hư cấu theo thể truyện. Cũng xin nói rằng đây là đoạn sự thật viết theo thể ký. Với toàn bộ các điểm tổng kết và điểm thi của các môn đạt điểm năm, Hằng là một trong những học sinh học vào loại khá nhất của trường lúc đó, nên đi đâu Hằng cũng được các thầy các bạn biết đến.
                            
                                                RA TRƯỜNG

                                                           1

Tất cả các bạn trong lớp đều đã có danh sách  chuyển về các đơn vị trong ngành. Đoàn thì về ngay nhà máy điện Thái Nguyên, đoàn thì đi nhà máy điện Uông Bí, đoàn thì đi Hà Bắc, cũng có một số có cha, anh trong ngành đến tận trường xin chuyển cho con cái của họ. Lớp của Hằng có đến mười hai người đi Thanh Hoá, số còn lại thì đi Nam Định và bổ sung con số cho các đoàn khác. Chỉ còn có mỗi Hằng là vẫn chưa có tên ở một đoàn nào. Số nhà gần thì đã ba lô khăn gói đi ngay từ chiều hôm nghe thông báo, chỉ còn những người ở xa phải chờ cắt lương thực, hộ khẩu là sẽ lên đường.
Các thầy thì đi vắng cả, còn lại ai thì cũng bận họp liên miên, chả lẽ lại cứ xông vào chỗ các thầy đang họp để hỏi thế thì bất lịch sự quá, rõ là sốt ruột mà không biết làm gì. Cũng đành về nhà cụ Tô Long nằm khèo một chỗ, đánh giấc để chờ vậy.
Giật mình dậy thì trời đã muộn Hằng vội vàng đi ra Thác Lở để tìm thầy chủ nhiệm. Vừa gặp đã nghe thầy nói:
- Thầy đi tìm để thông báo cho em biết quyết định của trường mà không biết em bỏ đi đâu.
Sau khi hỏi han đôi chút về nguyện vọng thầy kín đáo nói cho Hằng biết quyết định của trường về việc giữ Hằng lại để làm giáo viên của trường. Thầy dặn cứ bình tĩnh chờ đợi thông báo chính thức của trường. Lúc chi tay thầy còn nhấn mạnhS, thầy bảo:
 - Việc này đã bàn từ lâu, bây giờ chỉ còn chờ hiệu trưởng duyệt lại một lần để rồi ra quyết định là xong.
Hằng ra về với sự băn khoăn lớn mà không biết nói cùng ai. Kể ra mà nói việc được giữ lại ở trường là điều mong ước của rất nhiều người, chỉ có Hằng là lại không thấy thích lắm. Cái điều mà Hằng không thích xưa nay là công việc giấy tờ, công việc ngồi bàn giấy vậy mà ở lại dạy học thì chả phải cái nghiệp bàn giấy đó là gì . Tuy nghĩ vậy nhưng Hằng không thể nói ra vì nói ra về cái sự thích hay không thích ấy là không yên tâm công tác, không chấp hành kỷ luật, không chấp hành nhiệm vụ rồi thiếu vững vàng tư tưởng lập trường. Ngày ấy không kể chỉ có đảng viên, đoàn viên mà cả những ông bà dân thường khác cũng phải giữ vững lập trường tư tưởng.
Đã qua đi một ngày, số học sinh còn lại ở trường chả còn lại bao nhiêu vậy mà Hằng vẫn chưa nhận được thông báo gì về công tác của cậu. Chiều nay các thầy sẽ họp xong nên có thể quyết định sẽ khá muộn đây, Hằng nghĩ thế rồi đi đi, lại lại từ nhà ra trường để chờ thầy chủ nhiệm.
Có lẽ Hằng đi lại đến ba lượt thì mới gặp được thầy. Từ xa nhìn thấy thầy hình như có chuyện gì buồn thì phải nên Hằng không vội vã đến với thầy như mọi khi. Cậu cố tìm hiểu trong đầu và dự đoán linh tinh các lý do có thể xảy ra, nào là thầy gặp chuyện buồn trong gia đình, thầy có khúc mắc với thầy nào khác trong lúc họp chiều nay.
Thế rồi cái sự buồn ấy cũng được thầy nói ra. Câu nói của thầy có vẻ chậm rãi hơn ngày thường, hình như thầy cố chọn cách nói thế nào cho nhẹ nhàng nhất:
-Trường mình thế là sẽ phải giải thể em ạ!
Thầy dừng lại chờ xem Hằng có hỏi gì không. Có lẽ thầy nghĩ cứ để cho Hằng từ từ hỏi còn thầy giải thích có lẽ sẽ làm cho câu chuyện đi đến đoạn kết  bình ổn hơn chăng!
Thế rồi quả nhiên cách nói của thầy đã đưa được Hằng vào quỹ đạo của thầy. Chờ mãi mà chưa thấy thầy nói gì thêm Hằng đành hỏi:
- Có lẽ thế thì trường chẳng cần thêm giáo viên nữa phải không thầy?
Thầy không trả lời thẳng vào câu hỏi của Hằng mà thầy lại dùng câu hỏi để hỏi lại:
- Không còn được ở lại trường nữa em có buồn không?
Lần này thì Hằng lại im lặng làm cho thầy phải nhìn thẳng vào Hằng như có ý bảo hãy trả lời tôi đi chứ.
Tuy rằng Hằng cũng chẳng có ham thích ở lại trường nhưng mà từ khi thầy bảo cho Hằng biết, Hằng coi như mọi sự đã an bài rồi, đến nay lại thay đổi trách nào không thể không thấy cụt hứng, không buồn, không khó chịu. Hằng cũng không trả lời thẳng vào câu hỏi của thầy mà lại trả lời thầy bằng một câu hỏi:
- Thưa thầy…Không biết em sẽ đi đâu?
- Em sẽ đi Thanh Hoá! Trong ấy họ cần rất nhiều người để khôi phục nhà máy vừa bị đánh phá. Cũng hơi khó khăn đấy nhưng thầy tin là em sẽ vượt qua!
Đây cũng là buổi nói chuyện cuối cùng của thầy với Hằng, bởi ngày mai thầy được trường cho nghỉ phép về quê ở mãi tận Thái Bình đến hơn mười ngày thì phải. Trong câu chuyện tiếp theo giữa hai thầy trò Hằng nhận thấy hình như thầy muốn khoả lấp cái sự ân hận vì đã gieo vào lòng cậu học sinh yêu quý của mình một sự mừng hụt quá lớn.
Hằng không còn buồn về cái sự ở lại trường hụt nữa mà lại nghĩ về cuộc đi Thanh Hóa của mình sắp tới với bao nhiêu lo lắng, ưu tư. Hằng cũng nói về điều đó cho thầy nghe và khuyên thầy đừng buồn về sự việc vừa qua vì thực tế Hằng cũng không thích ở lại trường. Chắc thầy không tin điều đó là thật mà chỉ cho rằng cậu ta nói vậy để cố an ủi mình mà thôi. Dù sao thì cả hai thầy trò cũng đã tươi tắn trở lại. Hai thầy trò chia tay chào đi, chào lại trong khi hoàng hôn đang tím dần đi nơi xóm núi Thác Lở đầy kỷ niệm.

                                                           2

Sau một vài ngày về qua nhà chơi bời với các bạn bè và người thân Hằng lại gói ghém đồ đạc để đi nhận công tác. Hằng cũng biết là đi Thanh Hoá bây giờ là vào nơi chiến tranh nguy hiểm, nhưng cái sự nguy hiểm nó đến mức nào thì Hằng không biết, cho dù Hằng đã một vài lần gặp các cuộc oanh kích của bọn giặc lái Mỹ ở Mẹt, ở Thái Nguyên. Tuy nhiên sau mỗi đợt bom rơi đạn nổ thì mọi cái lại trở về trạng thái yên tĩnh nên cái sự chiến tranh cũng chẳng làm Hằng để tâm đến. Mẹ Hằng thì lo lắng lắm nhưng thấy con trai cứ tươi hơn hớn thì cũng thấy yên tâm hơn. Bà nhắc lại câu mà bà bảo đấy là lời bố Hằng nói lại sau khi xem đi xem tử vi của cậu từ hồi cậu còn bé tý.
- Bố mày bảo bỏ mày ở bờ tre, mày cũng không chết được.
Bà mẹ của Hằng là người không biết chữ, nhiều điều mà bà hiểu biết thường ngày đều là do bà nghe lại từ sự truyền khẩu từ người này qua người khác. Lẽ tất nhiên là bà rất tin ở chồng vì trong con mắt bà, ông là người hiểu biết hơn nhiều người khác nên ông đã nói là sẽ không sai.
Cũng không biết bà có tin thật về lời dự đoán của chồng không hay là bà chỉ muốn nhắc lại lời của ông để tự trấn an mình khi đứa con trai bé bỏng của mình sinh ra trong đói rét rồi lại nuôi nấng trong khó nhọc lắm mới lớn được ngần này sắp sửa đi vào nơi bom rơi, đạn lạc chín phần chết mới có một phần sống.
Hằng ra đi vào một buổi chiều mùa đông ảm đạm chẳng có cỗ bàn chia tay như nhiều người khác và chẳng có ai cho quà cáp hoặc tiễn đưa. Cũng vẫn là cái ba lô và một số đồ đạc mang từ trường về, hôm nay lại vẫn nguyên như thế để ra tầu. Chuyến tầu đêm Yên Viên sang Hà Nội chuyển tầu đi thanh Hoá tại ga Hàng Cỏ vào lúc hơn mười giờ. Tầu thời chiến không thắp đèn để phòng máy bay giặc phát hiện đánh phá vậy mà cũng chật ních như nêm cối. Có lẽ tầu quá dài và lại phải chờ các tầu khác nên nó đi chậm rì rì như rùa bò. Từ trong tàu nhìn ra chỉ thấy một màu đen của bóng tối cùng với những lùm cây, nhà cửa cũng một mầu đen thoắt hiện thoắt ẩn. Bên trong tầu mùi hơi người nồng nặc thật khó chịu, nhất là lúc tầu dừng lại chờ đợi hàng tiếng đồng hồ. Mọi người đều mệt mỏi thiếp đi dựa ngả vào nhau im lặng sau khi đã tranh nhau kể về chiến thắng này, chiến thắng khác ở miền Nam, rồi lại đến chuyện ta bắn rơi máy bay ở chỗ này, chỗ khác trên miền Bắc.Thực ra thì những tin tức trên đã được các đài phát thanh phát cả ngày rồi và có lẽ mọi người đều đã biết, thế nhưng mà họ vẫn cứ muốn nói để mà tự hào về những gì mà ta đã làm được trong cuộc chiến giữa một đất nước nhỏ bé với một tên đế quốc đầu sỏ đứng đầu cái thế lực thực dân, đế quốc của cả thế giới này.
Trời đã sáng rõ dần ra, mọi người đã tỉnh cả dậy và trở lại không khí ồn ào, ầm ĩ vốn có ở chỗ đông người. Tầu đã dừng hẳn lại sau một cú phanh giật lên, giật xuống mấy lần. Một giọng nói ề à theo kiểu nhà tầu cất lên thông báo về điểm trả khách cuối cùng bởi cầu Lèn bị hỏng chưa chữa xong, đường từ ga Thanh Hoá ra Lèn cũng vừa bị hỏng đêm qua, nên tầu tăng bo ở ga Thanh Hoá cũng không ra được. Thế là lại phải cuốc bộ dài dài đây, thật là cái số không may! Sao mà lắm cái không may đến thế.
Đang lóc ca lóc cóc với mấy thứ đồ đạc trên vai sải bước cùng với mồ hôi toá ra ướt đẫm cả lưng áo thì nghe có người gọi rối lên ở đằng sau. Kể ra thì nghe gọi đúng là tên mình nhưng cậu lại nghĩ trên đời này thiếu gì người có tên như thế, hơn nữa chỗ này làm sao mình có người quen được nên cậu chẳng thèm quay lại. Mãi đến khi có ai đó vỗ vào vai cậu mới giật mình quay lại. Đang định nổi đoá với cái người vừa làm cậu giật mình thì cậu lại há hốc mồm ra vì không phải ai khác mà là mấy cậu bạn cùng học một lớp của trường điện Thái Nguyên.
Trông thấy dáng điệu bơ phờ lôi thôi, lếch thếch của các cậu bạn làm cậu buồn cười quá, tý nữa thì sặc nước lên mũi. Cậu nghĩ có lẽ mình cũng giống mấy cậu bạn này nên hết ngẩng lên lại cúi xuống tự ngắm lại mình. Bắt tay nhau xong rồi tất cả lại cùng vừa đi vừa trò chuyện. Chuyện ồn ào hơn cả là Thạch Văn Bát quê ở Yên Viên, Gia Lâm. Bát mang ít đồ nên cậu ta đi rất khoẻ, kể chuyện như một cái máy. Lì xì ít nói hơn cả là Nguyễn Văn Mở quê ở Vân Trì, Đông Anh. Mở vừa thấp lại vừa bé nhưng gói đồ thì lại to quá trông  cậu ta cứ như một cậu bé con.

                                                            3

Quãng đường đi cũng đã dài  mà hình như càng ngày người đi đường lại càng thưa hơn thì phải. Sau khi vượt qua chiếc cầu sắt không có lan can được kê đỡ bằng những chồng tà vẹt từ dưới sông lên thì lại đến một chiếc cầu sắt đầy vết đạn cùng những thanh lan can cong queo rỉ đỏ, những tấm ván gỗ lát sàn bong ra  rải rác trên mặt thì các cậu không còn đường đi nữa. Đang thất thưởng vừa đi vừa ngó nghiêng, đoán già, đoán non xem đây có phải là cầu Hàm Rồng hay không thì có một người mặc quần áo gụ, dáng chừng là một nông dân vội vã đi ngang qua đầu cầu, thế là tất cả đều xô lại để hỏi thăm. Người ấy cũng không dừng lại mà còn đi nhanh hơn, vừa đi người ấy vừa trả lời:
- Đây chính là cầu Hàm Rồng đấy, các anh mau đi nhanh xuống phía cầu phao Nam Ngạn mà sang. Bây giờ đã gần đến giờ cao điểm, nó lại sắp đánh bây giờ đấy, mau đi nhanh lên!
Nghe đến đây thì các cậu mới giật mình hoảng sợ vội vàng chạy một mạch bên dưới chân một hòn núi đá loang lổ vết bom đạn để xuống đê tìm cầu phao Nam Ngạn. Đến khi qua được cầu phao rồi các cậu mới thấy được cái sự mệt mỏi do quá gắng sức. Mãi cho đến lúc này Hằng vẫn không khỏi ngạc nhiên về chuyện cái cầu và cả quang cảnh yên tĩnh trên suốt quãng đường đi từ sớm đến giờ. Hằng không thể ngờ rằng mình đã vừa đến được Hàm Rồng, nơi mà mới chỉ ít tháng trước đây được nhắc đến như là một nơi khốc liệt của chiến tranh. Còn nữa, nơi mà cả nước ngưỡng mộ bởi những chiến công oanh liệt vào loại bậc nhất trên miền Bắc của những con người và mảnh đất nơi đây. Cái ngọn núi lở lói kia có phải là núi Ngọc hay không mà sao tất cả đều im lặng, bình thản đến lạ kỳ.
Vừa đi vừa quay nhìn lại nơi mình vừa mới đi qua Hằng nhận ra một khu vực nhà cửa khá đồ sộ nhưng đã bị bom đánh trơ ra. Các bức tường gạch đỏ nham nhở vết thương bên cạnh là những thanh sắt như những con rắn ngóc đầu uốn lượn thành những đường cong kỳ dị phô cái màu rỉ nâu đỏ trông đến thảm hại. Từ xa nhìn lại ta như thấy cả sự hoang tàn đổ nát của nó hiển hiện trên bầu trời màu chì xám ngắt, có cái gì đó làm cho ta phải gai gai trong ý nghĩ về những gì rất nguy hiểm sẽ sắp sửa xảy ra.
Cầu phao là những đám tre luồng, ván gỗ hỗn độn lát trên những thùng phao bằng thép nối vào nhau nổi trên mặt nước. Những khi yên tĩnh các phao được chắp nối vào nhau cho người và xe đi qua, những khi có máy bay thì lại được tháo ra sơ tán dọc theo hai bờ đê. Kể ra mà nói thì đáng lẽ ra lúc này cầu đã phải tháo ra để sơ tán, nhưng vì thời tiết hôm nay có vẻ xấu, giặc Mỹ cũng ít hoạt động vì thế nên cầu vẫn còn để đến bây giờ. Số khách qua cầu cũng đã được nhắc nhở đi nhanh để cho các nhân viên tháo cầu sơ tán.
Con đường đê nối từ đầu cầu phía nam vòng vào giữa làng Nam Ngạn rồi đi tiếp lên phía thị xã chắc đã nhiều lần được đổ đá nên bề mặt có vẻ cứng. Rải rác có các đoạn bị bom đánh đã lấp lại nhưng vẫn tạo ra một khoảng lõm gồ ghề khá lớn chứa trong đó những ổ bụi ngập qua mắt cá chân, mỗi lần có cậu dẫm phải lại làm cho cả bọn chạy té ra hai bên để tránh. Vừa mới bắt đầu chạm vào đầu làng Nam Ngạn thì cả bọn gặp hai ông già mặc áo bảo hộ đạp xe đạp từ phía thị xã đi ra. Hằng nghĩ có lẽ đây là những công nhân ở trong khu vực này nên hỏi có thể họ sẽ biết cơ quan nhà máy điện ở đâu. Nghĩ thế nào làm thế ấy cậu liền đứng ra gần giữa đường có ý ngăn họ lại để hỏi thăm:
- Hai bác cho cháu hỏi thăm một tý ạ? Hai vị khách mặc áo bảo hộ liền phanh xe dừng lại, một người cao lớn có khuôn mặt rất vui cất tiếng sang sảng hỏi lại:
- Các anh hỏi gì nhỉ?
Hằng mau mắn trả lời:
- Chúng cháu ở trường điện lực được cử về Nhà máy điện Thanh Hoá công tác mà tìm mãi vẫn không biết cơ quan ở đâu, không biết các bác có thể chỉ đường hộ cho chúng cháu được không ạ!
- Thế hả! Chúng tôi là nhà máy điện đây.
Bác cao lớn vừa trả lời vừa chỉ tay vào người thấp nhỏ đi cùng với mình và nói như có ý giới thiệu:
- Bác này là bác Hổ tổ trưởng tổ sửa chữa máy, còn tôi là Long tổ trưởng tổ sửa chữa lò. Có cậu nào học sửa chữa lò không đấy?
- Dạ, chúng cháu đều là sửa chữa ạ, có cả lò và máy.
- Thế thì tốt quá rồi, bây giờ chúng tớ phải ra nhà máy, các cậu cứ theo con đường lớn này mà đi đến ngã ba Bia thì hỏi thăm đến khu nông lâm thổ sản là nơi phân xưởng cơ điện sơ tán về đó.
Nói xong hai ông già lại giơ tay chào rồi tiếp tục lên xe đi ra phía đầu cầu. Tất cả mấy anh em cũng bắt đầu  cuốc bộ về phía thị xã Thanh Hoá.

                                                     4

Vừa đi vừa hỏi thăm mãi rồi cũng đến được phân xưởng Cơ điện. Những người gặp đầu tiên lại chính là các cậu cùng lớp quê ở Thái Bình và Nam Định. Sau một hồi líu ríu chuyện trò, hỏi han nhau xong các cậu vào trước dẫn số mới lên gặp lãnh đạo trên phân xưởng. Không may cho các cậu là ông quản đốc lại lên nhà máy để họp, thế là các cậu đành kéo nhau về phòng của các bạn để nghỉ. Số bạn vào trước lại xuống nhà ăn báo cơm hộ rồi cả lũ kéo nhau ra ngoài phố uống nước. Với cái phố thị xã thời chiến lúc này thì cũng chẳng có gì đáng kể gọi là ngon để mà đãi nhau. Quanh đi thì nước mía, quanh lại cũng chỉ có nước dừa, uống mãi chỉ tổ đầy bụng, thế là lại về nhà. Mệt mỏi và buồn Hằng ngủ một mạch đến lúc mấy cậu bạn gọi đi ăn cơm mới dậy.
Xuống nhà ăn cậu thấy ai ai cũng lạ, mỗi người đều có những bộ cặp lồng hoặc ít ra cũng có mấy cái bát men to để đựng cơm canh và thức ăn mặn còn Hằng chẳng có một thứ gì. Đang không biết xoay xở ra làm sao thì có một người mang đến cho mượn bộ cặp lồng men vàng, người ấy lại bảo:
- Mấy thằng ấy nó ăn xong đã kéo nhau đi chơi hết cả rồi, chú mang đồ vào lấy cơm ăn đi không có nguội.
Lúc ấy Hằng cũng không biết anh ấy là ai, mãi đến sau này cậu mới biết người hôm ấy cho mượn cặp lồng là anh Tảo làm trong tổ máy mà sau này cậu cũng về làm việc ở đó.
Mãi tới chiều hôm sau số công nhân mới được phân xưởng bố trí về các tổ. Tất cả mọi người đều được bố trí vào các tổ theo đúng với nghề của mình. Lò về Lò, máy về Máy, chỉ có một vài người được về các tổ trong mô hình mới của phân xưởng ví như Thảo thì về tổ Van. Cũng có một số vào trước thì lại bị bố trí sang phân xưởng vận hành như Nhâm, Hưng, Vũ.
Hàng ngày các tổ đều phải đi bộ từ nơi ở ra nhà máy để làm việc. Quãng đường đi cắt ngang một cánh đồng khá rộng, vòng qua làng Đông Tác, bắt vào khe núi Cánh Tiên rồi mới vào nhà máy. Trên suốt dọc đường là những hố bom sâu hoắm, cái mới giáp vào cái đã cũ, nếu nhìn từ trên cao xuống ta cảm thấy giống như một cái bánh đa nướng với những chỗ phồng lên xẹp xuống kề cận bên nhau.
Khu vực nhà máy còn bị tàn phá càng ghê gớm hơn sau ba ngày từ hai mốt đến hai ba tháng chín năm sáu sáu. Toàn bộ khu lòng chảo của nhà máy được bao lại bởi phía bắc là khu công nghiệp máy xay cùng với đường đê nam sông Mã, phía tây là con đường sắt cùng với cầu Chui chạy dọc chân núi Mắt Rồng, phía nam là dãy đồi Quyết Thắng và phía đông là núi Cánh Tiên đã bị giặc Mỹ đổ xuống hơn bẩy ngàn tấn bom đạn. Theo như đài địch tuyên truyền lúc bấy giờ là chúng đã huỷ diệt hoàn toàn nhà máy điện này của Việt Cộng. Sự thật phải nói rằng hầu như toàn bộ mảnh đất đã bị cày xới, đào ngoáy lên không còn sót một chỗ nào rộng quá chục mét vuông. Còn việc có huỷ diệt được như kẻ thù đã nói thì hoàn toàn không, bởi vì sau đó không lâu nhà máy lại đã phát điện trở lại. Có điều đáng nói là cho dù ác liệt là thế mà đơn vị vẫn bám lò, bám máy để sản xuất, sự mất mát lớn nhất lúc ấy là sự  hy sinh của một người chiến sĩ tự vệ nhà máy.
Công việc sửa chữa chính bây giờ là làm sao để nhà máy sớm đi vào hoạt động. Ngoài những việc tháo gỡ các dầm xà bê tông nặng hàng dăm chục tấn ra khỏi các thiết bị còn có một việc là phải hàn vá mấy miếng thủng trên mình nồi hơi. Đây là việc nan giải nhất cần phải bàn bạc, bởi việc hàn vá nồi hơi là việc không được phép làm trong quy trình quản lý và sử dụng các thiết bị áp lực.
Thực ra những người chủ trương hàn vá nồi hơi  không phải họ không biết điều đó, họ đã nghĩ rằng họ có thể gặp điều không may do làm sai quy trình, nhưng họ hiểu sẽ còn không may hơn là nếu không có điện phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu, thì rồi cái sự tàn sát của kẻ thù còn làm cho cái sự chết chóc lớn hơn thế rất nhiều. Sự quả cảm và ý chí quyết thắng đã cho họ có một tiếng nói chung là phải làm cho bằng được.
Ngay sau khi có chủ trương hàn vá nồi hơi là công việc được tiến hành ngay. Những người cán bộ đảng viên và những bộ phận có chuyên môn này được huy động tới mức cao nhất. Lực lượng công nhân mới cũng được tập trung vào công việc ngay trong những ngày đầu tiên về phân xưởng. Đắp lò, cắt phôi, nung phôi cho đỏ rực lên rồi dùng búa cái bẩy cân thay nhau đánh xuống bề mặt những tấm tôn thép dày gần ba mươi ly để uốn thành các tấm có hình cong phù hợp với hình dáng của nồi hơi. Rồi cắt gọt, tạo vát, đánh bóng cả chỗ thủng lẫn miếng vá chuẩn bị cho công nghệ hàn vá. Sau này Hằng được biết công việc ban đầu mà các cậu đã được tham gia ở một vài công đoạn đã được thực hiện thành công và được ca ngợi hết lời trong ngành điện.

                                                         5

Những ngày sống ở ngã ba Bia thật là náo nhiệt, náo nhiệt bởi đám trẻ mới từ vùng ngoài chuyển vào  ăn chơi, phá phách. Chỗ nào cũng thấy bóng dáng của họ lồ lộ ra bởi sự khác lạ trong ăn mặc, đi đứng, nói cười, cả trong lúc đi làm việc cũng như trong khi họ vui chơi. Nhất là những ngày chủ nhật hoặc ngày nghỉ, họ ở xa không thể về nhà được, thế là từng đoàn kéo nhau đi rong khắp các phố từ sáng đến chiều.
Từ lâu nay những người dân ở cái thị xã của khu vực giáp khu Bốn miền Trung này luôn sống rất bình lặng cả về mọi mặt, thế mà chỉ sau có mấy ngày những cái đầu xoáy tây Đức, những bộ tóc mai uốn cong, những đuôi tóc rậm rạp ốp vào gáy chờm ra cả bên ngoài cổ áo cứ bất chợt xuất hiện làm cho lớp người lớn cảm thấy khó chịu khi gặp ngoài đường, còn lũ trẻ mới lớn thì trố mắt ra mà nhìn với vẻ thích thú và tán thưởng, và cũng  không lâu sau đã gây phiền toái cho những ông thợ cạo về những yêu cầu mới cho những cái đầu của họ. Lại còn quần áo của họ mới thật đáng sợ, có cậu thì quần bó sát mông, sát cẳng, có cậu thì lại loè xoè với chiếc quần ống loe mà lỗ miệng gấu quần rộng đến mức cả con lợn con chui vào cũng lọt.
Chỉ với mức lương bậc hai thôi nhưng mỗi ngày đến nhà máy là mỗi người lại được thêm tiền đi đường, tiền độc hại, tiền bồi dưỡng hiện vật thành ra mỗi ngày họ cũng được gần đến một đồng nữa, nên lương của họ đã tương đương với lương của công nhân bậc năm chứ đâu phải ít. Lẽ dĩ nhiên là họ tiêu pha xả láng bởi họ đều chưa có gia đình, chưa phải lo toan cho ai khác ngoài cái bản thân của họ. Nhưng cái chính là họ xa nhà và lại còn quá trẻ, cái sự ham chơi và cả cái bệnh sĩ diện, thích tỏ ra mình là người sành điệu ăn chơi theo kiểu thành phố lớn mà ra. Kỳ thực thì đa số họ sinh ra, lớn lên ở các vùng nông thôn là chính. Trước đó chưa  lâu họ cũng vẫn cày bừa, gặt hái lăn lê ngoài đồng ngoài ruộng như những người dân thôn quê thực sự chứ cũng chẳng ghê gớm gì đâu. Tuy chơi bời vậy nhưng sự dũng cảm, lỳ lợm trong bom đạn, sự cần mẫn, sáng tạo trong lao động sản xuất và các việc hoạt động trong đời sống hàng ngày thì không ai có thể chê họ vào đâu được.
Công việc phục hồi nhà máy gần xong về cơ bản thì việc phục hồi nhà máy thuỷ điện Bàn Thạch cũng đòi hỏi phải nhanh chóng hoàn thành, thế là lại phải thành lập một bộ phận mới để làm công việc này. Một chuyến ô tô tải với đủ cả người lẫn máy chồng chất lên đó để đi lên Thọ Xuân làm việc đã khởi hành. Hằng và một số bạn ở các tổ khác cùng với một số công nhân cũ đã lên Thọ Xuân ngay sau cuộc họp phân xưởng buổi chiều hôm đó.
Sau khi dỡ hàng xong thì mọi người được phòng hành chính của Bàn Thạch dẫn đi đến các nhà dân quanh khu vực nhà máy để ở trọ trong những ngày phục hồi nhà máy. Hằng được dẫn đến một gia đình ở ngay cạnh đường rẽ vào xí nghiệp Công nông của huyện Thọ Xuân cũng sơ tán gần khu vực nhà máy. Cũng chỉ kịp ném cái túi du lịch bằng bạt cùng với chăn màn quần áo xuống cái giường mà chủ nhà dành cho mượn xong là vác bát ra nhà ăn để ăn cơm tối. Ngoài việc ăn uống các cậu trẻ còn chuyện vãn một lúc lâu nên mãi tối mò mới về đến nhà trọ.
Rửa ráy xong xuôi Hằng mang từ trong túi ra bàn một gói bánh nướng cùng với một gói nhỏ các loại kẹo của công ty bánh kẹo Thanh Hoá làm ra và bán phân phối cho cán bộ công nhân nhà nước. Gọi là bánh nướng cho sang vậy thôi chứ thực ra thì cái chất trong nó chẳng có gì. Tất cả đều là bột mỳ trộn đường, ngào nước làm vỏ bọc một chút nhân bên trong cũng bằng bột mỳ lẫn bột khoai với một tý đậu không biết là loại đậu nào được trộn nhiều đường hơn một chút cho giống kiểu chè kho ở vùng ngoài rồi đem nướng lên trong lò như nướng bánh mỳ vậy thôi. Còn kẹo thì càng thảm hại hơn nữa, nó cũng được trộn bằng bột mỳ với đường rồi nhào lẫn với vài mảnh lạc rang, cán ra cắt thành thỏi vuông bằng ngón tay cái bọc giấy vào là thành. Có lẽ nên gọi nó là viên chè lam chế biến hơi khô thì đúng hơn, chè lam còn được làm từ gạo nếp chứ kẹo của Thanh Hoá lúc ấy thì thật đáng ngại.  Cánh công nhân trẻ vẫn quen gọi loại kẹo này là gạch xỉ tro lò bởi nó tuy nhỏ nhưng màu của nó, dáng của nó có cái kích thước rất tỷ lệ với viên gạch được đóng bằng xỉ lò với một chút vôi rất chi là khiêm tốn.  Kể ra mà nói thì lúc ấy có những thứ ấy cũng đã là quý lắm rồi vì chỉ ở cơ quan nhà nước mới được phân phối còn ở ngoài thị trường làm gì có mà mua vì vậy mà mấy đứa trẻ con nhà chủ vẫn rất say sưa ăn đến viên kẹo cuối cùng, lẽ dĩ nhiên là các cô, các cậu nhí rất thích ông anh công nhân trẻ và trắng như con gái vừa đến ở nhà mình.
Sau khi hỏi han về gia đình rồi quê quán của người đến ở trọ xong cả ông lẫn bà đều xởi lởi thông báo về hoàn cảnh của nhà để cho cậu khách bất đắc dĩ tiện trong sinh hoạt hàng ngày. Qua thông báo của nhà chủ Hằng biết được nhà có người con lớn là một cô bé mới độ mười sáu tuổi cao lều nghều vừa chạy ở đâu về là thụt ngay vào buồng với mẹ. Thế có lẽ cũng tốt, cũng đỡ cho mình khỏi phải giữ ý, giữ tứ; một việc mà cậu vẫn rất ngại từ trước đến giờ.
Máy thuỷ điện của Bàn Thạch công suất rất nhỏ, cả ba máy chỉ có chín trăm ki lô oát, được đặt đứng xuyên qua ba tầng nhà máy. Phần dưới cùng là buồng xoắn cùng với thùng côn, các cửa hướng nước và ba cánh quạt của tua bin to như những cái nia. Phần giữa là cấu trúc ổ trục định hướng bằng cao su cùng với các đường nước lọc bôi trơn cho trục khi quay. Tầng trên cùng là máy phát điện cùng với thiết bị điều khiển và các máy ngắt. Tất cả tầng trên được che chắn bằng một giàn gỗ xẻ xếp chồng lên mấy lớp để phòng khi máy bay đánh phá không làm cho máy bị hỏng quá nặng. Lần đánh phá vừa qua chỉ làm cho các thiết bị ngoài nhà máy bị hư hại, còn nhà máy chính có lẽ chỉ  bị nghiêng đi một chút thì phải. Tuy vậy công việc phục hồi cũng không thể một sớm, một chiều mà xong được.

                                                      6

Các công việc phục hồi cuối năm 1966 của nhà máy điện được kết hợp với việc vét đất cát trên lòng sông nông giang khơi thông dòng chảy ở phía thượng lưu nhà máy do địa phương đảm trách nên cùng một lúc có đến hàng mấy trăm người cùng làm việc trên một khu vực. Những chàng trai, cô gái vừa làm vừa trêu ghẹo lẫn nhau, tiếng hò, tiếng hát ầm vang tưởng như đất nước đang ở khung cảnh thanh bình nếu như thỉnh thoảng không có tiếng rít của các máy bay Mic cất cánh bay lên từ phía sân bay Sao Vàng gần đó để cảnh giới và chặn đánh bọn Thần Sấm, Con Ma của Mỹ vẫn cắn trộm hàng ngày.
Cũng chỉ không quá mười ngày thì đám dân công của các xã quanh khu vực nhà máy cũng đã rút hết chỉ còn trơ lại mấy người công nhân sửa chữa. Công việc phục hồi ở khu cửa điều tiết, khu âu thuyền và cả các cửa cống thượng lưu tuy nhiều nhưng lại đơn giản nên số công nhân sửa chữa cũng đã rút bớt về thị xã, chỉ còn bốn năm người của tổ máy là phải ở lại. Trong số họ hầu như đều đã có gia đình cả chỉ còn ba người chưa có gia đình thì trong đó Loan đã có người yêu sắp cưới, chỉ còn mỗi anh Khâu và Hằng là chưa có một tý tình yêu nào. Kể ra mà nói thì cả anh Khâu cũng đã có ý trung nhân rồi thì phải vì Hằng thấy các anh lớn vẫn nhắc đến để trêu anh Khâu về một cô Hải nào đó ở cơ khí 250 và một cô Dung nào đó ở trên khối văn phòng của nhà máy. Thường khi mọi người trêu, anh lại đưa hai tay ra khoanh một vòng từ trên xuống dưới vẽ ra một không gian dựng đứng thắt nhỏ ở giữa còn hai đầu thì phình ra cực lớn ý chừng như muốn bảo rằng mấy cô này lùn tịt còn mông và ngực thì lại quá to nên khó chấp nhận được. Chỉ có Hằng là hoàn toàn chưa yêu ai cả nên cậu rất vô tư luôn chỉn chu với công việc hàng ngày.
Sau tám tiếng ban ngày lại đến bốn tiềng ban đêm, về đến nhà là cậu lăn ra ngủ không còn biết giời đất là gì nữa. Kẻng báo động máy bay khua ầm khắp xóm mà cậu cũng chẳng chịu ra hầm. Hết bác trai lại đến bác gái chủ nhà vào dựng dậy cậu cũng chỉ nhỏm dậy một tý rồi lại ngã kềnh ra giường ngủ tiếp. Cũng có lần cậu bị đánh thức thì bất chợt thấy cô bé Hương con nhà chủ đang lôi tay kéo dậy. Lần ấy vì thấy cô ấy cầm tay kéo nên cậu đành phải dậy đi ra hầm, tuy vậy nhưng mà cậu cũng chỉ ngồi ngay trên miệng hầm mà không chịu xuống bên dưới.
Công việc sửa chữa khó khăn nhất là việc căn chỉnh độ thẳng đứng của cả hệ trục và độ trùng tâm của các đoạn trục nối với nhau mà từ trước đến nay chưa phải động đến. Lần này do bị đánh phá nên hệ trục bị sai lệch quá nhiều, nếu không điều chỉnh lại thì không ai dám quyết định cho chạy máy.
Việc căn chỉnh độ thẳng đứng và độ đồng tâm của hệ trục được tiến hành bằng cách đo khoảng cách từ trục ra đến các sợi dây dọi nằm ở bốn hướng quanh trục để biết độ sai lệch mà điều chỉnh. Việc đo đạc, lấy thông số thường phải làm rất lâu mới xong. Nhưng để có thể căn chỉnh được thì sai lệch của thông số trong quá trình đo đạc phải ở trong giới hạn cho phép mới có thể đem ra tính toán được. Việc này không phải là một việc khó, nhưng lại cần ở người đo có độ thính nhạy và thật sự đồng bộ giữa đôi tay và đôi tai để đến khi vừa nghe thấy tiếng kêu sột soạt ở tai nghe là dừng tay vặn Panme thì con số sẽ chính xác. Tuy vậy cái sự thính nhạy ấy không phải ai cũng giống ai. Chính vì thế mà những người đo có kinh nghiệm nhất cũng chỉ có thể tóm được một vài lần trong cả chục lần đo. Cái sự căn chỉnh buộc phải kéo dài có khi cả ngày mà vẫn không xong là thế. 
Sau mấy ngày Hằng cầm các cục pin và tai nghe theo sát người đo mà vẫn không xong được máy nào thì cậu cũng thấy nản. Lắm khi ngồi chờ đo buồn ngủ đến ríu cả mắt lại. Cứ mỗi lần thay đổi vị trí là anh Khâu và anh Dưa lại phải gọi cậu dậy để chuyển chỗ. Mỗi lần bị gọi dậy cậu lại lơ ngơ như mới lạc ở đâu về làm cho các anh ấy buồn cười đến rũ cả ra:
- Bò lạc của nông trường đây, chúng mày ơi!
Đo chán lại nghỉ uống chè và hút thuốc lào, nước  thuốc xong rồi lại đo nhưng cũng chẳng hơn gì. Cũng đã mấy ngày rồi mà vẫn chưa xong lấy một tổ máy, ai cũng thấy mệt mỏi. Vừa hút xong điếu thuốc anh Khâu vừa thở vừa phàn nàn về công việc với vẻ chán chường, mệt mỏi. Lưng dựa vào thành Stato máy phát điện, hai chân để soải ra trên mặt đất anh Khâu ngoái đầu về phía Hằng:
- Này! Da tay mày có vẻ mỏng, lần này cho mày đo thử để tao cầm pin cho.
Suốt mấy ngày phụ đo vừa rồi cậu cũng đã hiểu cách đo rồi nên nghe nói vậy cậu cũng chẳng từ chối mà đứng lên để đo ngay. Cũng phải mất một lúc lâu  cậu mới đo xong tám điểm đo. Anh Khâu đặt bộ pin xuống để cầm lấy bản ghi các thông số của cậu rồi anh lại bỏ ngay bên cạnh đó để hút thuốc lào vẻ như không tin là cậu ta có thể đo được.
Đang nói chuyện với mấy người ngồi cạo rỉ cho đỡ buồn ngủ phía cửa ra vào thì nghe anh Khâu gọi váng lên:
- Này, cậu ghi chính xác đấy chứ?
- Vâng! Em ghi đúng như khi đo từng điểm một mà lại!
- Thôi lần này cậu đo xong rồi cậu đọc cho tớ ghi xem sao.
Cũng chỉ trong một thời gian ngắn cậu đã đo xong tám điểm trên trục, lần đo này có vẻ còn nhanh hơn lần trước. Vừa tháo tai nghe ra, cậu đang định chạy đến chỗ mấy anh bạn để tiếp tục câu chuyện dở lúc nãy thì anh Khâu lại gọi giật lại:
- Chớ đi vội, cậu đo lại cho tớ một vài điểm này nữa xem sao.
Hằng lại tháo dây buộc Panme đo theo chỉ dẫn của anh Khâu, có đến bốn điểm nữa thì anh Khâu mới bảo dừng lại và ra hiệu cho cậu đi ra. Sau một hồi tính toán anh lại gọi cậu lại và bảo:
- Này cậu đo ghi đúng đấy chứ?
- Anh ghi đấy chứ có phải em đâu!
- Ừ! ấy là tớ bảo cậu không được đọc số giả đấy nhé!... Kẻo đến khi máy hỏng là cả tớ và cậu đều vào nhà đá tất.
Dừng một chốc anh Khâu lại nói tiếp:
- Thôi, hôm nay thắng lợi cho các cậu nghỉ sớm.
Nhìn đồng hồ trên tường thấy đã bốn giờ, tất cả đều vòng xuống hạ lưu để rửa tay rồi ra về. Suốt cả mấy ngày vật lộn với căn chỉnh, mãi đến hôm nay mọi người ra về mới cảm thấy nhẹ nhõm đi đôi chút.

                                                            7

Chiều thứ bẩy hôm nay tất cả nhóm được xả hơi sau gần một tháng làm liên tục cả ngày sang đêm không nghỉ. Cái chính là muốn cho một số anh em ở gần về qua thăm nhà chứ còn cái bọn thân đơn, gối chiếc như Hằng thì chỉ muốn làm nhanh cho xong để về thị xã cho sớm. Hình như mấy hôm trước anh Côn bên vận hành có hẹn Hằng ở nhà để nói điều gì thì phải, thế mà đã gần hai giờ chiều rồi vẫn chưa thấy đâu. Chờ mãi sốt ruột Hằng quyết định đi lên huyện và một vài nơi quanh khu vực xem có gì hay không.
Vừa dạo bước trên bờ đê Hằng vừa nghĩ nếu như không có chiến tranh phá hoại mà Mỹ đang tiến hành ở trên miền Bắc thì có lẽ không khí nơi này chắc cũng rất vui. Làm sao không vui cho được với một vùng quê đẹp tựa tranh như thế này. Làng Tây Hồ ở bên trái còn  làng Xuân Quang ở về mé bên phải của con sông nông giang tràn ngập một màu xanh ngăn ngắt của dừa và các cây ăn quả khác. Xen kẽ với những tán cây là những mái nhà lợp lá kè bàng bạc cùng với một đôi làn khói đang lên, ta như thấy có một cái gì đó thật là gần gũi, gắn bó và thân thiết như chính nơi quê hương của mình vậy. Lại nhớ hôm nào mới đến, dòng sông nông giang nước trong xanh chảy chầm chậm bên dưới chiếc cầu xi măng uốn cong bắc qua trông thật nên thơ. Một vài con đò nhỏ lách cách gõ mái chèo đuổi cá. Cũng có lúc thì cả một đoàn các bè tre nứa, luồng gỗ nối đuôi nhau dừng trước âu thuyền để chờ dâng nước vào âu đi tiếp xuống phía hạ lưu. Từng đàn trâu bò gặm cỏ trên các triền đê thoai thoải giống như trên nền một tấm thảm xanh được gắn vào đấy những bông hoa chấm vậy. Xa xa hơn nữa là những dãy núi nhấp nhô mờ trong sương khói trông thật huyền diệu. Thật may mắn cho những người có một vùng quê đẹp như thế làm nơi chôn rau, cắt rốn.
Phố huyện Thọ Xuân cũng chỉ có một vài ngôi nhà của các cơ quan huyện và các cửa hàng là to lớn hơn cả. Các ngôi nhà dân thì nhỏ bé, kế tiếp nhau chạy dọc con phố. Có đến hơn một nửa số nhà dân vẫn là nhà tranh, lá lụp xụp. Ngay tại trung tâm huyện là nơi tập trung một số cửa hàng của nhà nước như cửa hàng hàng thực phẩm, cửa hàng bách hoá, cửa hàng công nghệ phẩm xen kẽ cạnh nhau. Hàng hoá chủ yếu được công ty cấp ba phân phối về để cung cấp cho các cơ quan. Qua hết đợt phân phối là hàng lại hết sạch không còn gì cả. Các hàng lẻ của tư nhân cũng chẳng lấy gì làm phong phú cho lắm, vì hàng ở đây cũng đều do được tuồn từ nơi sản xuất của nhà nước ra là chính. Người bán cũng chỉ muốn ăn chênh lệch một chút gọi là đối với những người không  có tiêu chuẩn cung cấp.
Toàn bộ cái thị trấn ở vùng trung du này nằm trong diện gần như nghèo nàn nhất trong cả nước. Có lẽ do sống trong cảnh thời chiến nên họ cũng chẳng muốn củng cố, xây dựng làm gì, vì nay bom, mai đạn chả biết có được nguyên vẹn hay không. Sau khi vào hàng kem mậu dịch ăn vài cái cho đỡ nhớ Hà Nội rồi Hằng lại cuốc bộ để về Bàn Thạch.
Cũng đến nhá nhem tối Hằng mới về được đến nhà ăn tập thể. Bác Trường cấp dưỡng mang cho Hằng một bát cơm to và một bát canh rau ngót, một chốc bác mới lại mang ra cho cậu một đĩa thịt kho, bên cạnh lại còn có một khúc cá nheo hầm lá riềng thơm phức.
- Bác Trường ơi! Sao hôm nay phong phú thế?
- À chả là cậu về hơi muộn nên tớ để dành hơi khá hơn một chút!
- Thế thì hôm sau cháu lại về muộn.
- Còn có hôm sau nữa ấy à! Có mà tớ cho cậu nhịn vì tớ cũng phải về nhà với vợ con tớ chứ.
Đến lúc này cậu mới nhận ra là cậu đã làm phiền bác Trường thì chuyện đã rồi. Cậu vội nói như là có ý xin lỗi bác:
- Đến lúc đó bác cứ treo ngoài bờ rào cho cháu!
- Thế có mà…!
Bác Trường vừa nói đến đây thì đã nghe ồn ồn ngoài cửa nhà ăn, đúng là giọng ông Khâu rồi! Không biết có chuyện gì mà hối hả thế không biết được. Vừa thò đầu vào cửa nhìn thấy Hằng là anh đã phán một thôi một hồi làm cho Hằng không kịp hiểu điều gì ra điều gì cả.
- Này cậu có biết người ta đợi bao lâu không hả?
- Chiều nay anh cho nghỉ cơ mà? Có việc gì đột xuất thế anh?
- Này cậu cũng thiên biến vạn hoá vừa vừa chứ, hôm nọ mới bảo chưa có cô nào thế mà hôm nay có đến hai cô đến hỏi thăm có chết không chứ?
- Anh nói thế nào chứ mãi hôm nay em mới được đi chơi làm gì có quen ai mà có người đến hỏi thăm! Có chăng là mấy cô dân công ở Xuân Thành hôm vào thau bể lọc thì anh cũng biết rồi còn gì? Với lại hình như họ có cảm tình với anh thì đúng hơn chứ không phải cảm tình với em.
- Chả lẽ cái cô Ba, Tư nào đấy tròn như cái hạt mít ấy lại không phải là bạn của cậu?
- Làm gì có! Em thề đấy!
- Hay là cô ấy hỏi thăm Hằng gò nhỉ? À mà hai cô này là do ông Côn điếc miền Nam dẫn đến mày ạ.

                                                             8

Cơm nước xong cả hai anh em lại cùng ra về. Vừa đi Hằng vừa nghĩ chả lẽ anh Côn hẹn mình chiều nay đến là vì việc của hai cô này. Không có thể thế được, vì từ khi mình vào Thanh Hoá mình chưa quen ai, chắc có lẽ là hai cô này quen một Hằng nào khác mà anh Côn ngộ nhận là mình. Mọi việc rồi cũng qua đi, mãi cho đến chiều hôm sau đang định theo hẹn đi chơi với mấy anh ở vận hành thì anh Côn đến, anh Côn đến còn dẫn theo hai cô gái thật, đúng là hai cái hạt mít như anh Khâu nói tối qua. Nhìn xa thì thấy hình như hai người này cũng hơi quen quen nhưng không làm sao nhớ ra được. Mãi đến khi ba người vào đến cửa rồi mà Hằng vẫn như người mộng du ở đâu ấy. Chỉ đến khi một cô gái bật quát lên:
- Không nhớ à! Tuyn, Tuýt, Tư đây! Đã nhận ra chưa?
Đến lúc nay thì Hằng mới bừng tỉnh và nhận ra mấy cô gái Thanh Hoá cùng học năm lớp bẩy hồi nào.
Ngày ấy ba cô gái quê Thanh theo người nhà ra Hà Nội sơ tán. Chả biết thế nào lại vào học cùng lớp với Hằng ở tận trường Cổ Loa. Tuy Hằng không quen thân lắm nhưng mà cũng đã có lần họ đến thăm nhà của Hằng. Lúc ấy họ có nói quê ở Thanh Hoá nhưng Hằng chẳng để tâmN, chỉ là nghe rồi biết vậy mà thôi. Thế mà làm thế nào quả đất quay tròn họ lại gặp nhau tại nơi xa tít mù tắp này cơ chứ?
- Này thế còn Tuyết cao đâu mà không thấy?
- Tuyết cao ở lại học tiếp cấp ba, chỉ có mình và Tư là về nhà thôi.
- Thế chả lẽ quê của các bạn lại ở đây à? Từ ngày ấy đến giờ các bạn đã làm gì rồi?
Cả hai đều gật đầu thay cho câu hỏi, mãi sau rồi Tư cũng lại trả lời tiếp:
- Bọn mình về giúp nhà làm ruộng thôi… Mãi hôm rồi nghe anh Côn nói có cậu ở Cổ Loa vào mình đoán ngay là cậu nên ra thăm xem đã có gì đổi mới chưa!
Tư vừa nói chửa dứt lời thì Tuyên đã cướp lời nói tiếp:
- Này, đợi suốt cả chiều hôm qua mà không thấy về. Chắc đã có cô nào ở gần đây hay sao mà đi kỹ thế không biết?
Mấy người bạn đã lâu mới được gặp nhau nên có không biết bao nhiêu là chuyện. Hết người này lại đến người kia hỏi rồi trả lời. Đầu tiên là hỏi về những người đang có mặt, tiếp sau đó là hỏi và trả lời về những người bạn mà họ cùng quen biết. Hằng cho họ biết ngoài Hằng có mặt ở Thanh Hoá còn có cả Nội, Thảo ở lớp 7A cũng đã vào Thanh nhưng họ còn ở Hàm Rồng. Cánh trẻ mải chuyện đến nỗi gần như quên hẳn sự có mặt của anh Côn, mãi đến một lúc lâu sau anh Côn mới có dịp chen vào câu chuyện được. Bằng giọng nói đặc sệt của vùng quê Nam Bộ anh kể về cuộc gặp của anh và Hằng. Cũng qua câu chuyện của hai người mà anh biết được Hằng có quen với mấy cô gái của làng Tây Hồ. Bất ngờ hơn cả là việc anh chính là chồng chị Lượng là cán bộ phụ nữ ở xã Dục Tú của Hằng. Đến lúc ấy thì Hằng mới hiểu ra mọi sự. Thì ra bữa trước hai anh em kể cho nhau nghe về chuyện của mỗi người thì anh đã biết cái sự quen biết của mấy người rồi mà anh không nói gì cho Hằng biết, có lẽ anh muốn để cho Hằng bị bất ngờ như thế mới vui. Câu chuyện lại được chuyển sang những đề tài mới kéo dài đến mấy tiếng đồng hồ mà hình như vẫn chưa cạn. Đến gần bốn giờ thì anh Côn nói anh phải đi ca chiều nên anh sẽ về trước, anh dặn Hằng đưa Tuyên và Tư  về sau.
Cứ mỗi lần nhìn hai cô gái Hằng lại bật cười chả là vì ngày ấy ba cô gái Thanh vào lớp học, Hằng có hỏi tên của từng người để ghi vào sổ điểm thì cô Tuyên đã mau mồm, mau miệng chỉ vào từng người rồi cất đúng cái giọng Thanh Hoá của mình lên để giới thiệu:
- Tôi là Tuyn, đây là Tuýt còn đây là Tư…
Tuyên cũng mới chỉ nói đến đó thì tất cả những người đứng xung quanh đều đã bật cười ầm cả lên. Chả là vì tên của họ khi nói bằng tiếng Thanh Hoá đều mất đi chữ Ê thế nên các bạn vùng ngoài mới bật cười như thế.
Chuyện thêm được một lúc nữa thì cả hai cô cũng từ biệt để về. Hết chào đi, chào lại rồi lại hẹn đến chơi nhà mãi rồi mới chia tay được. Hai cô chắc là sợ bạn bè biết được sự quen biết này sẽ lại trêu đùa nên không cho tiễn mà chỉ tự mình đạp xe lai nhau về. Với lại nếu Hằng muốn đi tiễn thì cả ba sẽ lại cùng đi bộ vì Hằng đã làm gì có xe đạp.
Đến lúc ăn cơm buổi tối thì Hằng phải chấp nhận sự quen biết hai cô gái tròn như hai cái hạt mít với anh Khâu và tất cả mọi người. Tất nhiên là cậu lại phải kể toàn bộ câu chuyện ban chiều cho cả nhóm cùng nghe.  Vừa nghe kể một số anh trong nhóm cũng lại xen vào trêu cợt:
- Này cậu nói thế nào ấy chứ? Đã học mãi với nhau, lại đến nhà nhau rồi thế mà lại nhanh quên đến thế cho được!
- Thì em nói thật mà lại!
- Thế nào mà chả có tý cảm tình hay là cậu định giấu chúng tớ thì bảo. Này đến lúc có chuyện gì… thì đừng có bảo chúng tớ đứng ra giúp đấy nhé!
Mọi người đều cười ồn cả lên rồi kéo nhau ra nhà máy làm thêm giờ buổi tối.

                                                         9                            

Công việc phục hồi kết thúc xong thì cũng đã vào ngày hai mươi sáu tết. Những đồ dùng nặng chuyên dụng đã được lau chùi bàn giao cho anh Đà là công nhân sửa chữa theo ca của Bàn Thạch cất vào kho của nhà máy. Một số dụng cụ cầm tay thì anh em có xe đạp đã chở về Hàm Rồng từ chiều hôm qua. Cả nhóm chỉ còn ba anh em Khâu, Hằng và Loan ở lại chạy nghiệm thu rồi chờ xe lên đón về sau.
Việc nghiệm thu cũng rất nhanh chóng vì phần cơ sử lý tốt hơn hẳn so với mọi lần. Máy chạy êm không hề có một tý rung động nào. Việc hòa điện lên lưới của máy thuỷ vốn đã rất dễ nay lại càng nhanh hơn. Cánh anh Tiếp kều nhận máy cười tươi rói bắt tay cánh cơ điện ra ý chúc mừng.
Ba anh em chờ suốt cả ngày hai bẩy sang ngày hai tám tết vẫn chẳng có xe. Mãi đến gần tối ngày hai tám ông Huy quản đốc mới báo tin là phân xưởng Cơ điện đang phải tập trung sơ tán khỏi thị xã lên cây số tám Rừng Thông nên không có xe, các anh em ở lại qua tết hãy về. Vừa buồn, vừa chán, mấy anh em đi rong khắp nơi quanh khu vực rồi lại về ăn cơm ở bếp tập đoàn. Xung quanh khu vực từ các nhà dân đến nhà công nhân cơ khí huyện cũng đang ráo riết chuẩn bị cho đón tết. Nào là các mặt hàng về thực phẩm, hàng nhu yếu phẩm và cả đến những hàng xa xỉ phẩm dùng cho tết cũng đã được bày đặt đầy ở các chợ. Các cơ quan cũng đã tổ chức đi lấy hàng từ các cửa hàng công nghệ về cho đơn vị của mình. Chỉ có ba anh em là phất phơ đây đó chả biết làm gì.
Tối ấy Hằng đi ngủ muộn nên đến sáng hôm sau trời sáng rõ rồi mà cậu vẫn còn ngủ say mê mệt. Các bác nhà chủ cũng không muốn gọi cậu dậy sớm vì họ nghĩ cậu phải ngủ bù đợt phục hồi vừa rồi. Vẫn đang còn say sưa trên giường thì đã thấy anh Khâu vào kéo dậy.
Vừa bị dựng dậy, còn ngái ngủ nên Hằng chẳng biết anh Khâu vừa thì thầm bên tai điều gì. Mãi đến hơn mười phút sau cậu mới hiểu ra câu chuyện anh Khâu kể về nội dung cuộc họp của bộ phận công đoàn Bàn Thạch bàn soạn về việc tết cho mấy anh em bên Cơ điện mà anh nghe được tối qua. Chả biết cái sự bàn bạc có những ý kiến thế nào mà anh Khâu bảo anh đã nghe được có một vài ý kiến không vui vẻ lắm khi phải  chia sẻ hàng tết cho số khách bất đắc dĩ là cánh ta.
Không ai còn lạ gì hoàn cảnh của cả nước trong những năm tháng chiến tranh. Cho dù chỉ là vài cân ngô răng ngựa mọt mang ra để trợ cấp thôi cũng phải xét lên, xét xuống mới xong được, huống hồ đây lại là những hàng nhu yếu phẩm phân phối theo tiêu chuẩn của từng người, làm sao mà chẳng có ý kiến lên, ý kiến xuống. Tuy vậy khi nghe nói có một người nào đó cứ cân lên, đặt xuống một cái việc rất chi là vật chất mà lại dính dáng đến mình thì cũng chẳng lấy gì làm hài lòng cho lắm. Cũng chính vì thế mà sau khi nghe đến câu chuyện trên thì tất cả ba anh em đã quyết định đi bộ về đơn vị cũ để tránh làm khó dễ cho đơn vị bạn. Thế là sáng hai chín tết năm 1966 ba anh em khăn gói quả mướp cuốc bộ gần bốn mươi cây số để về thị xã.
Ngay từ tám giờ sáng cả ba người đã bắt đầu khởi hành. Đầu tiên đi dọc theo sông nông giang trước nhà máy để xuôi về Hậu Hiền rồi về tới Ngã ba Chè và đến gần sáu giờ tối hôm đó thì về đến cây số tám Rừng Thông. Phân xưởng cũng vừa hoàn thành chuyến di chuyển cuối cùng về sân kho của một địa phương cạnh đường. Ông Tư quản đốc cũng chỉ kịp gặp bắt tay, hỏi han qua loa ba người xong là lại tiếp tục chỉ đạo công tác quản lý số hàng ở sân kho. Hàng nhiều nhất chỉ là của bộ phận cơ khí còn các tổ khác thì chẳng có bao nhiêu. Sau một hồi giúp các tổ thu dọn vật liệu xong thì Hằng mới đi về nơi ở của tổ ở trong làng Bản Nguyên. Trời thì tối nên Hằng chả biết cái làng ấy nó rộng hẹp, đẹp xấu ra sao, mãi đến khi vào gia đình ở trọ thì Hằng mới nhận ra số anh em trong tổ qua ánh đèn dầu. Vừa đặt túi du lịch và các đồ dùng xuống là cậu ngồi bẹt ngay xuống đất mặc kệ anh chủ nhà kêu đứng lên để anh giải chiếu.
- Anh cứ mặc kệ em, người em bẩn lắm, vừa rồi em lại bê vác một số đồ đạc cho tổ cơ khí nên cả tay cũng bẩn lắm.
Sau khi đã sắp xếp các bộ phận đâu vào đó thì cũng đã hơn mười giờ. Hằng được bố trí nghỉ ngay tại nhà anh chị chủ vừa đến mà không phải chuyển đi, thế là cậu lăn ngay ra ngủ một chập đến tận sáng hôm sau.
Tết đến mà như không ai biết gì về tết, người ta vẫn phải đi chuyển đồ đạc, còn nhân dân trong vùng thì cũng đang củng cố hầm hố để đề phòng giặc Mỹ leo thang gay gắt hơn trong thời gian tới. Bên cạnh đó lại còn việc phải cấy xong lúa chiêm xuân và các hoa màu khác nên hợp tác cũng chỉ nghỉ có hai ngày tết mà thôi. Tết thời chiến cái gì cũng gấp rút, cái gì cũng gọn nhẹ, cái gì cũng giảm tiện.
Thế là lần đầu tiên trong đời Hằng ăn tết ở xa nhà, xa những người thân. Tết mà như là không tết (!)

                                                      10

Những ngày tết đi qua thật nhanh chóng, tất cả mọi người lại tiếp tục với những công việc thường ngày của mình. Những trận đánh phá của kẻ thù ngày một dầy thêm, ngày một ác liệt thêm. Rất nhiều nơi xung quanh khu vực Hàm Rồng bị thiệt hại về người và của. Những trận địa pháo phòng không bố trí ở trên các đỉnh đồi hàng ngày phơi lưng ra để hứng những trận mưa sắt thép, rất nhiều các chiến sĩ đã hy sinh. Nhưng cũng chính những con người quả cảm ấy đã từng ngày giữ vững cây cầu nối liền huyết mạch giao thông từ Bắc vào Nam, từng ngày ghi thêm những chiến công vào trận chiến lớn lao của cả dân tộc trong cuộc đối đầu với tên giặc hung dữ nhất của thời đại.
Không chỉ có những chiến sĩ trực tiếp đánh giặc ở phương Nam, không chỉ những chiến sĩ ngồi trên mâm pháo bắn vào kẻ thù, còn cả những người lao động cũng ngày đêm đứng ở nơi trận địa ác liệt nhất để giữ vững công việc sản xuất ra thóc, gạo, ngô, khoai, thịt, cá, muối, rau nuôi sống mọi người họ cũng đã như những người lính xung trận góp phần vào chiến thắng chung to lớn ấy.
Những người công nhân ngành điện lại càng gặp nhiều nguy hiểm, khó khăn hơn khi kẻ thù ngày đêm nhằm vào những nơi như thế để mà đánh phá, để mà huỷ diệt. Mỗi ngày từng kíp thợ lần lượt thay nhau vào cái pháo đài đầy thương tích để sửa chữa và vận hành khối bê tông, sắt thép ấy để tạo ra năng lượng điện phục vụ cả xã hội. Tất cả những người từng hiểu biết về công việc của những người thợ điện đều yêu mến và cảm phục về sự quả cảm của những người thợ chiến sỹ trong cái “Pháo đài 44 anh hùng” trên quê hương của họ.
Từ mấy năm qua bọn giặc trời đã đánh hàng trăm trận bom vào khu vực cầu Hàm Rồng và những vùng lân cận. Nhà máy điện cũng là một mục tiêu mà bọn giặc luôn tìm cách huỷ diệt nên không lần nào đi ngang qua mà chúng không sẻ cho nhà máy một vài loạt bom, Rốckét. Điều đó cho thấy khi bước chân vào nhà máy những người thợ cũng không khác gì một người lính xung phong cảm tử. Người ta có thể nói về việc quen thuộc của con người đối với môi trường và sự vật chứ còn nói là quen thuộc với hiểm nguy và chết chóc nghe ra thật khó chấp nhận. Tuy vậy một khi chung sống với hiểm nguy và chết chóc nhiều cũng làm cho người ta dạn dĩ hơn, thông minh hơn và biết cách tránh được một phần những điều không may mắn.
Cũng phải nói rằng sự hy sinh, quả cảm của mỗi người cộng với sức lôi cuốn của cả một cộng đồng to lớn với phong trào sản xuất, chiến đấu vì Tổ Quốc đang sôi lên trên cả nước đã tiếp sức cho họ, nên suốt mấy năm qua chưa có một người công nhân thợ điện nào chịu rời bỏ vị trí công tác của mình, mặc dù họ biết có thể chỉ ngày mai thôi họ sẽ không có mặt trên đời này nữa. 
Sớm nay 12 tháng 6, trời có vẻ trong sáng hơn mọi ngày thường, những ngày tháng sáu là những ngày có thời gian ban ngày rất dài. Cũng chỉ còn gần mười ngày nữa là gặp ngày hạ chí, ngày dài nhất trong năm. Mọi ngày bằng giờ đã nghe bộ đội trên đồi pháo báo động đến cả chục lần, vậy mà hôm nay lại có vẻ im ắng khác thường. Những biểu hiện như trên dường như lần nào cũng dự báo có sự việc nghiêm trọng sẽ xảy ra.  Lãnh đạo đơn vị cũng đã mấy lần qua các nhóm nhắc phải sẵn sàng đến nơi trú ẩn gần nhất và nhanh nhất khi có báo động. Trong cả cái khối hộp gạch và bê tông sứt sẹo ấy cũng chỉ có khu hầm lò là có vẻ chắc chắn hơn một chút, còn tất cả đều mỏng manh chỉ cần có một vật nặng độ vài tạ rơi xuống là đã xuyên thủng mái nhà rơi xuống đến tận mặt sàn tầng trệt, huống hồ nếu là một trái bom với sức công phá lớn thì chẳng chỗ nào có thể chịu nổi, kể cả cái hầm lò vừa nói trên kia.
Những người công nhân họ thường nói đùa với nhau rằng hôm nay chưa chắc bọn giặc đã đến, đến chưa chắc đã đánh vào nhà máy, đánh vào nhà máy chưa chắc đã trúng, trúng chưa chắc đã vào nóc lò, vào nóc lò chưa chắc đã nổ, nổ chưa chắc đã phá được xuống đáy, xuống đáy chưa chắc đã có thể chết hết được. Thế rồi tất cả cùng cười, cùng động viên lẫn nhau và rồi chả bao lâu sau đã nghe tiếng kẻng báo yên của bộ đội từ trên đồi Quyết Thắng, họ lại tiếp tục với các công việc như không có chuyện gì xảy ra.
Những năm tháng ấy thật hào hùng và thật tươi đẹp. Mỗi người như mỗi bông hoa tươi, trên từng cánh của nó hầu như không có một tý dập nát, một tý đốm lạ mầu, và cả không có một mảy may quăn mép. Những con người ở vào những năm sau này sẽ đáng tiếc biết bao khi đã không một lần được sống trong những phút giây như thế, cho dù họ có thừa mứa về điều kiện vật chất và những điều kiện hiện đại khác mà ngày đó chưa có được.
Không khí yên tĩnh kéo dài thường làm cho người ta dễ sinh chủ quan, mất chủ động và chỉ mới chưa hết nửa hồi kẻng báo động từ đồi pháo thì đã nghe thấy tiếng nổ ùng ục khắp bốn xung quanh nhà máy. Chưa kịp bám vào cây cột bằng ống kẽm vẫn dựng ở chỗ lỗ thủng của nền tầng hai cho các công nhân tụt xuống đã nghe từ phía trước nhà máy có tiếng đổ rất nặng. Vật gì có thể tạo ra được âm thanh nặng nề đến vậy, nếu không phải là cái ống khói của nhà máy bị đổ. Vừa kịp nghĩ đến đó thì cả cái hầm lò đã tối đen như mực, bụi than, bụi gạch phả đầy cả vào mồm. Cái câu “chưa chắc đã trúng” có lẽ không còn hiệu nghiệm nữa, thế nhưng hình như tất cả chưa ai làm sao cả thì phải. Có nghĩa là “trúng cũng chưa chắc đã làm sao…” vẫn hiệu nghiệm đấy chứ.
Những hồi kẻng báo yên đã vang lên và bụi khói trong hầm lò cũng tan dần, mọi người cũng đã nhìn thấy nhau. Trời ơi! Thật là kinh khủng! Tất cả đều đã đen thui kể cả da thịt lẫn quần áo, không còn ai nhận ra ai. Tiếng nói thì khẳn đặc thành ra mọi người nhận ra nhau chỉ còn cách dự đoán qua khổ người và hình dáng đi đứng riêng hàng ngày mà thôi.
Cột ống khói cao tướng hàng ngày đã đổ gẫy ra làm mấy khúc, cứ như ai đó nhặt ở đâu những vòng cống khổng lồ đem về đặt trước nhà máy. Một trái bom hai trăm năm mươi cân đã chui qua khe của giàn  ống đứng không nổ mà tự rách theo chiều dọc rồi nằm kẹt giữa các khe ống, giống hệt quả bom xuyên qua trần gian máy cũng xé dọc thân mà không nổ, rơi ở đầu bình ngưng số một vài năm trước đây. Dù sao thì tất cả đều đã không ai làm sao cả và những câu nói đùa lại có dịp được cất lên rôm rả hơn bao giờ hết.
Thử lửa? Thử lửa ư? Chắc hẳn là thế rồi…! Cái chết đã lướt qua mạng sườn của họ không chỉ một vài lần. Chỉ có điều nói đến cái sự thử lửa mà lại hài hước đến vậy thì cái sự thử lửa ấy dễ làm cho người ta nghĩ là câu chuyện sân khấu. Xin nói với độc giả rằng tôi đã cố gắng hết sức để diễn cảm ý nghĩ thực lúc đó và không tô vẽ thêm một chút nào.
Sau trận bom nhà máy buộc phải dừng lại để sửa chữa phục hồi vì không phải chỉ có ống khỏi đổ mà cả khối giàn ống đứng, giàn ống nghiêng, bộ sấy không khí, bộ hâm và nhiều khối thiết bị khác cũng bị hỏng hoàn toàn. Những người công nhân vẫn bám chặt lấy lò máy của họ để rồi nghĩ ra trăm phương ngàn kế phục hồi lại lò máy và họ đã làm được tất cả.

                                                 TÌNH YÊU

                                                        1

Công việc sửa chữa phục hồi nhà máy điện Hàm Rồng lần này có rất nhiều hạng mục. Phần thiết bị đều  tập trung ở khối lò hơi của tổ sửa chữa lò. Phần máy hầu như chỉ phải kiểm tra bảo dưỡng sơ bộ ở phần thiết bị phụ. Cũng do công việc của lò nhiều quá nên phân xưởng giao thêm cho tổ sửa chữa máy sửa chữa một số các thiết bị lẻ của lò hơi như hệ thống thổi bụi cho các giàn ống sinh hơi, giàn ống quá nhiệt, máy kéo ghi, và chế tạo lại bộ sấy không khí. Công việc của tổ lần này chủ yếu cần nhiều đến sức khoẻ nên tổ bố trí nhóm công tác gồm các thanh niên là chính.
Vừa ở công trường lắp cụm phát điện Điêdel ở Đa Nê, Yên Định về đến đơn vị đóng ở làng Vồm được mấy hôm, Hằng đã phải nhập vào nhóm phục hồi để đi xuống Hàm Rồng công tác. Để cách xa vùng trọng điểm đánh phá của kẻ địch mà lại gần nơi sản xuất nên đơn vị đã liên hệ cho các nhóm công tác đóng ở hai làng là Định Hoà và làng Đại Khối. Nếu cứ chiếu theo đường thẳng thì từ chỗ ở đến nhà máy cũng không quá hai cây số, nhưng ai có thể vượt qua mấy chục đỉnh núi nên đành phải đi vòng xa đến gần năm cây số mới tới được nhà máy.
Cũng do Hằng đi công tác về muộn nên khi xuống Đại Khối phải trọ một mình ở một nhà. Nhà Hằng trọ là nhà một ông cán bộ huyện, có lẽ ông cũng có chức vị khá nên gia đình ông cũng được xếp vào loại có kinh tế so với số đông các gia đình trong làng. Chỉ có bà vợ cả và mấy đứa con nhỏ ở nhà, còn ông cán bộ huyện mà làng xóm vẫn cứ gọi ông là ông Thơi thì thường vắng nhà luôn.
Hằng được gia đình nhà chủ bố trí cho nằm ngủ ở một chiếc giường lim kê sát với gian buồng bên phải, kế theo đó là gian giữa kê bộ bàn ghế gỗ đóng khá chắc chắn, có lẽ cũng được làm bằng gỗ lim nên nó có mầu đen hơi thẫm. Chỉ từ sau khi Hằng đến ở bộ bàn ghế mới có vẻ được chăm sóc, còn trước đó có lẽ bộ bàn ghế này hàng ngày hầu như ít ai sử dụng đến nên mặt ghế có phần khô xác mà không bóng nhẵn như của mọi nhà. Sau này Hằng mới biết nhà vợ hai của ông Thơi cũng ở không xa hơn nhà bà cả bao nhiêu, mỗi lần về có lẽ ông Thơi ở nhà bà hai nhiều hơn thì phải.
Qua lại trên đất Thanh Hoá cũng đã nhiều nơi nhưng không đâu lại có phong tục như làng Đại Khối, ở đây người ta gọi mẹ đẻ ra mình là chị, còn chị gái thị lại gọi bằng ả. Dò hỏi mãi về sau Hằng mới biết nguyên do là làng có tục thờ Thánh Mẫu nên họ kiêng gọi tiếng mẹ, chính vì thế mà họ đã gọi chệch đi hai ngôi nói trên.
Đến làng Đại Khối cũng đã lâu mà Hằng cũng chẳng đi đâu, ngoài đi làm hàng ngày ở nhà máy. Các buổi tối về nhà chủ Hằng chỉ chăm chú đọc sách về kỹ thuật và các cuốn tiểu thuyết dày cộp mà Hằng nhặt được ở các cửa hàng sách và các thư viện dưới thị xã bị đánh phá bỏ bừa ra đó. Nhà ông Thơi cũng có cô con gái lớn tên là Thảo nhưng cô này lại ở cùng với bà hai, chỉ thỉnh thoảng mới thấy cô rẽ về nhà mẹ cả vào các buổi tối.
Mấy ngày gần đây làng Đại Khối tập trung vào việc đánh tranh rạ để lợp nhà và các công trình của hợp tác xã. Có lẽ vì sân nhà mẹ cả của cô rất rộng nên đã mấy ngày nay cô Thảo về nhà thường xuyên hơn để bàn với mẹ cả về việc đem rạ về đánh tranh ở nhà mình. Mỗi lần cô về nhà là cô kéo theo về mấy cô bạn nữa làm cho không khí trong nhà ầm ĩ cả lên. Những lúc như thế Hằng thường bỏ đi chơi bên nhà cụ Tú để tránh các cô cho đến khi thấy im ắng  rồi mới về nhà. Cũng chỉ tránh được mấy ngày thôi bởi ngay sau đó cô Thảo đã cho chuyển về nhà hàng đống rạ lớn và cứ tối đến là cô cùng với cả đám bạn tập trung ở đó đánh tranh.
Bắt đầu là các câu chuyện rì rào nho nhỏ thế rồi câu chuyện rộ dần lên và chẳng bao lâu sau đó là gọi, là hỏi, là trêu nhau, rồi thì cười, rồi thì hát, rồi thì hò hét đến inh tai nhức óc. Cũng đã có một vài cô động chạm đến cái người lúc nào cũng im như thóc ngồi đọc sách trong nhà bằng những câu hò với những lời bóng gió. Người ngồi trong nhà cũng biết vậy nhưng cũng cố tình như không nghe thấy và tất nhiên là không nhìn thấy bởi các cô ngồi dưới bóng trăng suông gần phía cổng vào nhà. Có nhẽ các cô cũng biết rằng cái anh chàng này không thể nhìn thấy nên mới trêu mạnh thế chứ nếu lại nhìn rõ được thì đố có dám. Sau mỗi lần có cô nào đó chọn được một câu khá sắc nhọn một chút hoặc khá rõ ý tứ một chút là có đến hàng loạt những tiếng cười như xé vải phụ hoạ thêm vào. Cứ mỗi lần như thế bà cả Thơi lại nhìn Hằng cười mỉm như bảo rằng (cậu đã thấy gái làng Đại Khối chưa). Những lúc ấy Hằng cũng mỉm cười đáp lại bà thật hiền lành và thân thiện.
Thực ra cậu cũng có để ý đến các cô nhưng sau mấy lần về phép trước đó xem ý mẹ thì nghe ra bà cụ không muốn cho cậu lấy vợ ở nơi xa. Có lần cụ nói với con trai rằng:
- Em nó rồi cũng lấy chồng, nhà chỉ có một mẹ một con, anh lại ở trong ấy chắc rồi tôi cũng chết khô, chết héo ở ngoài này thôi!
Nhưng cái chính có lẽ là cụ nghĩ mình chẳng có nhà có cửa,  kinh tế lại eo hẹp quá nên việc đưa một cô dâu ở nơi xa về chưa chắc người ta đã thông cảm và chịu đựng được với hoàn cảnh của mình và điều đó có thể sẽ làm cho hạnh phúc của con cái đi đến đổ vỡ. Có lẽ chính vì thế mà bà cụ không muốn cho con lấy vợ ở xa. Hiểu được nỗi lo lắng của mẹ nên cậu không muốn làm trái ý của bà. Nhất là lần về phép vừa qua bà cụ đã gạn cho cậu một cô bé ở quê, cho dù cậu chưa đồng ý nhưng hình như hai bên đã có lời lẽ nên cũng làm cho cậu thật khó nghĩ. Đây cũng là lý do làm cho cậu không muốn tiếp xúc nhiều với các cô gái của làng Đại Khối.
Sau rất nhiều thủ đoạn mà các cô vẫn chưa lay chuyển được cái con người quá đáng này thì các cô lại càng bị kích động bởi sự tò mò muốn biết cái anh chàng này có gì đặc biệt không mà kiêu kỳ đến thế. Thế rồi các cô kêu khát ầm lên, hết réo gọi Thảo lại hỏi sang bà cả Thơi xem nước ở đâu rồi kéo nhau vào nhà ra ý đi tìm nước uống. Đến nước này thì chắc chắn là phải chạm mặt rồi đây...
Hôm nay Hằng đi làm về muộn, cơm nước xong một lúc lâu Hằng mới về nhà. Ngõ nhỏ lại sâu nên trời rất tối, có lẽ cũng còn một lý do là hôm nay trăng muộn hơn mọi ngày. Vừa ra khỏi cổng nhà ăn, tý nữa Hằng đã đâm sầm vào hai người đang đứng giữa đường. Hoảng quá, sau khi đi quá thêm đoạn nữa Hằng đành đứng lại để cho mắt quen với bóng tối rồi mới đi tiếp. Thì ra hai người mà tý nữa Hằng đâm phải là hai cô gái đang đứng giữa đường nói chuyện với nhau.
- Này con trai chi mà trắng thế không biết, cứ như con gái ấy mày ạ!
Một cô vừa nói dứt lời thì cô thứ hai đã tiếp một cách hào hứng:
- Chuyện! Trai Hà Nội của người ta mà lại!
- Chết nhá! Của người ta từ bao giờ thế hả?
- Vớ vẩn, đấy là người ta nói đệm vào lại.
- Không nghe! Không nghe! Tối nay nhất định choa bảo cho chàng biết cái Dụng nó đã nhận rồi.
Liền ngay lúc đó là các tiếng đấm, tiếng thụi vào lưng nhau cùng với cả tiếng cười cứ réo lên ồn ã cả cái con ngõ hẻm tối om, tối óp.
Đến bây giờ thì Hằng đã nhận ra đây có lẽ là mấy cô gái vẫn đến nhà bà cả Thơi đánh tranh các buổi tối, còn cái con người Hà Nội mà họ vừa đùn đẩy kia không biết là ai? Hằng gai cả người khi nghĩ đến nếu cái con người kia lại chính là Hằng. Chả lẽ mình lại bị mang ra bàn luận, đùn đẩy đến mức như vậy sao? Vừa đi Hằng vừa lôi từ trong bộ nhớ ra xem cái cô Dụng là cô nào mà mãi không thể nhớ ra.
Về nhà được một lúc thì mới thấy các cô gái kéo đến. Câu chuyện của họ hôm nay hình như có vẻ rôm rả hơn mọi hôm rất nhiều. Đặc biệt là bọn họ hay trêu một cô nào đó trong nhóm của họ, còn có một người thì cứ chạy đuổi hết cô này đến cô kia để đấm, để thụi, để càu nhàu. Có lẽ người từ nãy đến giờ vẫn chạy đuổi các bạn chính là cô Dụng.
- Này! Không nhận hả? Để đấy nhường cho cái Thảo! Tiện của nhà chả phải đi đâu cho xa!
- Thảo có rồi còn gì! Để đấy tớ, tớ nhận cho, đến lúc đó đừng có mà tiếc đấy nhé!
Chợt có một giọng rất là đàn chị của một cô nào đó cất lên khá đanh để ra lệnh cho cả nhóm:
- Này! Làm đi thôi kẻo mai là hạn nộp cuối cùng rồi đấy! Các cụ ấy mà hét cho thì đừng có mà…
Không khí hơi lặng đi một chút nhưng chẳng bao lâu sau đâu lại đóng đó, lại ầm ĩ, lại cười, lại hò hát cho mãi đến tận đêm khuya.

                                                            2

Những đêm đánh tranh ở nhà bà Thơi rồi cũng hết, có điều là từ sau cái buổi tối các cô gái cố tình vào tìm nước uống để xem mặt cái anh chàng lập dị nọ ra làm sao thì cả hai bên đã có sự gần gũi hơn, thế nhưng cũng rất lâu sau Hằng mới biết mặt Dụng.
Dụng năm ấy mới vừa đủ mười tám tuổi. Dụng khá xinh và trắng trẻo, người tròn lẳn như rất nhiều các cô gái khác. Mỗi lần bất chợt gặp giữa đường Dụng chỉ dám chào lý nhí mà không chào to. Mỗi lần gặp và chào nhau như thế hình như Dụng có vẻ rất luống cuống và đỏ mặt lên trông đến ngại. Biết vậy nên Hằng thường chủ động hơn trong các câu hỏi để cho cô bình tĩnh trở lại. Kể ra cũng lạ, không biết sao từ trước khi biết nhau họ lại chỉ gặp nhau rất ít, mặc dù nhà Dụng ở ngay trên đoạn đường mà hàng ngày khi đi làm Hằng vẫn đi qua. Còn từ sau ngày biết nhau rồi thì hầu như không ngày nào hai người không chạm mặt nhau đến một vài lần.
Nhà Dụng chỉ có hai bố mẹ cùng với ba chị em. Chị cả tên là Lợi cũng đã hai mươi và hình như đã có người ở bên Đông Thổ đến xin hỏi cưới, chắc cũng chỉ chờ đến mùa đông hoặc mùa xuân năm tới là chị sẽ về nhà chồng. Sau Dụng là cậu em út cũng đã lên tám tuổi nhưng người thì nhỏ bé mà lại cao lều nghều trông đến là ngộ. Bố mẹ Dụng đều là những người nông dân thuần tuý dễ mến, cho dù Hằng chưa bao giờ tiếp xúc với họ mà chỉ gặp và chào họ khi bất chợt gặp họ trên đường như với bao nhiêu người khác nhưng Hằng vẫn nhận ra ở họ có những nét thân tình...
Sau một ngày về nơi sơ tán của đơn vị để họp tổng kết Hằng đã thấy có cái gì đó cứ bồn chồn, nóng ruột giống như linh tính cho thấy có ai đó cứ nhắc đến tên mình vậy. Nhiều lúc thấy như thiếu vắng một cái gì đó mà không thể nghĩ ra được đó là cái gì. Chỉ mãi đến khi rời làng Vồm xuống Đại Khối, Hằng mới thấy bớt đi sự nóng ruột mà trong suốt thời gian ngồi họp đã xảy ra. Vừa quăng cái túi đựng mấy thứ vặt vãnh cùng với mấy quyển sách vào giường thì Hằng nhận ra có ai đó vừa chào bà cả Thơi bước vội ra sân theo lối cửa của gian nhà kế gian buồng bên trái.
- Bác Thơi đã ăn cơm chưa?
- Tôi ăn cơm rồi, cháu đi họp về đấy hả?
- Vâng, cháu vừa mới xuống đến nơi!
- Sao không ở đến mai mà lại xuống tối thế?
- Cháu cứ thấy sốt ruột thế nào ấy, với lại nhà bà Ao ở trên Vồm hôm nay có khách nên đằng nào cháu cũng phải đi ngủ nhờ thế là cơm nước xong là cháu đi ngay đỡ sớm mai phải thức dậy đi sớm.
- Cũng may mà cháu đi có một ngày chứ nếu đi độ mấy ngày thì choa cũng đến hết hơi về nó!
Còn đang cố lắng nghe xem bà cả Thơi nói gì thì đã nghe bà tiếp:
- Này! Từ sáng đến giờ nó xuống hỏi thăm mày có đến bốn lượt rồi đấy!
- Ai thế hả bác?
- Này, các anh chị đừng có che mắt tôi nhé! Cái Thảo nó bảo cho tôi biết từ bữa trước rồi. Hình như ông bà ấy cũng không phản đối đâu. Nhà họ có ông em cũng lấy vợ và ở ngoài ấy rồi. Mỗi lần họ về trông sang trọng và lịch sự, làm cả làng ao ước mà không được ấy chứ!
Ngừng một chút, không kịp để cho Hằng nói gì bà cả  Thơi lại nói tiếp:
- Kể ra mà cái Thảo nhà tôi nó yêu anh thì tôi bàn với gì nó là cứ cho không.
Đến lúc này thì Hằng cũng đã đoán ra được phần nào những điều bà Thơi vừa nói và cả cái người bà Thơi bảo đã đến làm phiền bà đến bốn lượt trong một ngày kia rồi. Tuy nhiên Hằng nghĩ là mình bị oan nên cố thanh minh:
- Bác nói thế làm oan cho cháu! Tất cả là các cô ấy gán ghép đấy chứ!
- Này, không có lửa lấy đâu ra có khói, đừng có mà giấu giếm, rồi đến lúc cần nhờ chúng tôi là khó chứ chẳng chơi đâu!
Biết có thanh minh nữa cũng chẳng ăn thua gì nên cậu cười xí xoá với bà Thơi rồi đi ra ngõ, định sang Định Hoà đi hò với bọn cậu Thảo ở tổ sửa chữa Van .
Trăng đầu tháng lờ mờ nhưng Hằng vẫn nhận ra có một người con gái đứng ở một góc tường của một gia đình trong ngõ khi vừa chợt đi qua.
-  Anh đi đâu đấy ạ!
Vừa nghe câu chào nhỏ nhẹ Hằng đã nhận ra đó là Dụng, Hằng cũng vội chào lại:
- Dụng đi đâu về đấy?
- Em định xuống nhà bác Thơi!
Đang định đi tiếp thì Hằng lại nghe Dụng hỏi:
- Vừa nãy bác Thơi nói xấu gì em thế?
- Làm gì có!
- Em ở ngoài sân nghe hết cả thế mà anh lại còn bênh cho bác ấy!
Nghe đến đây Hằng cũng thấy chột dạ, không biết lúc nãy mình có động chạm gì đến cô ấy không biết? Có lẽ là không thì phải.
- Em còn nghe người ta dãy nảy lên vì bị gán ghép nữa cơ! Chả là người ta là người Hà Nội mà lại.
Biết cô ấy cũng khá lâu nhưng chưa thấy cô ấy nói nhiều và lại có ý mát mẻ như thế bao giờ nên Hằng cũng bất ngờ đứng sững lại không biết nói làm sao cho được. Kể ra mà nói trong con mắt nhìn của Hằng thì Dụng là một cô gái tương đối hợp với ý muốn tìm kiếm của cậu. Nếu như mỗi lần về nhà cậu không phải nghe mẹ nhắc về việc không muốn cho lấy vợ ở xa thì Hằng đã chủ động tìm hiểu cô ấy ngay từ bữa trước chứ cần gì phải để cho sự việc rơi vào hoàn cảnh như thế này. Đang suy nghĩ để tìm cách nói lại với Dụng thì lại nghe cô ấy lên tiếng, lần này giọng nói của cô ấy nghe có vẻ buồn hẳn đi:
- Bọn con gái quê mùa lại ít học như chúng em, các anh có quen biết chẳng qua cũng chỉ làm cho các anh xấu hổ thêm mà thôi…
Vừa nghe được mấy lời này Hằng chợt tìm ra được câu trả lời cho Dụng, cậu liền cướp lời nói luôn:
- Em cứ nói thế chứ ai chẳng như ai. Thanh Hoá anh hùng, nhiều người vùng ngoài ao ước còn không được nữa là.
Mặc dù biết mình hơi sáo trong những câu chữ vừa rồi nhưng cậu vẫn cứ tràng giang đại hải để che đậy những bế tắc từ nãy đến giờ. Chắc cậu vẫn còn diễn thuyết nữa nếu như không có một bà cụ vừa đi qua trước mặt hai người làm cho cả hai cùng phải né người để tránh. Vừa tránh Dụng vừa chào với theo bà cụ:
- Bà ơi sao bà về sớm thế?
- Con Dụng đấy hả? Mẹ mày đang tìm đấy!
- Vâng ạ!
- Em có phải về nhà không? Hằng hỏi
- Mẹ em lúc nào chả tìm về để đấm lưng, chả là mẹ em thỉnh thoảng vẫn bị đau lưng khi dở giời mà lại.
Ngừng một chút Dụng lại tiếp:
- Mình đứng đây gặp lắm người quá hay là đi ngược lại phía bờ ao nói chuyện tiện hơn.
Vừa nói Dụng vừa đi ngược lại lướt qua bên cạnh, mặc kệ Hằng có đồng ý hay không. Phần vì đường hẹp, phần vì tối trời nên khi Dụng nhỡ chân cọ sát vào bên sườn của Hằng làm cho cả hai cùng loạng choạng tý nữa thì ngã. Mặc dù suýt bị ngã nhưng Hằng vẫn cảm thấy có cái gì đấy thật mềm mại và gợi cảm đến là kỳ lạ mà không thể nào giải thích được.
Bờ ao hợp tác khá rộng và lại có rất nhiều cây dừa mới trồng tạo thành những cái ô lớn che khuất cả về phía đường nên nếu ai đi qua mà không để ý thì không nhận ra người đứng ở dưới gốc của nó, cũng chính vì thế mà hai người đã đứng ở đó gần năm tiếng đồng hồ cùng với những câu chuyện không đầu, không cuối mà chẳng bị ai quấy rầy. Họ chỉ chia tay khi câu chuyện đã có phần kết khá thân mật cùng với việc hẹn hò đêm mai gặp lại.

                                                     3

   Đã lâu lắm mà Hằng vẫn không ngủ được. Tất cả những sự kiện xảy ra trong thời gian vừa qua hình thành những câu hỏi luôn lởn vởn trong đầu. Có nên yêu không? Yêu hay không yêu? Yêu để lấy hay chỉ để cho vui? Những cô gái ở quê có ai bằng cô ấy không? Hình thức, tính cách? Mặc dù Hằng đã cố gắng không nghĩ đến nhưng vẫn không thể xua đi hết được. Một chuỗi những suy nghĩ kéo dài đã làm anh mệt mỏi. Có gì đó như muốn thoả hiệp, muốn buông trôi. Cùng lúc ấy trong anh cũng xuất hiện một tình cảm lạ, nó óng ánh, nó rực rỡ và khô nóng làm ra sự khao khát đến cháy bỏng mà không gì dập tắt, không gì ngăn cản nổi. Tự thân trạng thái ấy cứ thôi thúc buộc ta phải đi theo sự mời gọi của nó để rồi mặc kệ tất cả mọi sự muốn ra sao thì ra…
Chưa bao giờ một ngày làm việc lại dài đến thế! Mặt trời thì cứ đứng im mãi ở trên đầu, đôi kim của chiếc đồng hồ hình như không chịu quay, chiếc kẻng bằng quả bom cũng như bị câm mà không chịu cất lên những tiếng keng keng làm cho cái sự chờ đợi cứ dài dằng dặc ra đến mức không còn chịu đựng thêm được nữa.
Đôi trai gái ấy cũng đã có nhiểu đêm chờ đợi, nhiều đêm gặp gỡ, tuy vậy họ cũng vẫn còn có gì đó tựa như muốn giữ ý với nhau. Nhưng đến lần hẹn tối hôm qua thì hình như có điều gì đó rất khác so với những lần trước đó. Chờ đợi mãi thì rồi trời cũng đã tối và cái thời điểm hò hẹn cũng đã đến. Gốc dừa lại một lần nữa chứng kiến sự gặp gỡ của đôi trai gái cùng với những gì mà họ chưa kịp bắt đầu từ những đêm hôm trước. Khác với mọi đêm, đôi trai gái đêm nay có phần dạn dĩ hơn, họ ngồi gần nhau hơn, những câu chuyện của họ cũng tươi vui hơn mà không còn những câu hỏi có ý thăm dò và khách khí như những đêm trước nữa. Từ bên trong tâm hồn của mỗi người đều đã nhận ra cái điều mà họ hiểu sẽ phải xảy ra trong khoảng thời gian đang đến rất gần.
Tất cả những câu chuyện dùng để làm cái cớ cho sự gặp gỡ hầu như đã không còn cần nữa, cả hai người đều im lặng đợi chờ và khi hai thân người chợt chạm vào nhau thì mọi ngăn cách hầu như đã không còn. Những chùm sao trên trời, những chùm sao dưới nước hình như cùng lúc ánh lên sáng rỡ. Cũng giống như những chùm sao, ánh mắt của cả hai người như hút vào nhau lúc một gần thêm, gần thêm và chợt ánh lên sáng lấp lánh khi hai cặp môi gắn vào nhau không muốn rời ra nữa.
Từ sau nụ hôn kéo dài vô tận ấy họ không còn nói với nhau bằng lời mà bắt đầu nói với nhau bằng mắt, bằng sự tiếp xúc da thịt của nhau trong vòng ôm đến nghẹt thở. Những gì chất chứa trong lòng được dịp phơi bày không cần phải giữ gìn gì nữa. Gần một đêm trắng bên nhau trong yêu, trong khao khát, làm họ ngây ngất trong hạnh phúc tràn ngập và họ chia tay nhau khi hướng đông đã bắt đầu ửng đỏ, thai nghén một ngày mới trên trái đất xiết bao rực rỡ.
Những cuộc gặp gỡ cứ liên tiếp hết đêm này sang đêm khác, trừ những ngày Hằng phải làm thêm giờ hoặc cả hai gặp những cuộc họp thanh niên, phụ nữ của cả bên cơ quan của Hằng và bên địa phương của Dụng. Tất cả các cuộc gặp đều như không đủ dài để họ có thể ở bên nhau lâu hơn, nói với nhau nhiều hơn. Có lẽ cái ý nghĩ đêm hình như bị ngắn đi đều có ở trong tất cả những người đang yêu.
Bước tiến của bản thân trong công tác, cùng với tình yêu của Dụng trong những ngày qua như tiếp sức cho Hằng trong những ngày lao động vất vả, những ngày đạn bom khốc liệt. Mọi người ở bên cạnh cũng vui mừng cho họ và nhìn họ với sự khích lệ hết sức chân thành. Thời gian đã gắn kết họ lại đến mức có lẽ không gì có thể làm cho họ xa nhau được. Công việc khôi phục của tổ máy chỉ còn vài ngày nữa thì xong, ngày chia tay với Đại Khối càng lúc càng gần. Hai người tranh thủ gặp nhau thường xuyên hơn để nếu sau này có phải xa nhau cũng đỡ buồn, đỡ tiếc những ngày gần gũi.
Tất cả mọi đồ đạc Hằng đã gửi xe mang về Vồm từ mấy ngày hôm trước, hôm nay Hằng chỉ còn mỗi việc từ biệt gia đình và Dụng nữa mà thôi. Chia tay với bố mẹ Dụng xong là cả hai đứa đưa nhau về phía cuối làng để rồi từ đó Hằng sẽ đi tắt về Vồm. Cứ mỗi lần chào nhau xong lại thấy không thể rời nhau ra được. Nào là những hẹn hò xuống thăm vào ngày nọ, ngày kia lại đến bàn bạc về một kế hoạch nào đấy cho việc cưới xin vào năm tới. Chán các chuyện nghiêm chỉnh lại đến những trò hờn dỗi, nào là anh về vài bữa chắc lại quên mất, hoặc là mấy cô cơ quan lúc nào chả đẹp lại sạch sẽ, còn bọn con gái thôn quê làm sao theo kịp vân vân và vân vân…
Không hiểu thế nào mà mãi đến khi trăng lên rồi cặp trai gái vẫn còn ở gốc đa trên cánh đồng Đại Khối. Sau bao nhiêu là chuyện, cả hai người lại im lặng ngắm nhìn nhau, trên má Dụng ánh trăng soi rõ hai hàng nước mắt tràn trề làm cho Hằng cảm thấy hai bên cánh mũi cũng cay cay như muốn khóc. Nhìn Dụng lúc ấy sao mà thương yêu đến thế, không thể cầm lòng được nữa, Hằng ôm chặt lấy Dụng đặt lên lòng rồi hôn lên tất cả mọi chỗ trên khuôn mặt đẫm ướt.
Cũng như Hằng, Dụng ôm ghì chặt lấy người yêu như muốn áp toàn bộ thân thể của mình vào người yêu để cảm nhận tất cả những gì mà chỉ trong vài giờ nữa sẽ phải xa cách, không biết bao lâu mới gặp lại được. Trong một khoảnh khắc mềm yếu đến tột cùng làm cả hai người hầu như không còn nghĩ đến điều gì khác, họ hoàn toàn để mặc bản thân hoà vào sự kêu gọi của bản năng tự nhiên mà không hề muốn cưỡng lại.
Trong ánh sáng huyền ảo của trăng hạ tuần, cơ thể Dụng mềm mại và đẹp đến mức không bút nào tả hết được. Toàn thân của cô, cùng với tay chân cứ như những mảnh lụa biết cử động. Những đường viền rõ nét bao lấy mảng màu trắng mờ tuyệt vời nhất của thế gian. Nơi đẹp nhất, nơi cuốn hút nhất luôn réo gọi, luôn chờ đợi. Dụng đã muốn dâng hiến tất cả cho người yêu mà không có ý đòi hỏi một điều gì khác. Bàn tay của tình yêu đã đặt lên mọi chỗ trên bức tranh của tạo hoá với cảm xúc về sắc thái, về âm hưởng đến vô cùng, vô tận của tình yêu.
Tất cả chợt tan đi trong một giây phút rất đặc biệt, cùng với những lời lẽ thật dịu dàng sau một cái hôn dài ngang với cái hôn lần đầu của họ.
- Chúng mình sẽ là vợ chồng! Chúng mình sẽ có tất cả trong những ngày không xa nữa!
Nước mắt lại tràn ra trên khuôn mặt cô gái cùng với câu nói đứt đoạn:
- Em sẽ yêu anh mãi mãi!
Trong tất cả những tháng ngày đầy kỷ niệm, hình như đây là lần đầu tiên một trong hai người đã nói đến chữ yêu, đó là lời yêu duy nhất trong một lần yêu muôn đời không quên được…
Cuối năm đó chàng trai trở về nhà để chuẩn bị cho việc làm nhà, đồng thời chuẩn bị cho bước tiếp theo Bài ca tình yêu của mình. Cũng đã cố gắng hết sức nhà Hằng mới mua được một ngôi nhà tranh ba gian ở tận làng Thiên Hội. Cái nhà cũng chẳng tốt gì, mọi cái để nguyên thì còn, nếu dỡ ra thì chắc sẽ có nhiều cái hỏng. Rất nhiều cái kèo, cái cột đã ải mục dỡ ra là phải bỏ, vì vậy mà khi dựng lại ngôi nhà chỉ còn đủ được một gian với hai cái chái. Với cơ ngơi như vậy thật khó có thể nói đây là một gia đình có cuộc sống tốt đẹp. Điều này cũng chính là sự trở ngại về hoàn cảnh, khiến người con trai mong muốn có thêm một thời gian nữa để thu xếp ổn định đời sống trước khi xây dựng gia đình. Nhưng cậu có thể nói gì được trong lúc này và thế là lịch trình mà một nửa kia chờ đợi đã không được thoả mãn. Cũng chính từ đó phía đối tác đã hình thành những mối ngờ vực ngày một lớn hơn, không ai có thể thanh minh cho được và rồi Bài ca tình yêu hay tuyệt đã bất ngờ dừng lại sau một thời gian phô diễn tất cả những cái tuyệt mỹ trong phần mở đầu của nó.
Vào một ngày đầu tháng hai năm ấy người con gái đã đến gặp người con trai để mời tham dự chương trình Bài ca tình yêu mới của cô và rồi từ đó mọi dư âm của bài ca ngày cũ đã không bao giờ còn vang lên nữa. Lời yêu tắt lịm và chắc còn lâu mới có thể quay trở lại được.

                                                              4

Những ngày tháng buồn bã kéo dài hết ngày này sang ngày khác. Cho dù công việc đã cuốn đi hết cả thời gian nhưng chỉ cần ngơi ra lúc nào là những hình ảnh cũ chợt quay trở lại. Sự hể hả của bà mẹ, sự vui tươi của ông bố ở thời điểm đầu tiên tăng lên bao nhiêu thì cũng xẹp đi bấy nhiêu khi kết thúc buổi gặp mặt với chàng rể tương lai sau khi về quê ăn tết trở vào. Tất cả những câu hỏi từ xa đến gần về công việc cưới xin mà các cụ gợi ra đã không có được lấy một lời bày tỏ của chàng trai trẻ…
Cô ấy đã đi lấy chồng và cũng lại phải lấy chồng ở nơi thật xa bởi nếu không thì rồi có không biết bao nhiêu câu chuyện được thêu dệt ra và điều đó thật là bất lợi cho cô ấy. Chẳng có người phụ nữ nào dám đứng ra giữa một cộng đồng để nói rằng tôi vẫn còn trong trắng sau một tình yêu rực lửa mà tất cả mọi người đều đã nghe, đã biết.
Ai còn lạ gì cái sự yêu nhau của các cô, các cậu! Cái sự quyến luyến dễ làm cho người ta quên đi tất cả và rồi cái sự động chạm về thể xác chắc hẳn cũng phải xảy ra, ai mà chả thế! Thế rồi sự ngờ vực sẽ ngày một tăng lên, sự ngờ vực đâu chỉ có ở mấy người già, mấy cậu con trai trong làng, sự ngờ vực còn có thể ở chính ngay trong lòng của những người bạn gái thân nhất của cô. Tất nhiên là cô sợ, cô xấu hổ với mọi người, với bè bạn, cô không còn con đường nào khác.
Cho đến mãi về sau này chàng trai vẫn cứ tự trách  mình về sự ấu trĩ và sự sĩ diện hão của bản thân. Tại sao lại không thể nói cho cô ấy cùng gia đình của cô ấy biết về hoàn cảnh của mình? Tại sao lại không nói cho cô ấy cùng gia đình của cô ấy biết về cái sự cần thiết phải chờ đợi để cho cậu có thời gian củng cố đời sống gia đình? Tại sao cậu lại im lặng? Im lặng để rồi mọi cái đều tan nát cả?
Đã từ lâu cậu luôn tự hào về cái nghèo khó nhưng rất thanh cao của gia đình mình qua những việc làm của người cha trong thời cải cách. Vậy mà sao đến lúc này cậu lại không thể nói về điều đó cho họ nghe một cách vô tư được. Có lẽ là cậu đã nhận ra sự chờ đợi của cả cô gái và gia đình của cô về mối lương duyên này với hy vọng về một cuộc sống mới ở nơi thủ đô với những gì mà một số người thân của họ có được khi họ nhìn thấy những người đó trong những ngày về phép. Cậu nghĩ rằng cậu không có quyền làm tắt đi những hy vọng của họ và cậu cũng không thể đang tâm để mà làm tắt đi sự hy vọng đó khi cậu nói cho họ hiểu rằng gia đình của cậu còn khó khăn hơn họ đến mấy lần. Có thể nói một cách chính xác rằng ở vào thời điểm ấy cậu vẫn chưa đủ bản lĩnh để hiểu thấu đáo về những điều mà người cha của cậu đã làm. Sự thiếu tự tin trước một quan niệm đã bắt cậu phải trả giá cho việc mất đi mối tình đầu để rồi nhiều năm sau trong lòng vẫn day dứt khôn nguôi...
Đơn vị lại bước vào một đợt sửa chữa mới được nhà máy giao cho, đó là việc khôi phục phân xưởng Trung tâm. Lần công tác này đơn vị không đóng ở làng Đại Khối nữa mà chuyển về làng Định Hoà. Làng Đại Khối bây giờ có thêm hai lực lượng công nhân của Đoạn đường sắt phía Nam đến đóng quân tại đó. Khối công nhân đường sắt đóng ở đó gồm có Đại đội 315 biên chế toàn các thanh niên để làm các công việc nặng và Đại đội 324 lại biên chế toàn là nữ để làm các công việc nhẹ hơn.
Hàng ngày các tốp công nhân này vẫn đi từ Đại Khối qua ven làng Định Hoà để xuống khu ga Thanh Hoá phục hồi và sửa chữa các đoạn đường sắt bị hư hỏng. Thường thì họ làm suốt cả ngày đến tối mới trở về nhà. Mỗi lần đi qua làng Định Hoà họ vẫn cứ hay cất lên vài câu hò để trêu mấy chàng thanh niên của nhà máy điện.
Số công nhân nhà máy điện đóng ở Định Hoà cũng khá đông, đa số đều là các chàng trai chưa vợ và cũng khá lịch duyệt. Rất nhiều người có tài lẻ về thơ ca, hò  hát như Thanh ở phố Lò Đúc Hà Nội, Vĩ ở Vũ Thư, Thái Bình vv… đều là những cây đơn ca của nhà máy trong các kỳ hội diễn Quân khu Ba, hội diễn tỉnh và cả của nhà máy nữa. Các chàng trai này đa số đều đã có người yêu nhưng thấy các cô hò ghẹo nhiều lần thì các chàng trai này cũng cứ hò đối cho vui mà thôi. Thường thì mở đầu các câu hò khá hay nhưng càng về cuối thì những câu hò thường hay đi vào sự trêu cợt chọc tức lẫn nhau, thậm chí còn có cả những câu hò khá cợt nhả cùng những câu hò chửi bới khá thô tục, tuy vậy nhưng chỉ sau buổi hôm ấy rồi các chàng trai lại lãng quên ngay. Vậy nhưng các cô gái thì không quên đâu, có đến mấy ngày sau họ còn dò tìm xem cái thằng cha nào hôm trước hò ngoa ngoắt thế không biết.
Từ khi chia tay với Dụng, Hằng đã tự đặt ra cho mình là phải phấn đấu làm sao để cùng với mẹ lo củng cố gia đình để nâng cao kinh tế lên rồi mới lo đến chuyện vợ con. Chính vì thế mà cũng có khối cô gái ở các đơn vị trong nhà máy và cả ở các địa phương Hằng đến trọ đã để ý đến, Hằng vẫn làm ngơ như không biết. Thực ra Hằng cũng đã rút ra được bài học từ lần yêu trước, nên không đến mức sợ yêu. Cái chính là tất cả những cô gái có ý tứ lại không hợp với con mắt của Hằng, mặc dù với mọi người thì các cô gái được đánh giá là “sạch nước cản”.
Có lẽ Hằng cũng là một người mang tính cực đoan bởi rất nhiều người cho rằng một cô gái nào đó là rất đẹp thì Hằng lại không tán thành. Không phải là Hằng hoàn toàn phủ nhận, nhận định của mọi người nhưng những cô gái đẹp sắc xảo một chút Hằng đều không ưa lắm. Trong con mắt của Hằng thì ít nhất là cô gái ấy phải có sự hiền lành, nhu mì, ít nói, tất nhiên là phải không xấu lắm. Nói một cách khác là cô gái ấy phải có duyên, dễ gần, dễ mến. Hằng thường nghĩ những cô gái như thế sẽ đối xử tốt với chồng và cả với bà mẹ một đời gian nan vất vả của Hằng. Như thế có lẽ cũng là có sự kén chọn chứ không đến mức thế nào cũng được. Tuy nghĩ ra thì nhiều nhưng làm thì không hẳn đã theo được mấy và đấy cũng là nguyên cớ để có cuộc tình tiếp theo với rất nhiều kỷ niệm.
Mặt trời đã lặn sau những vòm cây của những làng xóm mờ xa ở phía tây. Màu hồng vẫn còn hắt lên bầu trời một quầng sáng khá rộng. Vừa thập thững đi dọc con đường ra cánh đồng của làng Định Hoà vừa chúi mắt vào cuốn tiểu thuyết Ruồi Trâu trên tay thì cậu giật nảy mình vì những câu chào rõ to của một toán con gái bịt mặt bằng những chiếc khăn bông lớn. Chẳng khó gì mà không nhận ra các cô ấy là những công nhân đường sắt. Có lẽ các cô ấy vẫn bực mình vì trận hò thua mấy cậu công nhân trọ bên nhà bà Sinh chiều qua. Cậy đông và lại được các tấm khăn che kín mặt nên các cô đồng thanh chào rõ to có ý làm giật mình cho bõ tức. Nhưng rồi các cô ấy cũng nhận ra là cái anh chàng này không phải là người vẫn hò trêu cợt cùng các cô nên cô nào cô nấy đều tỏ ra khép nép và có ý hối hận về việc làm của mình.
Hằng miễn cưỡng chào lại rồi lại tiếp tục cúi mặt vào những trang sách. Chưa kịp tìm ra dấu dòng vừa đọc lại thấy các cô gái hỏi tiếp:
- Có phải anh ở ngôi nhà đầu làng kia không ạ?
- Vâng! Tôi ở ngôi nhà đầu tiên ấy.
- Có mấy anh ở đấy hò hay thế không biết?
- À! Thế có lẽ các cô là những người vẫn hò mấy buổi tối hôm trước đấy hả? Thế tối nay có hò nữa không?
- Anh hò với chúng em nhé?
- Được thôi, nhưng mà tôi hò kém lắm với lại không đối đáp được các cô như mấy cậu ấy đâu!
- Chúng em cũng kém như anh thôi!
- Không! Tôi cũng đã nghe các cô hò buổi tối hôm kia rồi! Dữ quá!
Một cô gái mở đầu bằng một câu hò nói về tình yêu bằng chất giọng miền trong thật cao và ấm. Hằng cũng hò đáp lại bằng một câu hò nói về tình yêu vận ra từ một bài hát dân ca. Tất cả các cô đều ồ lên khen hay và ấm. Hò đi, hò lại đối nhau đến bốn năm câu thì trời tối hẳn, các cô xin phép ra về để còn tắm giặt. Cả bọn líu ríu hỏi tên và hò hẹn đến chơi.
Một buổi tối đầu tháng không có trăng sao, Dậu là quân của đại đội 315 quê ở thành phố Nam Định mà Hằng và Ngữ quen từ hồi trong năm đã dẫn đường sang thăm mấy cô gái vừa làm quen hôm trước. Nói là quen biết nhưng khi đến nơi thì chỉ có các cô ấy biết mình chứ còn mình thì lại chẳng biết ai cả vì mình chỉ gặp hình dáng còn khuôn mặt thì chưa lần nào nhìn được bởi những chiếc khăn che kín mít. Cũng phải nói chuyện một lúc thì rồi mới nhận được người quen. Người quen của Ngữ là cô Tuyến cán bộ đoàn thanh niên của đơn vị, còn cô gái có giọng nói miền trong mà Hằng hò đối hôm trước là cô tiểu đội trưởng Hằng Trường.

                                                         5

Trường cứng tuổi hơn các cô khác, khuôn mặt không xinh lắm nhưng có duyên. Vầng trán rộng làm cho cô có cái nét mặt của sự thông minh hơn là sự duyên dáng. Trường hình như cũng đã yêu một người nào đó trong đơn vị, đó là Hằng suy đoán vậy thôi. Không biết mấy cô gái trong nhóm có biết hay không mà vẫn cứ gán ghép Trường với Hằng bằng cái tên ghép của Trường, còn Trường thì chỉ cười như không có chuyện gì xảy ra.
Trong khoảng thời gian buổi tối đầu tiên chủ yếu là những câu chuyện hội đồng giữa tất cả mọi người. Chỉ thỉnh thoảng mới có một cặp nói chuyện riêng với nhau tranh thủ khi những câu chuyện tập thể bị lắng xuống. Dù sao thì mỗi chàng trai đến với những cô gái không ai là không quan sát để tìm cho mình một khuôn mặt mà mình ưng ý, Hằng cũng không phải là trường hợp ngoại lệ.
Những cuộc thăm nhau qua lại trong cả tháng trời cùng với những cuộc đưa tiễn sau mỗi lần đến thăm kéo dài đến cả tiếng đồng hồ trong đêm tối làm cho mỗi người thấy thân mật hơn lên. Mặc dù sự quen biết ở đây là sự quen biết của cả một nhóm nhưng rồi không hiểu thế nào chỉ trong một thời gian rất ngắn đã  hình thành ra từng cặp một. Cặp đôi Hằng và Trường cũng có vẻ gắn bó nhưng nếu quan sát kỹ người ta vẫn nhận ra giữa hai người có cái gì đó vẫn còn chút miễn cưỡng.
Từ trong sâu thẳm tâm hồn của chàng trai, mối tình cũ cùng với những kỷ niệm cứ luôn trở lại réo gọi. Còn với cô gái thì luôn bâng khuâng về hai hình ảnh đang cùng lúc lướt qua trong trí não đòi hỏi phải mau có một quyết định nhận cái nào và bỏ cái nào, còn bản thân cô thì lại cứ phân vân không tự quyết nổi. Cũng giống như một người đi đường nhìn thấy hai con cá lớn đang rạch về hai phía, muốn bắt nhưng chưa biết nên bắt con nào trong khi chỉ còn một vài cái quẫy đuôi nữa là cả hai con cá sẽ trườn xuống lòng mương mất.
Trong một lần Hằng đến chơi thì Trường lại bận đi họp, người đón tiếp Hằng là một cô bé người thấp nhỏ nhưng da trắng và đặc biệt là có đôi mắt ươn ướt tựa như biết nói, hình như cô nói bằng mắt hơn là nói bằng lời. Trong một khoảng thời gian ngắn nhưng Hằng cũng đã khai thác được một số nét về gia đình và về bản thân cô ấy.
Quê nhà cô ở một làng chài ven biển của huyện Hậu Lộc. Nhà cô ở cách bờ biển không quá một trăm mét nhưng lại không sống bằng nghề đi biển đánh cá. Ông bố cô có nghề cắt thuốc chữa bệnh bằng các vị thuốc Nam, mẹ cô và em gái thì làm ở hợp tác xã nông nghiệp. Vừa mới qua tuổi thiếu niên là cô đã xin đi thanh niên xung phong và được bố trí vào đại đội 324 tổng đội đường sắt phía Nam.
Câu chuyện của hai người hầu hết là những câu hỏi và những câu trả lời của cả hai người kéo dài đến cả tiếng đồng hồ nhưng rồi cũng đã đến lúc dần cạn. Ngồi chờ đợi Trường lâu quá làm Hằng cảm thấy ngại, thế là Hằng đứng lên chào mọi người để ra về. Sau khi giữ khách lại không được cô gái đành phải đi theo để tiễn khách thay. Quãng đường đi tiễn đã dài mà hình như cô gái ấy vẫn chưa tỏ vẻ muốn chia tay với ông khách của bạn. Cũng đã mấy lần ông khách dừng lại bởi đoạn đường đã dài quá rồi nhưng người đi tiễn hình như không để ý đến điều đó. Cũng chỉ còn vài bước chân nữa là đã đến gốc gạo ở giữa cánh đồng của hai làng, có nghĩa là đã đến điểm chia đôi khoảng đường từ nhà chủ đến nhà khách. Sau khi cả hai người đã ngồi lại bên gốc gạo đến gần nửa giờ thì khách đành nhắc chủ chia tay. Thế là khách lại phải tiễn chủ quay trở lại.
Cô gái thay Trường tiếp khách cũng là một người trong nhóm quen biết ngay từ buổi ban đầu, cô có tên là Nghi, một cái tên rất hiếm gặp ở ngoài đời, ở cô hầu như không thấy có gì là sự khách sáo. Những câu chuyện của cô có cái gì đó rất tự nhiên và thân mật, tiếp xúc với cô, Hằng thấy giống như tiếp xúc với một người cùng làng. Sau lần thay bạn tiếp khách ấy cô còn phải thay bạn tiếp khách đến vài ba lần nữa vì Trường hay phải đi công tác xa đơn vị, còn ở nhà thì rất hay bận họp. Cuối cùng vỡ lẽ ra là Trường luôn bị khống chế để phải bận khi có khách đến chơi thông qua một cán bộ cấp trên đã để ý đến Trường.
Thực ra thì cả hai người cũng chưa có sự gắn bó nào mà chỉ mới cảm thấy mến nhau mà thôi, nên việc rời xa nhau cũng không đến nỗi khó khăn lắm, người này thì không muốn làm cho người kia phải khó khăn trong công tác, còn người kia thì lại cũng không muốn gặp trở ngại trong việc giao tiếp với người bên trên để còn có điều kiện phát triển bản thân. Có một điều đáng nói ở chàng trai là anh ta chỉ muốn có một người khả dĩ thay thế người con gái vừa tuột khỏi tay mình để rồi mau chóng quên đi mối tình cũ, nên khi thấy mối quan hệ mới có vẻ phức tạp như thế thì cũng thấy nản. Hơn nữa bên cạnh lại đã có một người mới thay thế nên cái sự rời bỏ cũng không khó khăn gì.
Hình như trong lĩnh vực tình yêu người con gái không bao giờ chủ động ngỏ lời trước nhưng một khi đã quen nhau rồi thì họ lại rất khéo dẫn dắt đối tác đi theo quỹ đạo của họ. Còn các chàng trai thì cứ tưởng đấy là chương trình do mình đặt ra, thế rồi lao theo một cách hết sức nhiệt tình. Nhiều khi còn tự hào cho rằng mình là người chiến thắng oanh liệt, kỳ thực thì họ là người luôn bị dắt mũi và chịu những thất bại ê chề. Mặc dù cố giữ trạng thái quan hệ bạn bè trong một thời gian khá dài nhưng rồi việc gì đến sẽ vẫn phải đến. Quan hệ của hai người đã có bước phát triển khác so với ý định ban đầu. Các cô bạn trong đơn vị đã không còn gán ghép Hằng với cô Trường nữa, họ đã nhận ra sự thay đổi đối tượng của cặp bạn này.
Cũng trong thời gian này quân Mỹ đã ngừng đánh phá miền Bắc. Khối công nhân sửa chữa thiết bị lò máy của nhà máy điện đã được chuyển về khu Lán ổi để đi lại cho nó gần. Những đội viên của 324 cũng được phân công đi sâu vào phía Nam. Từng bộ phận nhỏ được chuyển về các ga kéo dài từ ga Thanh Hoá vào đến ga Vinh và xa hơn nữa như ga Đồng Hới của tỉnh Quảng Bình. Công việc của họ là khôi phục nhanh các ga để thông tuyến đường sắt vận chuyển của cải, phương tiện từ ngoài Bắc vào giúp cho công việc xây dựng lại các địa phương đã bị tàn phá trong chiến tranh. Chuyên chở các phương tiện quân sự và các đơn vị quân đội bổ sung cho chiến trường miền Nam tiếp tục công cuộc giải phóng đất nước, thống nhất tổ quốc.
Bộ phận của Nghi cũng được chuyển đến ga Minh Khôi vừa để sửa chữa nhà ga và sửa chữa các cung đường kế tiếp các bộ phận khác. Sau mỗi tuần làm việc Nghi lại theo tầu về thăm người yêu vào các buổi chiều thứ bẩy và rồi lại theo tàu vào Minh Khôi vào các chiều chủ nhật. Những bữa cơm tập đoàn độn ngô cùng với một chút thức ăn mua thêm để cải thiện cùng với mấy người bạn nhưng vẫn rôm rả không kém những đợt đi ăn cơm tiệm ở Hà Nội. Những buổi tối dạo chơi trên những bờ đê đẫm sương hoà trộn với hương lúa đồng thơm ngát cùng với bao nhiêu những dự định về cuộc sống ngày mai sau mỗi tuần làm việc càng làm cho tình yêu của họ ngày càng đằm thắm. Một ngày nào đó người chồng sẽ vẫn cứ làm công nhân của nhà máy điện, còn người vợ sẽ làm việc ở một nhà ga nào đó, để rồi cuối tuần lại trở về gặp nhau với những bữa cơm gia đình giống như các anh, chị trong đơn vị mà hai người vẫn đến thăm hàng ngày. Sau khoảng thời gian quan hệ cùng nhau hai người đã bàn nhau tiếp cận hơn nữa về phía gia đình và một ngày hạ tuần tháng ba họ đã quyết định cùng về thăm nhà cô gái.
Làng chài Minh Đức xã Minh Lộc cũng như bao nhiêu làng quê ven biển trên khắp nước Việt Nam, cũng có bãi biển toàn cát trắng cùng với những hàng phi lao chắn sóng trồng thành những hàng đều nhau chaỵ dọc theo bờ biển. Những mái nhà ngói chen lẫn những mái nhà lợp lá kè ngày đêm toả khói giữ nhịp sống cho bao gia đình người dân đất Việt. Những ông già, bà già nước da nâu bóng đi lại mạnh mẽ trên bãi cát từ sớm đến chiều say sưa làm việc. Người thì giăng phơi các vàng lưới cắm cúi vá những chỗ lưới bị thủng, người thì đan sửa lại các thúng sọt để đón cá về vào các buổi chiều.
Người nhà cô gái đón bạn trai của cô hết sức vui vẻ và nhiệt tình, ông bố thì nheo mắt ngắm nghía chàng thanh niên khá kỹ suốt từ đầu đến chân rồi vào nhà pha nước, còn bà mẹ và cô em gái thì ríu rít mời chàng trai vào nhà, cả bà chị gái lấy chồng ở nhà kế bên cũng vội vã sang chơi. Sau khi cô gái dẫn bạn ra giếng rửa chân tay mặt mũi xong vừa vào đến nhà là hàng loạt các câu hỏi thăm nom với đủ các lĩnh vực. Từ công việc làm ăn đến hoàn cảnh gia đình rồi thì đến có bao nhiêu anh em cô bác, chàng trai chưa kịp trả lời xong người này đã lại phải trả lời sang người khác. Cuối cùng thì cũng đến lượt cậu hỏi lại những người trong gia đình, từ công việc làm ăn hàng ngày đến bà con họ hàng xóm láng. Đến khi hỏi đến công việc của ông bố thì cậu đành phải ngồi im để nghe ông kể về việc chữa bệnh của ông. Ông cụ kể ra rất nhiều những con bệnh mà ông đã chữa khỏi. Hết kể về con bệnh ông lại kể về cách sử dụng các cây thuốc, trong câu chuyện của ông có cái say nghề của một người luôn coi công việc mà mình đang làm như là một lý tưởng của cả cuộc đời.
Câu chuyện hàn huyên đang còn rất sôi nổi thì người nhà đã dọn cơm chiều. Cơm nước xong thì Nghi dẫn bạn trai sang nhà chị gái lấy chồng ở nhà kế bên chơi. Chị gái của Nghi tên là Thuận lấy chồng là bộ đội hiện đang tại ngũ, anh chị đã có hai con nhỏ. Tuy chị chỉ có một mình nhưng chị làm ăn khá giỏi so với nhiều người khác. Hàng đêm chị đi đánh moi ngoài biển đến khuya mới về nhà. Chị nói chuyện chả khác Nghi là mấy, thẳng thắn và không cần khách sáo. Trong lúc Nghi đang chơi với các cháu ở ngoài sân, chị nói chị sẽ có quà cho hai người khi hai người tổ chức cưới. Vừa nghe đến đây Hằng chợt giật mình không biết nói thế nào, trong bụng thầm trách Nghi đã nói chuyện này với gia đình quá sớm.
Vừa về đến nhà hai người cũng gặp ông bố vừa đi làm thuốc về, ông lại tiếp tục kể về công việc chữa bệnh của ông cho cả hai người cùng nghe. Từ cách chữa bệnh cho phụ nữ, trẻ em đến chữa các bệnh đậu mùa, bệnh bỏng nước, bỏng lửa. Ngừng một lúc ông cất cao giọng:
- Chả biết gì chứ lấy con gái tao thì chắc là vớ được cả mớ những sẹo bỏng ở mông đít.
Nghe xong câu nói này của ông cụ chàng trai thấy nóng bừng cả người và không còn biết nói sao nữa, cũng may mà trời đã bắt đầu nhá nhem tối nên chắc ông cụ cũng không thấy khuôn mặt ngượng ngập của cậu. Trời tối hẳn, trong nhà đã bắt đầu lên đèn, hai người xin phép ông bố để đi ra chơi ngoài bãi biển. Hai người đi ra đến cổng mới nghe ông bố dặn với ra:
- Nhớ về sớm đấy nhé!
- Vâng!
Cô gái cất giọng khá to trả lời ông cụ khi đã bước ra khỏi cổng nhà.
Cũng chả phải đi đâu xa xôi bởi sau hàng phi lao cạnh nhà đã là bãi cát vừa phẳng, vừa rộng. Từ hàng phi lao ra tới mép nước biển cách xa đến gần nửa cây số, thoải mái cho hai người đi dạo. Ra đến sát mép nước thì trời đã tối, hai người cầm tay nhau đi dọc theo mép nước biển trong màn đêm mờ sáng ánh sao. Đi chán rồi lại ngồi cạnh nhau trên bãi cát cùng nhìn ra mặt nước nghe từng đợt sóng biển ộp oạp vỗ vào bờ cát. Giữa khoảng không gian đầy thơ mộng được bóng đêm che phủ không có cặp tình nhân nào không tranh thủ để mà thổ lộ tình cảm, để mà âu yếm lẫn nhau. Tay trong tay, mặt kề mặt, hai thân thể nóng bỏng khao khát áp chặt vào nhau, những cái hôn dài tưởng như không dứt. Những nét thân thuộc trên cơ thể của nhau lại có dịp được tìm lại sau những ngày xa cách. Bầu trời, mặt biển, bờ cát cùng những vì sao thêm một lần chứng kiến tình yêu cháy bỏng của đôi trai gái.
Họ đã ngồi với nhau như thế rất lâu, rất lâu. Thời gian như ngừng trôi, vũ trụ như ngừng quay và tất cả mọi người trên trái đất hình như đã ngủ say hết để cho đôi người của họ thổ lộ cùng nhau lời yêu tha thiết nhất.  Phía đông đã hơi ánh lên chút ánh sáng tựa hồ như từ nơi ấy sắp có một điều gì đó kỳ lạ sắp xảy ra. Cũng đúng lúc ấy từ ngoài khơi xa có một rền vang giống như tiếng rền của sấm. Nghi giật mình vội đứng dậy kéo tay người yêu chạy vội vào bờ phi lao. Chàng trai thật sự bất ngờ không hiểu gì cả nhưng khi thấy người yêu kéo chạy thì chàng trai cũng chạy theo như một phản ứng dây chuyền vậy. Vừa chạy chàng trai vừa ngoái lại đằng sau thì thấy nước biển đã dâng lên đuổi sát theo chân của hai người. Vừa lúc hai người ngã nhào vào bờ phi lao thì nước biển cũng đã ngập bàn chân. Thì ra tiếng sấm rền vừa rồi là tín hiệu mở đầu cho những đợt thuỷ triều ở những vùng biển mà chàng trai “đường nhựa” không biết.
                 
                                        QUÂN NGŨ

                                                   1

          Tất cả những dự định tiếp theo của cặp trai gái chắc chắn đã có thể thực hiện được nếu như không có một sự kiện đặc biệt đã xảy ra, có lẽ đó là số phận đã xui lên như vậy. Chỉ mới qua cuộc thăm nhau nhân ngày chủ nhật chưa đầy nửa tháng thì Hằng nhận được quyết định gọi nhập ngũ của ban quân sự tỉnh. Đợt tuyển quân lần này gấp rút đến mức các quân nhân không có điều kiện được về nhà chia tay với gia đình mà phải tập trung ngay về các đơn vị huấn luyện. Trừ những quân nhân quê ở Thanh Hoá thì còn có thể kịp nhắn cho gia đình và bè bạn đến để đi tiễn. Còn Hằng và một số anh em quê ở ngoại tỉnh thì chỉ có chính mình tiễn mình lên đường vào quân ngũ.
          Những ngày tháng quân ngũ khép kín với những buổi tập tành, học họp cứ kế tiếp qua đi. Thời gian quân ngũ đã dài gần bốn tháng mà Hằng cũng chẳng viết thư cho ai trừ một lá thư gửi về cho mẹ. Trong những năm sống trên đất lửa Hàm Rồng, Hằng đã nhận ra sự khốc liệt của chiến tranh. Những năm tháng sắp tới mình cũng sẽ vào cuộc như rất nhiều những chiến sỹ phòng không đã từng sát cánh cùng mình trong những trận chiến đấu đầy hy sinh gian khổ. Những năm tháng chiến tranh sẽ còn rất dài, tất cả những người chiến sĩ sẽ chỉ có thể ra về khi chiến tranh kết thúc hoặc bản thân họ bị thương tích đến mức không còn tiếp tục chiến đấu được nữa như những thương binh trong các trại mà Hằng đã có lần được gặp. Những người liên quan đến mình rồi đây sẽ ra sao khi mình là một người tàn phế, hoặc mình là người sẽ hy sinh không bao giờ còn có thể trở về được nữa. Những chị Hả, chị Thục ở quê mình, những chị Thuận của nhà Nghi sẽ cô đơn cho đến hết cuộc đời, mỗi lần nhìn thấy họ mà lòng lại nao nao khôn tả. Chả lẽ mình rồi sẽ lại là một trong những người đàn ông như những người đàn ông của chị Hả, chị Thục và chị Thuận mãi mãi không bao giờ trở về nữa. Mình có nên để cho những người thân yêu của mình phải chịu sự bất hạnh mà mình đã quá biết, quá hiểu này không?
          Tuy vậy đôi khi nghĩ đến mẹ, Hằng lại thấy hình như mình có lỗi khi quyết định sự việc theo cách nghĩ này. Chắc chẳng có người mẹ nào lại không mong muốn mình có con, có cháu để cho chúng kế tục cái sự nghiệp mà bản thân họ cả một đời nhịn ăn, nhịn mặc, đổ mồ hôi công sức để gây dựng lên. Huống chi trên đời này cũng đã có hàng vạn người phụ nữ có hoàn cảnh như vậy mà họ có ta thán gì đâu. Có lẽ mình cũng nên có một đứa con cho dù bằng cách nào cũng được miễn là người ấy có thể chấp nhận. Cho đến cuối cùng thì cái lý lẽ không nên làm cho người khác bị đau khổ đã thắng thế. Hằng đã quyết không báo tin cho Nghi nữa. Sự đời đâu có theo ý của riêng mình, cái mình muốn nhiều khi tự nhiên vẫn bị thay đổi bởi nhiều nguyên nhân ngẫu nhiên, ngẫu nhiên đến không thể tượng tượng nổi.
Cũng không biết tiểu đoàn làm thế nào mà lại được phân phối một con trâu khá to làm thực phẩm. Sáng ấy Hằng được cử lên tiểu đoàn để phối hợp với các đơn vị khác làm thịt xong rồi nhận thịt tiêu chuẩn mang về đơn vị. Ăn thịt trâu thì có lẽ đa số mọi người đã từng, nhưng làm thịt trâu thì số anh em tập trung ở đây chả có ai đã từng trải qua. Làm sao để cho con trâu ngã ra, chết ngất đi thì mới dễ dàng cắt cổ lấy tiết và rồi mới có thể mổ bụng, bỏ lòng ruột ra rồi cắt thịt chia cho mọi người được. Mỗi người đề xuất một kiểu cho đến cuối cùng thì đi đến kết luận là cần phải lấy cái gì đó thật nặng để đập vào đầu cho nó ngã ra. Nói thì thế nhưng rồi hết anh này thay anh khác bổ vào đầu trâu đến vài chục nhát búa chim mà nó vẫn không chịu chết. Không những thế nó còn tự dứt đứt mũi của mình ra rồi cứ nghênh cặp sừng theo hướng các “chuyên gia” thịt trâu để mà húc làm cho các “chuyên gia” này không dám tiếp cận nó nữa. Cũng may khi trước đã buộc vào chân nó một sợi dây chão chứ không thì nó đã phóng đi mất và rồi cả tiểu đoàn sẽ phải nhịn món thịt trâu đã ở trong tầm miệng. Cuối cùng thì anh cán bộ quân giới của tiểu đoàn đề xuất là nên dùng súng để bắn cho nó chết, chỉ cần có người nào dám bắn là được. Nhìn lướt qua một lượt thì thấy đa số các cậu đều là học sinh mới vào quân ngũ và cũng chưa được một lần bắn súng, cuối cùng thì ông anh Hằng là người nhiều tuổi nhất lại đã tham gia bắn máy bay rồi phải làm nhiệm vụ bắn trâu. Sau bốn năm lần kê súng vào đầu trâu rồi mà vẫn không bắn được. Khi thì hướng đạn vào nhà dân, khi thì đầu trâu cứ ngoảy đi, ngoảy lại không làm sao bắn được. Cuối cùng thì cũng tìm ra được quy luật ngoảy đầu của nó để rồi dùng phương pháp bắn đón mới xong. Sau tiếng nổ đanh khô khốc con trâu hung hãn thế mà rồi cũng từ từ khuỵu xuống.
          Chia xong thịt thì cũng đã gần một giờ chiều đang định gánh thịt về thì Hằng nghe thấy có người tìm mình. Đang còn nghến cổ về hướng đại đội thì đã nghe có tiếng của Lệ gọi ở phía sau.
          - Thế nào xong chưa? Về ngay có khách!
          - Vớ vẩn! Tớ thì làm sao có thể có khách được! Vì tớ có cho ai biết đâu mà có người đến thăm!
          - Thôi cứ về rồi khắc biết.
          Cũng may là Lệ đi sang bằng xe đạp thế là cậu ta  chở hộ thịt trâu để cho Hằng đi bộ lững thững đằng sau. Bộ quân phục bằng vải chéo Triều Tiên xổ lông của Hằng dính đầy các loại mỡ màng Hằng cũng mặc kệ chả cần chấn chỉnh làm gì, bởi Hằng nghĩ là Lệ trêu mình vậy thôi. Mãi đến khi về gần đến nhà trọ thì Hằng nhận ra cô gái đang đứng chờ bên hàng rào ô rô đúng là Nghi. Làm sao cô ấy biết mình ở đây mà đến được thế nhỉ? Hay là Lệ quen cô ấy từ trước và Lệ cho cô ấy biết? Sau một hồi đoán già đoán non mà chả đi đến đâu đã làm Hằng nhận ra rằng cái việc cô ấy nhờ đâu mà biết địa chỉ bây giờ đã không cần để ý đến nữa, điều cần nghĩ là bây giờ mình sẽ phải đối xử thế nào với cô ấy trong khi mình đã đặt ra kế hoạch bí mật từ giã để cho cô ấy quên mình đi, để rồi cô ấy sẽ tự tìm lấy cho mình một người đàn ông khác. Cuối cùng thì việc Nghi biết được địa chỉ đóng quân để có thể đến thăm là do cô bạn của Lệ mà Nghi đã gặp được trong khi trở lại khu công nhân của nhà máy điện để tìm gặp người yêu. Nghi đã đến người anh kết nghĩa mượn xe để chở cô bạn của Lệ cùng đi.
          Chỉ bằng quá trình trở đi, trở lại không biết bao nhiêu lượt từ nơi công tác đến đơn vị của người yêu rồi lại lần dò để có được địa chỉ rồi đến được nơi người yêu ở đã làm cho chàng trai xúc động và thương biết chừng nào. Chỉ tiếc rằng khi ấy lại ở thời điểm ban ngày, rất nhiều bà con trong xóm và đồng đội đang chia vui nên chàng trai không thể ôm lấy cô gái của mình để rồi không rời ra nữa. Tất cả những suy nghĩ từ bấy lâu nay đã bị xoá hết để trở lại tình yêu và tình thương tha thiết như những ngày nào.
          Có lẽ trong thời gian chờ đợi người yêu Nghi đã kể chuyện của hai người cho các anh trong ban chỉ huy nghe nên đơn vị đã cho Hằng được miễn công tác và các phiên gác từ chiều hôm đó đến hết ngày hôm sau. Từ lúc gặp nhau cho đến buổi tối hôm đó hai người đã ở bên nhau, câu chuyện của họ vẫn như ngày chàng trai còn ở ngoài dân sự. Chàng trai vẫn chờ cô gái trách móc về sự ra đi mà không cho mình biết để đến nỗi mình phải đi tìm vất vả nhường ấy, nhưng trong suốt thời gian gặp nhau cô ấy hình như không có một lời trách móc nào. Đến lúc ấy chàng trai mới hiểu người bạn gái của mình thật là một người có nghị lực và có lòng vị tha to lớn. Với một trái tim như thế, tấm lòng như thế thật khó có thể tìm được người thứ hai. Tại sao mình lại không để lại cho cô ấy một chút kỷ niệm như mình đã nghĩ tới. Chỉ cần một lá thư giới thiệu chắc mẹ mình sẽ chấp nhận cô ấy. Mình hiểu mẹ qua rất nhiều việc mẹ đã làm, từ việc cụ nhận nuôi người chị gái mà cụ nhặt được trên đường tản cư trong lúc bản thân cụ cũng phải lo kiếm ăn từng bữa, đến việc nuôi nấng bao nhiêu đứa cháu cho người em họ của chồng, rồi còn biết bao những cái tốt trong cư xử  đối với mọi người trong họ nhà chồng cho thấy cụ có thừa tấm lòng rộng mở nhất là mình lại có thư giới thiệu rằng đây là dâu, là cháu của cụ.
          Buổi tối gặp nhau sau gần bốn tháng càng làm cho cặp tình nhân khao khát hơn cả trong những ngày tháng trước đó. Họ ở bên nhau và quện chặt vào nhau, sao mà vui đến thế, sao mà đẹp đến thế nhưng cũng thật đáng thương bởi chỉ sớm mai đây họ lại phải chia tay nhau không biết đến bao giờ gặp lại, hoặc cũng có khi họ không bao giờ còn gặp được nhau nữa.
          Chỉ còn một nửa của đêm nay nữa thôi, từ phía cô gái dường như tất cả cũng đã rất sẵn sàng và những quyết định mới nhất của chàng trai sẽ được thực hiện trong những giờ phút sắp tới. Đêm lặng lẽ trôi để dần mất đi khoảng thời gian quý báu nhất mà hai người có được, sự quyết định sao mà vẫn khó khăn đến thế… Điều gì đã ngăn trở họ có nhau, điều gì đã ngăn trở họ làm cho nhau thoả mãn cả về những đòi hỏi bản năng lẫn những đòi hỏi về trách nhiệm của một con người trong việc duy trì nòi giống, duy trì dòng họ và duy trì phiên bản của chính họ trên cõi đời này? Xin tất cả mọi người đừng bao giờ trả lời cho những câu hỏi vừa rồi. Bởi tất cả mọi câu trả lời đều sẽ là rất khập khiễng và rất giáo điều.
          Họ chia tay vào buổi sáng hôm sau với bao lưu luyến không nói được thành lời. Người con gái thật là buồn thảm, còn người con trai thì cũng chẳng hơn gì, mặc dù chàng trai đã cố gắng để không đến nỗi quá buồn trên nét mặt, nhưng bên trong thì tựa như tất cả đang rớm lệ. Nhưng dù sao thì chàng trai cũng đã chiến thắng được chính mình, nung nấu thêm cái quyết tâm quên mình cho những người mình thương yêu nhất.  
                                                             2

          Vào những ngày cuối tháng chín năm 1970 đơn vị bắt đầu làm công tác chuyển quân từ khung huấn luyện sang cho các đơn vị mới. Toàn đơn vị lúc này đang tập kết tại khu vực Đồng Nẻ địa điểm cũ của cơ quan nông trường bộ, nông trường Yên Mỹ. Những buổi học tập chính trị kéo dài đến cả tuần, nào là nghe nói chuyện về tình hình, nhiệm vụ mới, tình hình chống Mỹ ngày một lan rộng trên thế giới, tình hình chiến sự miền Nam cùng với những con số rất cụ thể. Rồi thì  những thành tích trong xây dựng hợp tác xã nông nghiệp ở miền Bắc, phong trào tất cả vì miền Nam ruột thịt,  tất cả để chiến thắng giặc Mỹ xâm lược và còn rất nhiều chương trình khác nữa. Không khí sinh hoạt trong đơn vị hết sức sôi nổi và hừng hực khí thế. Các chiến sỹ háo hức ra mặt trận ngay để trả thù cho đồng bào và chiến sỹ miền Nam đang bị kẻ thù đàn áp, ra mặt trận ngay để kịp đóng góp một phần xương máu của mình cho chiến thắng của dân tộc. Người ta cứ nghĩ rằng nếu không nhanh thì không còn cơ hội tham gia vào công việc chiến đấu của dân tộc. Tiếp theo đó là các đoàn viên đăng ký làm đơn tình nguyện xung phong ra mặt trận.
Cuối cùng thì ngày lên đường chiến đấu cũng đã đến sau mấy ngày tập dượt báo động chuyển quân. Các chiến sĩ được lệnh bao gói ba lô vào các túi mưa để làm phao vượt vùng nước dài gần năm cây số ngay từ sáng sớm. Những cơn mưa kéo dài gần cả tuần lễ đã làm cho toàn bộ khu vực từ thung lũng dưới chân đồi Đồng Nẻ đến ngã ba Chuồng đều ngập dưới hai đến ba mét nước. Đợt chuyển quân ngẫu nhiên lại hoá thành một đợt thực hành chuyển quân trên đồng nước mà không phải lúc nào cũng có được. Mặc dù chưa có kinh nghiệm lại thiếu thốn về phương tiện nhưng đơn vị cũng đã hoàn thành công việc chuyển quân.
Gần hai tiểu đoàn bộ đội đã tập kết về các khu vực quanh ga Thị Long nên hầu như nhà nào trong vùng cũng đều có các anh bộ đội đến ở nhờ. Từ trước đó trên địa bàn đã có một đơn vị công nhân đường sắt nên lại càng chật chội. Đôi chỗ cả công nhân lẫn với bộ đội đều cùng trọ chung trong một nhà. Tiểu đội của Hằng có hơn chục người cũng bị chia nhỏ ra để gửi vào các nhà dân. Nhóm của Hằng chỉ có hai người gồm có Hằng và Liên tiểu đội trưởng đóng ở nhà của anh xã đội phó. Ngay buổi chiều hôm đó vợ chồng anh xã đội phó đã tiếp hai anh em bằng những câu chuyện hết sức vui vẻ. Anh kể rất nhiều chuyện về những vụ đánh án bắt bọn trộm cướp ở ngay tại địa phương. Câu chuyện của anh ly kỳ như những trận đánh án của công an trung ương vẫn được kể trên đài.
Sau khi ổn định chỗ ở hai anh em cùng đi ăn cơm ở bếp đại đội. Mải chuyện với cánh cùng tiểu đội đến khi về nhà trọ thì trời đã tối. Buổi tối hôm nay Hằng có cuộc họp đoàn triển khai nghị quyết, hưởng ứng lời kêu gọi thi đua đánh giặc của quân uỷ nên Hằng chào tạm biệt anh xã đội phó để đến một nhà ở đầu xóm hội ý với  cán bộ các phân đoàn.
Trời tối quá nên Hằng dò dẫm men theo con đường làng nhỏ hẹp lép nhép đất ướt đến một lúc lâu mới đến chỗ tập kết cuộc họp. Vào đến sân Hằng chưa vào nhà vội mà đi tìm chỗ có lợi gạch gõ cho bùn đất rụng ra để vào nhà cho đỡ bẩn. Ngay giữa sân có đến bốn, năm người phụ nữ ngồi bóc lạc trong một cái thúng đều cất tiếng chào, lúc ấy Hằng mới nhận ra đấy đều là những cô gái trẻ. Hằng đoán có lẽ họ đều là các công nhân đường sắt ở nhờ. Hằng chào lại một cách chiếu lệ rồi đi vào nhà, ngồi vào bàn triển khai chương trình họp. Thực ra thì chương trình và nội dung họp đồng chí chính trị viên phó đã triển khai hôm trước rồi, việc các đơn vị nhỏ lại phải tiếp tục họp chủ yếu là tập trung con số tránh để các chiến sỹ tự do đi lại làm lộn xộn khu vực đóng quân, đồng thời cũng là cách ngăn chặn những anh chàng thích tự do trốn về nhà để khi tập trung lên tàu vẫn giữ được đầy đủ con số. Cuộc họp diễn ra không quá một giờ thì giải tán, các chiến sỹ lại ai về nhà ấy để triển khai công việc gác sách.
Sáng hôm sau các tiểu đội đi nhận quân trang, vũ khí mãi đến quá trưa mới xong. Vừa về đến nhà đã thấy anh xã đội phó gọi ra cho biết có người đến hỏi thăm, chờ đợi khá lâu không gặp nên đã vừa về rồi. Đang còn phân vân không biết là ai thì đã thấy anh xã đội nói to từ ngoài ngõ:
- Cậu ấy vừa về xong, cô vào ngay đi!
Vừa quay nhìn ra cửa Hằng đã nhận ra không phải ai khác mà đó chính là Nghi, mặc dù cô che mặt rất kín bằng chiếc khăn voan màu trắng. Cô nhẹ nhàng bước vào nhà và ngồi vào cái ghế băng để kề bên cái bàn gỗ tạp kê ở giữa nhà. Hằng để cho Liên ngồi tiếp hộ rồi xuống bếp rót nước vào cái ca men mang lên mời cô gái uống.
- Làm sao em biết anh ở đây mà tìm đến?
Nghi mỉm cười rồi nói:
- Anh thấy em có tài không?
- Anh chịu!
Sau vài câu chuyện mở đầu Hằng bắt đầu giới thiệu cho anh xã đội phó và Liên biết quan hệ của hai người. Sau mấy câu hỏi xã giao, anh chủ nhà và Liên đều cáo từ rời khỏi nhà có ý để cho hai người tự nhiên nói chuyện.
- Các anh còn ở đây lâu không?
- Có lẽ đơn vị sẽ ở lại đây gần một tuần gì đó.
- Sáng nay em mới biết anh về đây qua cái Ngọc kể lại, thế là em đã xin nghỉ mấy ngày để tiễn chân anh.
- Làm sao Ngọc biết được anh đến đây mà anh lại không thấy cô ấy nhỉ?
- Tối qua nó nhìn thấy anh tổ chức họp ở ngay nhà nó trọ thế là nó bảo cho em biết.
- Thế mà nó chẳng thèm chào anh một tiếng, hay là nó giận gì anh không biết?
- Nó không dám nhận anh vì nó sợ bọn trong tiểu đội trêu anh là người yêu của nó, hơn nữa nó cũng sợ mọi người biết quan hệ của anh với em rồi suốt ngày trêu cợt không làm sao mà chịu được.
Ngừng lại một lúc Nghi lại nói tiếp:
- Chiều mai em định tổ chức liên hoan chia tay anh, có cả các anh trong ban lãnh đạo tiểu đoàn của anh cũng tham dự anh nhớ đến nhé!
- Mấy ngày tới có lẽ anh bận giải quyết một số thủ tục về giấy chuyển sinh hoạt đoàn cho một số anh em còn thiếu để kịp lên đường nên chưa chắc anh đã đến được đâu.
- Thế thì em tổ chức vào buổi trưa vậy, có được không anh?
- Để anh xem thế nào đã, buổi trưa đơn vị tập trung điểm nghiệm quân tư trang, có lẽ anh cũng không sắp xếp được...Thôi để khi nào có điều kiện anh sẽ bảo cho em biết sau vậy!
- Mặc anh! Nhất định anh phải đến đấy! Em sẽ báo cáo lãnh đạo hộ cho anh.
Chia tay với Nghi rồi mà Hằng vẫn cảm thấy không yên, những dự định và sự quyết tâm khi hai người gặp nhau lần trước đang có cơ bị thất bại. Lại một lần gặp nhau ngẫu nhiên khác! Hằng không sao giải thích nổi, có lẽ số phận đã không cho họ rời nhau ra được. Suốt cả buổi chiều hôm đó rồi cả buổi tối khi hai người ở bên nhau Hằng vẫn cố gắng xây dựng quyết tâm thêm một lần nữa. Những lúc gần nhau Hằng đều tránh để không chạm vào người của Nghi, cho dù cô luôn áp sát vào anh như mọi khi. Cứ mỗi lần vô tình chạm vào nhau Hằng lại lựa khéo để hai người cách xa ra thêm một chút.
Để có thể giữ vững quyết tâm của mình trong việc rời xa cô ấy để cô ấy giận dỗi từ bỏ mình để tìm một tình yêu mới. Để cô không phải chịu hoàn cảnh cô đơn và héo hắt trong chờ đợi như những người chị của cô, Hằng đã quyết định sẽ không gặp cô nữa. Ngay lúc đó trong đầu Hằng đã hình thành một kế hoạch tránh gặp mặt Nghi. Suốt ngày Hằng đi hết chỗ này đến chỗ khác để nhắc nhở các phân đoàn tổ chức họp triển khai nghị quyết của chi đoàn. Hằng nhờ Liên chuẩn bị quân tư trang và mọi thứ hộ còn mình thì luôn vắng nhà để cô ấy không tìm được. Cuối cùng thì Hằng cũng đã thực hiện được kế hoạch của mình một cách hoàn chỉnh. Hằng đã lên tàu rồi mà cô ấy vẫn không tìm gặp  được. Cẩn thận hơn, Hằng cũng không về chỗ tập trung của tiểu đội mà ở lại chỗ của trung đội trưởng Nhận là người cùng quê Đông Anh với Hằng.
Cuộc chia tay ban chiều không biết có được tổ chức hay không, nhưng Hằng đã không đến. Cô ấy chắc sẽ vô cùng nóng ruột trong suốt thời gian chờ đợi và sẽ đau khổ biết bao khi thời gian đã quá muộn mà chàng trai của cô vẫn chưa chịu đến hay nói cho thật đúng là chàng trai của cô đã không đến. Có một điều mà cô ấy sẽ không bao giờ hiểu được đó là trong mỗi giây phút mà cô ấy đau khổ thì chàng trai của cô ấy cũng đang chịu bao sự dằn vặt, đớn đau.
Mặt trời đã khuất sau những ngọn núi phía xa, hoàng hôn màu tím lan toả trên khắp sân ga. Từ bên hàng cọc gỗ làm rào ngăn cách nhà ga với làng xóm, có một người con gái đứng lặng lẽ nhìn lên những toa tàu đầy chặt những chàng trai màu xanh áo lính mà không làm sao tìm thấy được chàng trai của riêng mình. Cũng trong thời gian ấy từ trên một ô cửa sổ của con tàu có một người lính cũng cố gắng thu vào tầm mắt như muốn ghi sâu vào trong tim mình hình ảnh nhỏ bé, cô đơn của người con gái mình yêu trong những giây phút cuối cùng trước lúc đi ra mặt trận.
Những bánh thép từ từ lăn về hướng Nam xa tắp chở theo trong đó hàng ngàn những chàng trai đang cất cao từng đoạn những ca khúc rực lửa chiến đấu. Trong đó chắc không thiếu những người lính đang nhẩm đọc những vần thơ bi tráng, thấm đẫm tình yêu vĩnh cửu của riêng mình... 
                                       
                                                      3

Công việc bàn giao quân thật nhanh chóng vì rất nhiều đơn vị sau chiến dịch xuân 1968 đã mất nhiều quân số, cho nên số tân binh đã được huấn luyện chu đáo cả về kỹ năng sử dụng các loại vũ khí và thông thạo về kỹ chiến thuật lại được rèn luyện mang nặng, đi dài là rất quý cho các đơn vị nhận quân. Số quân của Thanh Hoá lần này được giao cho sư đoàn 320, một trong bốn sư đoàn cơ động của bộ quốc phòng. Nói là chỉ có bốn sư đoàn cơ động nhưng thực ra thì không biết lúc đó có mấy sư đoàn cơ động, bởi vì mỗi sư đoàn chỉ mang một số hiệu nhưng nó còn có thêm những chữ A, B, C, D, E, gì đó. Chính vì vậy mà quân địch rất khó biết ta có thực lực quân số là bao nhiêu.
Trừ các cán bộ khung huấn luyện ở lại, quân số của tiểu đoàn được chia nhỏ ra để bổ sung vào các trung đoàn và các đơn vị trực thuộc ngay tại khu ga Thị Long. Toàn bộ đại đội huấn luyện của Hằng được bổ sung vào tiểu đoàn 25 trực thuộc phòng hậu cần sư đoàn. Tiểu đoàn 25 là một đơn vị vận tải bộ, nhiệm vụ chính của cả tiểu đoàn là vận chuyển vũ khí đạn dược từ các kho của quân khu về, rồi lại chuyển đến các mặt trận tiếp tế cho các đơn vị chiến đấu. Ngoài vận chuyển vũ khí đơn vị còn làm công tác chuyển thương từ mặt trận về các đại đội quân y của các trung đoàn hoặc chuyển về tiểu đoàn quân y của sư đoàn. Ngoài các công việc trên, đơn vị còn thực hiện các công việc khác nữa mà phòng hoặc sư đoàn yêu cầu đột xuất.
Những ngày đầu tiên về đơn vị mới lại là các việc học chính trị và rèn luyện. Cán bộ cấp trên luôn lấy việc chấp hành quân phong, quân kỷ là mục tiêu giáo dục các chiến sĩ. Cùng với những nội dung trên là hàng loạt các hoạt động như việc làm báo tường, xin vật liệu về làm các giá đỡ súng, thậm chí là vào rừng chặt cây về làm nhà, làm bếp. Tất nhiên là các đồng chí lính mới rất hăng say làm suốt ngày, suốt đêm mong sao để được đẹp hơn các tiểu đội, đẹp hơn các trung đội khác. Họ cũng không ngờ rằng tất cả những công việc ấy chưa kịp hoàn thành thì đã lại phải báo động chuyển quân đi nơi khác. Đương nhiên là lãnh đạo cấp trên họ đã biết rất rõ là như thế những họ vẫn phải triển khai. Cũng có nhiều cán bộ cấp trên nói rằng cứ phải bắt làm cho thật nhiều để tránh cái việc “nhàn cư vi bất thiện”. Tất nhiên là như các cụ ta xưa đã nói một câu cưả miệng là “nước sông công lính” nhưng nghĩ cho cùng thì từ cách nghĩ, việc làm như trên cũng là một cách giữ gìn bí mật. Biết đâu trên địa bàn chả có các nhóm gián điệp hàng ngày chỉ thăm dò hiện tượng chuyển quân để mà dự đoán ra kế hoạch tác chiến để bố phòng lực lượng đối phó làm thất bại kế hoạch của ta.
Ngay khi rời ga Thị Long đơn vị của Hằng đi một mạch vào tận xã Quảng Hưng, Quảng Trạch, Quảng Bình. Ngay những ngày đầu tiên đơn vị đã triển khai công tác huấn luyện. Thao trường luyện tập là một cánh đồng cát trắng bao la bát ngát của xã Quảng Hưng. Bài học chủ yếu là cách cứu chữa, băng bó cho các chiến sỹ với hầu hết các dạng vết thương trên mọi chỗ của cơ thể. Tiếp theo là cách buộc võng cáng thương binh kết hợp vận động trong các tình huống. Gian nan nhất là việc khênh thương binh chạy trên các địa hình với quãng đường đủ dài để rèn luyện sự dẻo dai của chiến sỹ. Việc khênh nặng chạy trên cát quả thật là một việc không phải dễ dàng. Cứ mỗi bước chân lên được hai mươi phân thì khi bàn chân tiếp cát lại lún xuống mất mười phân. Nhưng mệt nhất là việc mỗi bước chân lại phải kéo theo lượng cát nằm trên mu bàn chân. Nhiều lần kéo cát như thế bàn chân cứ như muốn rời ra khỏi ống chân.
Từ mấy tháng nay chính quyền nguỵ nhiều lần  hô hào trên các phương tiện phát thanh và báo chí về  kế hoạch Bắc tiến. Chúng đưa hai chiếc tàu khu trục ra vùng biển ven vịnh Bắc Bộ làm như sẽ chuẩn bị tiến công ra miền Bắc. Mặc dù chúng đã nhiều lần gào thét như vậy nên chả ai thèm quan tâm đến những điều chúng nói. Người ta thừa hiểu rằng ngay trên mảnh đất chúng còn đang chiếm giữ, chúng đã chẳng thể nào giữ nổi huống gì chúng lại mưu toan làm những việc tầy đình này. Mặc dù vậy nhưng hình như lần này cấp trên có vẻ rất chú trọng và có phần nào khẩn trương trong tổ chức phòng thủ dọc bờ biến suốt từ Quảng Bình ra mãi vùng Quảng Ninh, Uông Bí.
Tiểu đoàn 25 vận tải cũng được huy động vào công tác phòng thủ cùng với các đơn vị khác trong sư đoàn. Sau đợt chuyển các hòm gỗ dùng để đựng đạn pháo và đạn cối ra vùng biển Cảnh Dương xong thì cả đơn vị lại lên xe hành quân ra Thanh Hoá. Khi hành quân vào các đoàn xe đều buông bạtT, còn khi ra thì chẳng thấy nói gì về việc giữ bí mật mà có vẻ như cấp trên còn muốn khoa trương thanh thế cho mọi người cùng biết rằng ta đang phòng thủ đây. Đồng thời cũng ngầm răn đe kẻ địch về sự chuẩn bị này để chúng hiểu rằng tiến ra Bắc là sẽ chỉ có con đường chết.
Những ngày cuối năm đang đến gần, hôm nay đã là ngày tết ông Táo hai mươi ba tháng chạp rồi, không khí tết đã rộn rã trên khắp các vùng quê. Từ các ngả đường thôn xóm người đi lại có vẻ gấp gáp và khẩn trương hơn. Các chợ trong vùng đông đúc, tấp nập khác hẳn những ngày thường. Nhiều mặt hàng ngày thường không có hôm nay cũng bày bán khắp cả chợ.  công việc chặt cây rừng về làm nhà cũng đã gần hoàn chỉnh. Một số trung đội đã cắt đủ tranh để lợp nhà. Cứ tưởng chuyến này sẽ được ăn tết ở vùng rừng núi Như Xuân, vậy mà sớm nay đại đội lại phải lên đường để vào lại Quảng Bình. Lần này thì đơn vị tập kết ở vùng Tuyên Hoá, miền tây của Quảng Bình.
Công việc chính của đại đội 2 là nhận hàng từ  kho của sư đoàn về trang bị cho trung đoàn 64 đi B dài trong thời gian tới. Kể ra cũng lạC, bởi quân tư trang của 64 lần này không giống với đồ dùng của các đơn vị đi B dài khác. Những bộ quần áo mới thì chẳng nói làm gì bởi nó vẫn như quần áo mọi khi. Nhưng tăng võng và các trang bị khác như thuốc men và các thứ hàng hoá cấp kèm theo thì rất sơ sài. Nhiều người nghĩ rằng có lẽ nhà nước mình có khó khăn do kháng chiến kéo dài nên cũng thiếu thốn hơn chăng.
          Chỉ đến khi cuộc chiến đã mở ra và toàn thắng ở vùng đường 9 Nam Lào người ta mới hiểu rằng mọi công việc mà cánh lính tráng hậu cần chúng tôi làm trong mấy tháng qua chỉ là động tác nghi binh trong chiến thuật mà thôi. Người ta càng không thể ngờ rằng sư đoàn trưởng Kim Tuấn đã vào khảo sát vùng chiến trường từ trước đó khá lâu. Người ta càng không thể ngờ rằng trung đoàn 64 của sư đoàn 320 chẳng đi B dài mà là vào đón lõng tại một vùng hiểm yếu để tiêu diệt toàn bộ quân địch định bất ngờ đánh vào hậu phương của ta mà chúng đặt tên là chiến dịch Lam Sơn 719. Có một điều càng không thể ngờ được đó là kẻ địch tưởng ta đã bị chúng nghi binh thu hút lực lượng vào cuộc phòng thủ miền Bắc. Chúng có biết đâu rằng ta đã chờ chúng hàng mấy tháng trời tại cái nơi mà chúng tổn hao không biết bao sức lực vào đó để rồi hàng ngàn quân, hàng ngàn ô tô, xe tăng, trọng pháo và cả những máy bay lên thẳng đã không kịp chạy thoát thân. Bản tin chiến sự đã mô tả cuộc rút chạy hỗn loạn ấy không khác nào một đàn vịt bị săn đuổi. Hàng ngàn những ô tô, xe tăng vẫn đang nổ máy còn bọn lính lái xe đã tháo chạy không biết tự bao giờ. Cả đống những phương tiện chiến tranh bị bỏ lại trên đoạn đường dài mấy cây số. Trong cái mớ hỗn độn ấy người ta còn thấy cả những chiếc máy bay lên thẳng hạ xuống rồi không kịp bay lên trốn chạy. Trung đoàn 64 là một trong những đơn vị lập công lớn trong chiến dịch. Có một điều đặc biệt hơn là trung đoàn còn bắt sống được đại tá Thọ lữ đoàn trưởng lữ đoàn dù, một trong những người đứng đầu chiến dịch Lam Sơn 719 của quân địch. Nghe đâu Thọ còn là một nhân vật của CIA, cục tình báo trung ương Mỹ.
          Sau khi hoàn thành cuộc nghi binh chiến thuật, khối hậu cần trong đó có tiểu đoàn 25 vận tải và một số các đơn vị chiến đấu của trung đoàn 48 được điều vào tiếp ứng để chặn đánh một số bộ phận quân địch chạy tán loạn khắp vùng lân cận. Đại đội 2 của Hằng được đưa lên xe chở vào vùng Cự Nẫm của địa phận của tỉnh Quảng Bình rồi sau đó hành quân bộ đi sâu vào miền rừng khọc của Tỉnh XaVaNakhệt trên đất của nước bạn Lào. Cuộc hành quân của đại đội 2 dừng lại ở vùng Na Thông, Na En để phối hợp với các đơn vị chiến đấu tiến đánh các cứ điểm ở khu vực Pha Lan, Đồng Hến. Cho đến tháng 6 năm 1971 thì tất cả mọi lực lượng tham gia cuộc tập kích của quân địch ra đường 9 năm 71 mà chúng lấy con số năm 71 cùng với địa danh đường 9 ghép lại đã hoàn toàn bị tiêu diệt.

                                                               4

          Những ngày đầu tháng sáu âm lịch vừa mới bắt đầu thì cũng là những ngày mở màn cho những trận mưa đầu mùa trên đất bạn. Cả đại đội hàng trăm người vừa mới mạnh khoẻ là thế mà giờ đây đang lên cơn sốt rét run lên cầm cập. Ban chỉ huy đại đội 2 cả từ chính trị viên, đại đội trưởng đến các thành viên khác cũng bệnh tơi bời. Hai cậu liên lạc trẻ Tâm và Luận khoẻ thế mà cũng nằm rên hừ hừ mỗi thằng một xó. Cũng không biết thế nào mà Hằng lại nằm ở con số bốn người trong đại đội không bị sốt. Ba trong số bốn người không bị sốt thì đều đã từng sốt ở Thượng Lào năm trước còn có thể nói là có sự miễn dịch chứ Hằng thì đâu đã sốt bao giờ. Sau nhiều năm nghiên cứu về bệnh nhiệt đới nhiều học giả người nước ngoài đã cho biết Nam Lào là vùng tập trung của các loại bệnh sốt rét do muỗi gây ra vào diện đứng đầu thế giới, thế mà Hằng lại không bị sốt thì quả thật là lạ.Tất nhiên là không sốt thì phải cáng đáng toàn bộ mọi việc cho những người ốm. Đâu là việc chăm lo cơm nước, giặt dũ áo quần, thậm chí cả việc gác sách đêm hôm cũng phải cáng đáng nhiều hơn. Cũng may là cụm công tác của Hằng chỉ có mỗi một anh Nhu đại đội phó cùng với mấy người, chứ nếu ở đại đội bộ phía trong bãi đá Na En thì chắc là cậu chạy tướt bơ cả ngày sang đêm không hết việc.
          Còn đang dọn dẹp một vài thứ vũ khí của anh em để bên miệng hầm kèo thì đã nghe có người gọi từ bên hầm của đại đội phó, Hằng đứng lên thắt lại dây lưng quần rồi chạy sang nhận lệnh. Vừa thấy mặt, tham mưu trưởng sư đoàn Phát đã giao cho cậu một thư lệnh bảo phải gấp rút đưa vào cho tiểu đoàn trưởng Nguyễn Quý ở mãi tận Na En. Nhận thư xong Hằng nhét thư vào ngực áo rồi chạy về hầm của mình để chuẩn bị lên đường. Đường đi vào Na En chỉ độ hai chục cây số và hầu như cũng rất an toàn, nên Hằng cũng không cần chuẩn bị gì nhiều. Vừa khoác khẩu AK báng gấp lên người định đi thì đại đội phó gọi lại bắt mang thêm khẩu K54 với đủ ba băng đạn nữa rồi mới cho đi.
          Cũng thật may cho Hằng là hôm nay trời tương đối khô ráo nên đường xá quang đãng có thể nhìn thấy tất cả mọi thứ ở khá xa nên không lo bị địch phục kích. Mặc dù vừa đi vừa chạy gằn nhưng Hằng không khỏi lo lắng sợ rằng mình đến không kịp thời gian quy định. Trong suốt thời gian tập luyện các cán bộ khung đã nhấn mạnh đến trách nhiệm hoàn thành nhiệm vụ của người chiến sĩ trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Đặc biệt là nhiệm vụ giao thông liên lạc, chuyển mang tài liệu trong chiến đấu. Các tài liệu phải được bảo đảm hoàn toàn bí mật, không để lọt vào tay kẻ địch, phải mang đến nơi nhận đúng địa điểm, đúng thời gian. Đây cũng là lần đầu Hằng làm nhiệm vụ này nên trách gì không khỏi lo lắng dọc đường.
          Đang vừa đi vừa suy nghĩ, chợt Hằng thoáng nghe trong gió hình như có tiếng người từ phía trước mặt vọng lại. Nhanh như một vận động viên chạy việt dã Hằng vượt qua khoảng trống để lẩn nhanh vào khu vực cây cối um tùm của một ốc đảo. Dựa mình vào một cái rễ cây khá lớn đủ che khuất người rồi tập trung quan sát ra bốn phía xung quanh. Ngón tay cái khẽ khàng  ấn khoá hãm của khẩu AK báng gấp rồi đặt ngón trỏ vào vòng cò súng. Có lẽ là số lượng của nhóm người này khá đông nên tiếng ồn ào nghe khá rõ. Cũng không phải đợi lâu thì người đi đầu đã xuất hiện. Một người đàn ông mặc áo rằn ri, tiếp theo là một người đàn ông mặc một cái áo cộc ba lỗ, bên dưới quấn xà rông, kế đến là hai người phụ nữ mặc váy hoa. Phía sau hình như còn có mấy đứa trẻ con lũn cũn sau đám cỏ tranh. Đã gần lắm rồi, có lẽ chỉ còn cách hai trăm mét là cùng! Một trăm rưởi mét! Một trăm mét! Gần quá rồi, có lẽ phải bắt đầu thôi. Nhưng sao thế nhỉ? Tất cả họ đều không mang súng hoặc một thứ vũ khí gì mà chỉ có các loại dao, gùi, ống nước! Có lẽ đây là một gia đình người Lào đi thăm người hoặc ra nương thì phải. Chỉ còn độ năm mươi mét nữa là chạm nhau rồi. Chợt ba đứa trẻ con vùng chạy đuổi nhau lao nhanh về hướng Hằng phục kích. Chúng chạy nhanh quá và chợt đứng sững lại vì chúng đã nhận ra có người lạ ở bên gốc cây trước mặt mình. Cả ba đứa cùng la eo éo và chỉ tay về phía Hằng báo cho những người lớn biết. Nói thì lâu chứ thực tế thì từ khoảng thời gian Hằng phát hiện ra nhóm người đó cho đến lúc lũ trẻ vọt chạy đuổi nhau kéo dài chỉ độ năm sáu  phút. Ngay cả những ý nghĩ chợt đến, sự liên hệ tình hình ở trong đầu đến khi đánh giá xong sự việc để đi đến hành động cũng chỉ nhanh chóng lướt qua trong vài mươi giây là cùng.
Những người lớn trong nhóm sau khi nghe lũ trẻ la lối cũng dừng lại cả và thận trọng nhìn về phía Hằng. Họ đứng nguyên với tư thế khi họ bất chợt dừng lại mà không dám thay đổi tư thế khác vì sợ bị đối phương hiểu lầm về hành động của họ. Họ có vẻ lo lắng hoảng sợ khi thấy Hằng hướng mũi súng về phía họ. Sau giây phút bị bất ngờ vì lũ trẻ phát hiện ra mình thì Hằng cũng đã trấn tĩnh lại và quan sát kỹ cả nhóm người đứng trước mặt, trong khi tay vẫn chạm sát vòng cò súng. Trong lúc cả mấy người vẫn đứng nguyên tại chỗ Hằng đã nhìn lại người mặc áo rằn ri, người này vào khoảng bốn mươi, còn người già thì không thể đoán ra tuổi được bởi mặt mũi thì nhăn nhúm, lưng lại còng gập xuống. Cái áo rằn họ mặc cũng đã quá cũ, nhiều chỗ trên vạt đã rách sơ ra chỉ còn cái vệt xanh đen khoang khuở thì vẫn còn nhìn khá rõ. Cũng giống như Hằng, sau cú chạm mặt bất ngờ làm cho nhóm người ấy sợ sệt đôi chút nhưng họ thấy người cầm súng không có ý làm hại đến họ thì họ có vẻ an tâm hơn. Sau một lúc cả hai bên im lặng nhìn nhau thì chợt nghe thấy cả mấy người trong nhóm léo xéo với nhau mấy câu gì đó rồi thì tất cả bằng ấy người nối theo nhau rẽ xiên về phía bên trái để vòng xa người cầm súng một chút. Hai người đàn bà có vẻ rón rén hơn, vừa đi vừa túm tay lũ nhỏ lôi theo làm cho chúng không còn chạy nhảy được như lúc trước. Hằng thở phào nhẹ nhõm khoá súng lại rồi đi tiếp khi nhóm người của gia đình người Lào ấy đã đi khuất hẳn phía sau.
Gần một giờ đồng hồ vừa đi vừa chạy Hằng mới đến được bờ một con suối lớn. Nghe số các đồng chí đã đi qua nói lại thì con suối này là điểm chia đôi khoảng đường từ trạm trung chuyển nơi Hằng ở đến bãi đá Na en là nơi tập kết của cả đơn vị. Con suối mà anh em kể nghe thật nhỏ bé, còn con suối Hằng gặp sao lại lớn quá thế này. Thậm chí nó có thể là sông chứ không còn là suối, bởi chiều ngang mặt nước rộng đến hơn bốn mươi mét. Còn dòng nước của nó thì cuồn cuộn chảy trông thật hung hãn và đầy thách thức đối với những người muốn vượt qua nó. Cùng với những xoáy nước đục ngầu là những đợt sóng chồm lên vật xuống lao đi với hàng ngàn tiếng ồn ào đinh tai nhức óc. Tuy nhiên điều đó còn không đáng sợ bằng những những cây gỗ, cây tre và hàng ngàn các vật nhọn có, kềnh càng có đang thi nhau vun vút lao đi trên khắp mặt nước với tốc độ ghê người.
Sau một thoáng phân vân lo là mình bị lạc đường thì Hằng cũng nhận ra dấu của anh em đi công tác hàng ngày để lại như lời dặn lúc ra đi. Thế là bây giờ chỉ còn mỗi một việc là làm thế nào để vượt sang bên kia nữa mà thôi. Việc phải bơi qua là điều tất nhiên rồi nhưng mà có thể qua được bên kia không hay là bị gỗ thúc vào người và vĩnh viễn nằm lại ở đáy sông mới là điều cần phải nghĩ đến. Thời gian! Thời gian không cho mình nghĩ lâu hơn nữa và việc phải bơi qua sông đã được dự kiến trong đầu. Kiểm tra lại công văn một lần nữa rồi thắt lại bao súng ngắn. Khẩu AK báng gấp cũng được quàng qua người rồi lại buộc vào ngang lưng bằng một đoạn dây dù.
Một gốc cây lớn với những khúc rễ, cành cồng kềnh vừa trôi tới. Không còn nghĩ gì nữa Hằng lao người thật nhanh ra mặt sông men theo những cành cây rườm rà trước mặt. Thật không thể ngờ được là Hằng không thể bám kịp  được vào đám cành rễ đó bởi vừa khi chuẩn bị bám vào đám cành lá thì một súc gỗ ở đâu đó bất ngờ nổi lên theo xoáy nước lao thẳng vào Hằng. Ngay lúc đó Hằng buộc phải láng về bên phải để tránh khúc gỗ ma quái kia. Một xoáy nước rút Hằng xuống khỏi mặt nước, Hằng vẫn còn cảm thấy hình như  bề mặt vỏ xù xì của khúc gỗ trượt qua mạng sườn bên trái. Cũng may cho Hằng là cái xoáy nước sau khi lôi Hằng xuống khá sâu thì nó lại thả Hằng ra để cho Hằng trồi được lên mặt nước. Đến lúc này thì  đành phải mặc kệ mọi điều nguy hiểm ở cả hai bên người, Hằng chỉ còn biết bơi và bơi cho nhanh bất chấp điều gì có thể xảy ra.
Có lẽ khi đã là một vật như bao vật khác cùng trôi trên sông thì tốc độ của mọi vật cũng ngang nhau mà Hằng có khác gì một vật đang trôi nên ngay phía trước, phía sau, bên trái, bên phải Hằng ngồn ngộn là những vật lớn có, nhỏ có mà vẫn không thấy chạm vào người. Hằng nhận ra rằng mình không nên cố vượt các vật cản mà nên lựa theo chúng rồi tranh thủ né mình hướng về bờ sông bên trái, đồng thời cố gắng tránh xa các đợt sóng cùng những xoáy nước thỉnh thoảng xuất hiện ngay bên cạnh là sẽ thành công. Cũng không biết thời gian kéo dài bao lâu, chỉ đến khi áp sát vào bờ sông bên kia Hằng mới tin là mình còn sống. Sau khi cởi tất cả quần áo ra để vắt bớt nước, ngồi nghỉ một lúc cho lại sức, Hằng mặc lại bộ đồ ướt rồi tiếp tục lên đường. Hằng đi ngược lại theo chiều nước chảy có lẽ phải đến gần nửa cây số mới gặp lại con đường mòn đơn vị vẫn đi công tác hàng ngày. Như vậy thì quãng đường mà nước cuốn Hằng đi cũng khá là xa đấy chứ!
                 
                                              5

Sau khi trao công văn cho lãnh đạo, lại kể cho bọn Tâm và Luận nghe câu chuyện vượt sông xong mới thấy mệt và đói. Vừa mỉm cười nghe ông anh “đường nhựa” nói về cái việc vượt sông chả lấy gì làm ghê gớm âý, Luận vừa vào bếp mang ra một cái xoong đựng cơm và nưng bát thịt kho lõng bõng. Đặt xoong cơm và bát thịt trước mặt Hằng, Luận bảo:
- Anh may nhé! Hôm nay bắt được một con nhím nên nấu hơi nhiều cơm! Biểu dương thành tích bằng bát thịt nhím này đấy nhé!
Vừa cơm nước xong thì đã thấy bên trung đội ba của anh Giao hò la ầm ĩ. Hằng chột dạ hỏi Tâm và Luận:
- Này! Không sợ lộ bí mật nơi đóng quân à!
- Bọn nguỵ chạy sạch cả rồi! Làm gì còn thằng nào mà phải bí mật.
- Này, tớ vừa gặp một gia đình Lào lúc đi vào đây, tý nữa thì tớ xả súng diệt gọn. May mà trong đám ấy có ba đứa trẻ con chứ không thì …!
- Dân ở đây lỳ lắm, họ còn vào cứ điểm vừa đánh xong để vét chiến lợi phẩm đấy anh ạ!
Đang còn nói chuyện với nhau thì đại đội trưởng đã về đến. Vừa vào đến lán anh đã hô bọn Tâm, Luận thu dọn quân tư trang. Cả bọn còn đang ngơ ngác chưa biết gì thì đã nghe đại đội trưởng bảo:
- Thế nào? Có ra không thì bảo!
Luận nhanh mồm hỏi lại:
- Ra hẳn hay tạm thời hả thủ trưởng?
- Đã ra lại còn có cả ra tạm thời nữa à? Riêng cậu ra tạm thời còn chúng tớ thì ra hẳn.
Cũng chỉ đợi có thế là Luận vỗ tay hét lên ầm ĩ. Thì ra không biết nghĩ thế nào mà trưa nay Luận bảo không nên giặt quần áo để tránh phải bỏ quần áo ướt vào ba lô. Còn Tâm thì không nghe, đã đem cả hai bộ nhúng nước giặt phơi ngoài bờ suối bây giờ vẫn còn ướt rườn rượt.
Đến lúc này thì Hằng mới biết công văn mà mình mang vào lúc nãy là lệnh rút quân mà trên đưa xuống. Hằng vội gặp đại đội trưởng trình bày về tình hình sông nước vừa gặp lúc đi vào. Nghe xong đại đội trưởng bảo:
- Không sao đâu! Có khi mình ra đến nơi thì suối đã cạn khênh rồi ấy chứ. Vùng này thỉnh thoảng nước lũ vẫn tràn về như vậy nhưng chỉ ba bốn tiếng là lại cạn ngay.
Dừng một lúc đại đội trưởng lại hỏi Hằng:
- Thế vừa rồi cậu đi vào bằng cách nào?
- Đành phải nhảy xuống mà bơi thôi chứ còn biết làm thế nào hả thủ trưởng!
Nghe đến đây thì đại đội trưởng ngạc nhiên thực sự, anh vừa quét mắt nhìn khắp một lượt trên người của Hằng vừa bảo:
- Thế mà cậu chả dìm luôn cả người lẫn công văn xuống suối để chúng tớ lại bị một phen đi tìm bở hơi tai thì mới vừa.
- Làm thế nào được! Ông Phát bảo phải kịp thời, không thì ông ấy cho ra bã!
- Mà cũng phải…! Thôi cậu dẫn đường đi, cậu giúp thằng Tâm mang mấy bao gạo ra luôn ngoài ấy.
Không lâu sau toàn bộ lực lượng của sư đoàn đã rút quân ra tận Kỳ Tây, Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Tiếp tục những ngày học tập và huấn luyện, chuẩn bị cho những nhiệm vụ tiếp theo ở một mặt trận nào đó mà không ai có thể dự đoán được. 
Về Kỳ Tây mới chỉ được mấy hôm đơn vị đã lại bắt đầu đi vào học tập và rèn luyện. Những bài tập bắn bia được ôn lại từ đầu như khi mới vào bộ đội. Từ bia số 4, số 6 đến bia số 7, bia thằng còm di động, chả thiếu loại bia nào. Các buổi tối không sinh hoạt thì tập bắn đèn ở sân kho của hợp tác xã. Cũng chẳng biết thế nào mà ngay hôm tập bắn đèn đầu tiên cậu Long ở trung đội 2 lại cho nổ một viên đạn. Cũng may là viên đạn không gây sát thương cho ai mà chỉ làm vỡ cây cột cái bằng luồng của một nhà dân ở bên trái sân kho. Làm mất công trung đội phải đi thương lượng xin lỗi gia đình bị nạn. Sau vụ này đơn vị họp lên họp xuống để tìm nguyên nhân mà vẫn không tìm ra nguyên nhân của sự việc. Trung đội trưởng trung đội 2 nói anh đã cho khám súng rất cẩn thận trước khi vào huấn luyện lại có cả chính trị viên phó cùng tham gia buổi tập xác nhận. Mãi về sau này, khi sự việc đã dần lãng quên rồi người ta mới đoán rằng có lẽ có cậu nào đang ở phiên gác đã đi qua bãi tập rẽ vào rồi để lẫn súng gác với súng tập. Những người gác hôm ấy thì cũng có đến mấy người, nhưng người làm lẫn súng thì mọi người cũng đã biết. Có điều sự việc đã nhạt rồi nên ban chỉ huy chỉ gọi cậu ta lên để phê bình rút kinh nghiệm một lúc rồi cũng thôi không kỷ luật nữa.
Công tác đoàn cùng với các chương trình văn nghệ đã làm cho Hằng bận suốt ngày không hết việc, nay lại càng bận thêm với cái chức phó chủ tịch hội đồng quân nhân của đại đội mà Hằng vừa được bầu vào trong đợt củng cố đơn vị lần này. Nào là tổ chức dạy những bài hát truyền thống, nào là viết kịch bản và dàn dựng các vai kịch cho tổ văn nghệ, rồi thì tập huấn diễn viên. Lại còn khổ hơn khi chả có ai muốn đóng vai cố vấn Mỹ vừa nham hiểm, độc ác, vừa đểu giả với các cô gái trong cốt kịch do Hằng viết ra. Thế là Hằng đành phải vào vai kịch này vậy.
Cuối cùng thì đơn vị cũng tổ chức thành công buổi biểu diễn văn nghệ với hàng chục các tiết mục từ tấu nói đến ca hát tập thể, ca hát cá nhân và cuối cùng đêm diễn là vở kịch viết về các chiến sĩ biệt động miền Nam tổ chức đánh Mỹ ngay tại nội đô Sài Gòn, Chợ Lớn. Ngoài các khán giả là cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị ra còn có rất đông thanh niên và nhân dân của địa phương cũng đến xem. Mỗi tiết mục kết thúc là tiếng vỗ tay lại vang lên không ngớt, làm cho không khí của một vùng quê như bừng dậy sau rất nhiều thời gian im lìm vắng lặng của những năm chiến tranh bom đạn.
Suốt trong mấy ngày nay trên đài nói nhiều về mức nước sông Hằng, sông Đuống ngày một lên to. Những người quê ở gần các vùng sông này luôn lo lắng về một cuộc vỡ đê có thể sảy ra. Trong những năm Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc, chúng cũng đã nhiều lần đánh vào đê đập và các công trình thuỷ lợi. Nhiều chỗ mới chỉ kịp hàn vá mà chưa củng cố được nên rất xung yếu không biết vỡ lúc nào. Thế rồi cái việc luôn lo lắng ấy cũng đã sảy ra ở đê sông Đuống. Đê làng Tình Quang thuộc huyện Gia Lâm chính là điểm vỡ lớn nhất. Cả một khu vực rộng lớn bao gồm cả mấy huyện của Hà Bắc, Hải Hưng và Hà Nội đều bị ngập lụt có chỗ sâu tới ba, bốn mét nước. Đơn vị cũng có rất nhiều chiến sĩ quê ở trong vùng bị lụt nên cũng đã báo cáo lên cấp trên cho về phép đặc biệt. Các đề nghị cũng đã được sư đoàn chấp nhận và giao cho các đơn vị bố trí.
Sau cuộc họp điểm danh buổi tối xong anh Huynh chính trị viên phó nháy Hằng ra cổng doanh trại không biết để làm gì mà nghe có vẻ rất bí mật. Đoán chắc lại bàn về công tác thanh niên nên Hằng lừng chừng mãi không chịu ra. Vừa lúc ấy hai cậu liên lạc cùng với y tá Cứ lại rủ đánh bài bôi nhọ nồi thế là Hằng quên luôn không ra cổng nữa. Chờ mãi không thấy Hằng, anh Huynh lại quay trở vào nhà kho. Vừa thấy Hằng đang quỳ trên chiếu anh liền dùng hai đốt ngón tay dọi cho một cái vào đầu rồi bảo:
- Lúc họp nói thế nào mà lại không ra thế hở?
Lúc ấy Hằng mới nhớ ra, bèn xếp bài lại tiện tay đưa cho anh nuôi trưởng Toán rồi theo anh Huynh ra ngoài cổng. Thì ra anh Huynh gọi Hằng ra để báo cho biết là cậu được về phép đặc biệt vào sáng ngày mai. Hằng vừa nghe được đã định hét toáng lên thì anh Huynh giơ ta bịt mồm lại:
- Này cả đơn vị chỉ có mỗi một mình cậu được đi thôi đấy! Đừng làm ồn lên ảnh hưởng đến đơn vị.
Ngừng một lúc anh lại nói tiếp:
- Xuống ngay chỗ cậu Binh quản lý thanh toán tiền đi đường cho kịp mai đi sớm. Chốc nữa tớ gửi mấy bức thư mang về ngoài đó bỏ cho nhanh.
- Thủ trưởng yên tâm em sẽ bỏ ở nơi bưu điện lớn nhất tỉnh để thư đến cho nhanh.
- Thôi không phải về tỉnh mà chỉ cần bỏ ở Hà Nội là được, Hà Tây nhà tớ ở ngay cạnh Hà Nội còn gì!
Công việc thanh toán cũng chả lâu la gì vì hình như Anh Binh quản lý đã được biết trước nên đã chuẩn bị sẵn rồi.
Đêm sao mà dài thế đến thế! Hình như Hằng chưa thấy có một đêm nào dài đến thế bao giờ. Vừa thao thức nhớ về nhà vừa bị mấy cậu liên lạc lạo xạo viết thư trong góc nhà không sao yên tĩnh được nên Hằng đành giương mắt thao láo ra để chờ sáng.
Thực ra thì có rất nhiều người quê ở vùng lụt nhưng chỉ mỗi một mình Hằng được về thì đó quả là một điều đặc biết. Có lẽ Hằng là người ở trong đại đội bộ nên các thủ trưởng cũng tin tưởng hơn số anh em khác. Bởi vì khi cho một chiến sĩ về nhà cách xa đơn vị đến hơn bốn trăm cây, rồi chiến sĩ ấy có trả phép đúng hẹn hay không hoặc giả có thể cậu ta đảo ngũ không trở lại thì sao? Có lẽ ngoài lý do trên các thủ trưởng cũng như có ý thưởng công cho Hằng vì những cố gắng trong mấy tháng qua về công tác đoàn, công tác báo chí và công tác hoạt động văn nghệ. Thôi thì vì cái gì cũng được miễn là mình là người được về thăm nhà thế là quý lắm rồi.
Trời còn chưa sáng rõ mặt người, Hằng đã ba lô khăn gói từ biệt các thủ trưởng và các bạn trong đại đội bộ lên đường. Chặng đường từ Kỳ Tây lên thị trấn Kỳ Hoa cũng khá dài và lại chẳng có loại xe chở khách nào nên Hằng đành phải đi bộ. Chưa đi được năm sáu cây số Hằng đã gặp đến năm, sáu cái ngầm. Ngầm nào cũng ngập nước thế là Hằng cũng chẳng buồn thay quần nữa mà cứ mặc ướt để đi. Đang mừng vì sắp đến Kỳ Hoa thì lại gặp ngay một cái ngầm nữa. Ngầm dài đến hơn ba chục mét mà nước thì lại có vẻ rất sâu. Những khối nước không biết từ đâu dồn về lao đi cuồn cuộn va vào bờ đá tung bọt trắng xoá, cùng với những khối nước sẵn có từ trước xoáy cuộn ào ào chảy từ bên này đường rồi đổ xuống bên kia đường với độ cao đến năm sáu mét. Chẳng dễ gì trụ lại trên những xoáy nước mặt đường mà không bị khối nước kia hắt xuống bên kia đường rồi trôi tuột đi đâu không biết. Thế là lại phải đợi mất mấy tiếng đồng hồ chờ nước cạn. Chắc chắn lại nhỡ chuyến xe đêm nay rồi, thật là ngán ngẩm hết chỗ nói.
Dòng nước vẫn chảy dường như không có dấu hiệu của sự thuyên giảm. Đường đồi vắng ngắt không một bóng người. Từ trên một sườn núi cách đó không xa vẫn còn đó hai sợi dây cáp của cây cầu treo thời đi bộ hành quân vào Nam. Thực ra cái thời vừa nói đến cũng chẳng xa gì bởi con đường 559 cũng mới được bắt đầu khai thác trong vòng sáu năm đây thôi. Bởi con đường từ KỳTây đi lên Kỳ Hoa cũng vẫn còn nguyên màu tươi mới của đất đồi đỏ dọi. Đâu đây hình bóng những cô gái mặc áo phòng không vẫn còn đâu đó ở trên đường cùng với những cuốc xẻng, quang gánh bên một đoạn đường đầy hố bom sâu hoắm. Những người con gái chỉ mới vừa mười sáu tuổi đã  bước chân vào cuộc chiến với sự quả cảm ít người sánh nổi. Trên đoạn đường ngầm này thôi, không biết đã có bao nhiêu người đã ngã xuống, không bao giờ còn trở lại quê hương được nữa.
Đang mải nhìn lên những sợi dây cáp trên đỉnh núi cao và suy nghĩ linh tinh nên Hằng không để ý từ phía bên kia ngầm đã xuất hiện hai người đàn ông, một già, một trẻ, đang đứng ngó nghiêng quãng đường ngập nước. Sau khi nghe hai người ở phía bên kia vừa trao đổi với nhau mấy câu bằng cái giọng của địa phương miền trong vừa sắn quần, sắn áo thì Hằng đoán rằng họ đang định vượt sông. Đến lúc này thì Hằng chăm chú theo dõi xem họ sẽ vượt sông như thế nào để rồi mình cũng sẽ bắt chước. Dù sao thì những người sống ở những vùng quê như thế này chắc họ sẽ biết được độ sâu nông, mạnh yếu của dòng nước hoặc ít ra thì họ cũng có kinh nghiệm vượt ngầm hơn mình.
Chưa đi được mấy bước thì cả hai người đã ngã nhào xuống mé đường, cũng may là đầu đường bên ấy khe nước không sâu lắm chứ không thì họ đã gặp nguy hiểm. Lóp ngóp lên bờ trong bộ quần áo ướt, trông họ thật đáng ngại. Cũng còn may là hôm nay trời không mưa rét chứ không thì họ cũng gặp nguy hiểm không kém. Mình thật là hy vọng hão huyền!
Còn đương dõi mắt nhìn về đầu ngầm bên kia thì đã có mấy người từ phía đằng sau tiến lại. Cũng không hiểu họ rẽ ra từ con đường nào mà trong đó lại có một cô bé mang theo một chiếc xe đạp. Có lẽ họ ở một khu nào đó ở giữa khoảng đường từ cái ngầm trước cái ngầm lớn này. Vừa nhìn thấy Hằng thì một người có độ tuổi trung niên cất giọng ồm ồm hỏi:
- Anh bộ đội đã đến đây lâu chưa hè?
Có lẽ người ấy muồn hỏi thế để dự đoán thời gian nước sẽ cạn xem có nên chờ hay là quay trở lại. Hằng chưa kịp trả lời thì người ấy lại hỏi tiếp:
- Rứa anh bộ đội đã có cách chi đi qua chưa?
Khi nghe hết hai câu hỏi vừa rồi Hằng chỉ mủm mỉm cười đáp lại và chỉ sang phía bên kia ngầm vừa kể cho cả mấy người nghe về vụ vượt ngầm không thành của hai người ở bên kia ngầm.
- Bác thấy đấy! Cháu cũng chưa nghĩ ra cách nào để vượt qua được đâu.
Nghe thấy Hằng nói vậy khuôn mặt người ấy cũng như buồn hẳn đi. Tuy vậy ông vẫn cất tiếng như là nói với mình:
- Chả lẽ phải quay trở lại…Thế thì nhỡ hết cả việc!
Chính trong lúc Hằng cùng người nhiều tuổi nói chuyện thì cả nhóm người vừa đến cũng rì rầm trao đổi với nhau. Cho đến khi câu chuyện của Hằng cùng ông già vừa kết thúc thì tất cả cũng đồng loạt im lặng, làm cho không khí càng nặng nề hơn. Cũng phải mất mấy phút không ai nói với ai lời nào mà chỉ còn mỗi tiếng nước chảy của con ngầm như sôi lên trong lòng mọi người.
Có lẽ mọi người đã chẳng còn hy vọng gì vào việc vượt ngầm nữa nên họ lại quay ra để hỏi thăm nhau. Người này thì hỏi người kia là người ở đâu đến người nọ thì hỏi người này là sẽ về đâu. Chỉ có mỗi Hằng cùng ông già là đứng im lặng nhìn dọc cái ngầm đang sôi lên từng đợt sóng. Vừa lúc đó ông già lại cất giọng ồm ồm lên cắt ngang dòng suy nghĩ của Hằng:
- Làm sao mà kỳ ni nước lâu rút vậy hè!
Trong khoảng thời gian tư duy ngắn ấy Hằng chợt nảy ra một ý nghĩ khá táo bạo, thế là Hằng trao đổi với cả sáu người mới đến về cách vượt ngầm của mình. Thực ra cũng chẳng có gì phức tạp lắm về cách vượt ngầm mà Hằng đề xuất. Cái chính là Hằng muốn lợi dụng việc người nọ lấy người kia làm cọc chống để chống lại sức nước mà thôi.
Nghe xong phương án vượt ngầm của Hằng, ông già lúc nãy liền đồng ý ngay. Tức khắc ông lại cất cái  giọng ồm ồm lên để đôn đốc mọi người:
- Choa biết các anh bộ đội là giỏi lắm he! Bây chừ tui sắp thế ni! Tui với anh bộ đội đứng ở mạn nước xuôi, cậu thanh niên tê thì đỡ cái xe đứng vô giữa, còn lại thì người ni nối người tê rồi cùng xuống một lượt nghe!
Ngay khi vừa mới xuống mọi người nghe có vẻ rất chới với, nhất là cô gái có cái xe đạp thì hình như run bắn cả lên. Thế nhưng đi được độ mươi bước thì cái vòng người có vẻ ổn định trở lại. Trong vòng tròn thì chỉ có tiếng của ông già, còn từ đầu bên kia là tiếng của hai người đàn ông hô hoán ầm ĩ át cả tiếng nước chảy.
Cuối cùng thì tất cả mọi người cũng sang được phía bên kia, mặc dù tất cả đều ướt như chuột lột. Nghỉ được một lúc, mọi người định đi thì lại phát hiện ra hai người ở bên này còn chưa đi được, thế là cả nhóm, trừ cô con gái, còn tất cả lại phải đưa hai người quay sang bờ bên kia rồi mới quay trở lại. Cả sáu người bắt tay chào nhau xong là hối hả lên đường. Nhìn những khuôn mặt hể hả vui tươi chào mình Hằng chợt nhớ lại lời ông già nói trước lúc chia tay:
- Choa biết, cứ khi nào có khó khăn mà gặp các anh bộ đội là choa không lo chi hết mô! Cách chi các anh ấy cũng vượt qua được!
Dù sao thì cũng phải có mọi người cùng chung sức, chứ nếu chỉ có một mình thì anh bộ đội của ông cũng cứ là phải chờ thôi đấy ạ! Một loạt những ý nghĩ trong đầu về dân vận và về nhiều điều khác nữa trong những năm tháng quân ngũ cứ lướt qua như những trang sách. Tất cả hầu như đều là những điều tốt đẹp và thật cao thượng.
Hằng đến Kỳ Hoa vừa kịp mua vé xe ra Bắc và chỉ sau một đêm quãng đường đã được rút ngắn lại, cho dù tầu hoả cũng vẫn chậm rề rề như mọi khi. Lọc cọc suốt hai ngày đêm rồi Hằng cũng đã về đến Hà Nội. Xuống tầu thì trời đã chiều nên Hằng không vào chỗ thím Đối mà về ngay nhà. Từ ga về nhà có lẽ cũng phải hơn chục cây số. Quãng đường như vậy đối với một đồng chí bộ đội đã từng rèn luyện đi Nam lại đã trải qua chiến đấu trên mặt trận Nam Lào thì mười cây số có đáng kể gì.


                                                             MẶT TRẬN

                                                1

Cũng thật là may cho đồng chí bộ đội vì vừa bước chân lên cầu Long Biên thì gặp ngay một ông cán bộ dân sự quần áo trắng tuốt đang cưỡi trên chiếc xe máy JaVa dừng lại ngay trước mặt mời lên xe cùng đi. Cho dù chiếc ba lô cứ giật bình bịch sau lưng mỗi khi xe đi vào các ổ gà nhưng Hằng cũng chả để ý. Trong đầu cậu chỉ còn nghĩ làm sao để có thể về nhà gặp mẹ và mọi người trong nhà nhanh hơn mà thôi. Vừa đi người cán bộ vừa hỏi anh bộ đội về tình hình chiến trường trong thời gian vừa qua. Suy nghĩ một thoáng rồi Hằng cũng kể một vài chi tiết về chiến thắng của quân ta cho người cán bộ vừa lòng. Có lẽ Hằng cũng chỉ có thể nói ở mức như đài đã nói mà thôi, vì nếu nói nhiều hơn nữa có khi lại vi phạm kỷ luật giữ bí mật của quân đội thì thật là không đáng. Đã có không ít những câu chuyện về giữ gìn bí mật trong tiết mục kể chuyện cảnh giác ở trên đài mà mọi người vẫn được nghe. Có điều để đối xử với một người tốt với mình như thế này thật không thể không làm cho họ có một chút hài lòng về những điều mà họ đang mong mỏi muốn biết. Chả lẽ mình lại có thể máy móc đến mức quá đáng thế chăng. Dù sao thì mình cũng là một quân nhân, kỷ luật buộc mình phải nghĩ và làm như vậy, cũng mong đồng chí thông cảm cho.
Vừa bắt đầu vào Ô Cách đã thấy quang cảnh lụt lội hiện ra ngay trên đường quốc lộ. Hàng ngàn những bao tải đất, cùng với những hòn đất nặn tròn như những cái bánh tàu hoả nằm rải rác trên khắp cánh đồng trước mặt và cả hai bên đường quốc lộ. Đây đó ngay bên vệ đường cũng xếp từng đống lớn những thứ mà nước đã cuốn chúng từ chỗ đê bị vỡ về đây. Có lẽ các địa phương có sông đi qua đã được lệnh chuẩn bị những thứ như vậy để phòng lụt và bây giờ đã được mang ra sử dụng. Có điều đáng lẽ tất cả những thứ này phải nằm ở chỗ đê bị vỡ thì mới chặn được nước, thế mà lại bị đẩy đi xa đến hàng chục cây số thế này thì chắc là chỗ vỡ to lắm. Bất chợt Hằng nghĩ không biết ở nhà có ai làm sao không? Căn nhà tranh nhà mình ọp ẹp quá không biết có bị trôi đi hay không? Gần cả đời mẹ mới có một căn nhà cho mình và các con, nếu lại bị đổ nát hoặc bị nước cuốn trôi đi mất thì chắc là bà buồn lắm.
Cuối cùng thì Hằng cũng về đến nhà, sau một hồi lặn lội từ đường quốc lộ vào làng. Có lẽ cũng phải đến gần một cây số Hằng phải đội ba lô lên đầu rồi dò dẫm trong nước mãi mới về được đến cổng làng. Ngôi nhà tranh nhà Hằng chưa bị đổ nhưng nước ngập ngang cột hiên. Cả khu xóm mới này vắng ngắt không một bóng người, không biết hỏi ai được về tình hình mẹ và em gái ra sao. Nghĩ lại trận lụt năm 1957 Hằng tin rằng có thể mẹ và em vào ở nhà anh Chìu chị Mão vì nơi này cao nhất làng từ trước đến giờ. Hằng đang bươn bả đi vào nhà anh rể thì gặp chị cả đi từ trong nhà anh rể đi ra. Hai chị em mừng rỡ túm lấy nhau hô hoán ầm ĩ cả lên. Thì ra chị nghe tin trên nhà lụt to nên cũng vội vàng thu xếp việc nhà rồi vội vã theo tàu lên từ mấy hôm trước.
Hai chị em vào nhà thì thấy mọi người tập trung khá đông đủ ở đây, mọi người hỏi thăm lẫn nhau ồn ã đến một lúc lâu mới tạm lắng đi. Lên thăm lụt kỳ này còn có ông bố và người anh chú Thành, chồng cô Hà cũng từ Thái Bình mới lên sớm nay. Cũng may cho kỳ phép đặc biệt lần này mà Hằng gặp được người nhà chú Thành, bởi khi hai người tổ chức cưới nhau Hằng ở chiến trường nên chẳng được biết tý gì.
Ngay hôm sau số khách các nơi ai nấy đều đã về cả bởi đã biết việc lụt lội cũng đã khá ổn định lại rồi huống gì việc ăn ở cũng rất chật chội. Hằng ở lại nhà mấy ngày với mẹ và em rồi lại cùng anh cả về Nam Định. Việc về Nam Định lần này là do anh cả đề xuất nhằm mục đích tìm cho Hằng một cô vợ để sau này Hằng sẽ ở lại quê để gây dựng cuộc sống cùng với anh cả gánh vác việc họ, việc nhà. Cũng thật không may là anh cả lại dính vào dịch đau mắt đỏ thế là chả đi được đến đâu, mọi dự định đành phải bỏ dở lại cả. Hai chú cháu Hằng rong chơi quanh làng, ngoài chợ vài ngày cho đến hết mấy ngày phép rồi Hằng lại lên đường về đơn vị. 

                              2
         
Gần một tuần lĩnh nhận quân tư trang và các loại nhu yếu phẩm, thuốc men, súng đạn kết hợp với học tập chính trị, toàn đơn vị đã bắt đầu lên đường làm nhiệm vụ. Vẫn là tiến vào vùng Cự Nẫm để rồi lên xe đi vào tuyến lửa. Những năm chiến tranh kéo dài không riêng gì các miền đất phải đương đầu với bom đạn là gặp khó khăn gian khổ. Những vùng quê miền trung quanh năm hạn hán kéo dài cũng khó khăn không kém những miền quê khác. Mỗi ngày các ông già bà cả, kể cả bọn con nít cũng chỉ có khoai và sắn. Vậy mà cả khoai và sắn cũng phải ăn dè, hạt tiện mới có thể tùng tiệm qua ngày. Cứ sau mỗi đợt chuyển quân Hằng lại đến một gia đình và Hằng lại thấy những người giống y như thế. Khó khăn là thế nhưng mỗi khi các gia đình có một vài anh bộ đội đến ở thì cả nhà náo nhiệt vui không thể nào nói hết. Có lẽ vì thế mà mỗi ngày xa gia đình những người lính phần nào vơi đi những nỗi buồn để phấn chấn hơn chuẩn bị cho những ngày ra đi sắp tới.
Nhớ lại ngày đầu tiên khi Hằng đến ngôi nhà lá của cụ Thêm ở Kỳ Thượng lại thấy buồn vui lẫn lộn. Khi Hằng và anh Như người Thái Bình vác ba lô đến thì chỉ thấy cụ chủ nhà đi thoáng qua rồi không trở lại. Thế là hai anh em phải chờ gần ba tiếng đồng hồ vẫn chưa có chỗ nghỉ ngơi, trong khi cả đại đội đều đã ổn định xong chỗ ở. Mỏi quá Hằng để cả ba lô trên hè rồi ngồi dựa vào bờ vách bằng gỗ ngủ thiếp đi. Khi thức dậy không thấy anh Như đâu cả đang định đi tìm thì thấy ba lô của anh vẫn để ngay bên cạnh. Đang chưa biết làm thế nào thì anh Như lò dò về đến sân, cùng đi với anh còn có trung đội trưởng Giao vừa đi vừa cười rổn rổn. Không biết có chuyện gì mà vui đến thế không biết, trong khi các tướng đã ăn ngon ngủ yên còn hai anh em người ta vẫn loay hoay ở một đầu hè.
- Tất cả là tại cậu đấy!
Thấy anh Giao vừa nói vừa nhìn vào mình, Hằng đâm nghi hoặc hỏi lại.
- Cái gì mà tại em hả anh Giao?
- Tại cậu là dân Hà Nội.
- Hà Nội thì làm sao?
- Chả là mấy năm trước có mấy toán thanh niên xung phong đến làm đường, họ chơi bời phóng túng quá mà bọn này toàn là dân Hà Nội thành ra cụ ấy có ác cảm với dân Hà Nội của các cậu.
- Nhưng mà em đã gặp …ông cụ ấy bao giờ đâu!
- Thì thế mới nên chuyện! Chả là khi phân phối nhà ở ông Nhu nhà mình lại còn giới thiệu thêm những cái tốt của cánh lính tráng chúng ta. Đâu là có văn hoá, có trình độ, sinh ra lớn lên ở những nơi có truyền thống để cho bà con dễ chấp nhận, nào ngờ nói đến cậu sinh ra lớn lên ở thủ đô thì ai cũng ngài ngại. Ông cụ chủ nhà các cậu lại đang ở đó thế là ông cụ kiên quyết tẩy chay, thế mới chết chứ!
Ngừng lại một lúc để lấy hơi vì sợ người khác chê nói dài, mà quả là cũng dài thật còn gì, anh Giao lại tiếp tục giảng giải
- Chỉ tý nữa là cụ chủ về thôi, chúng tớ đã giải toả tâm lý cho cụ ấy rồi, cứ yên tâm chờ đợi! Thế thôi tớ về nhé!
- Thế còn cơm nước thế nào?
- Thì tý nữa sang nhà trung đội ăn cơm! Lâu nay cậu có háu ăn, háu uống như thế bao giờ đâu? Nay mai vào trong ấy có khi còn nhỡ bữa đôi ba ngày là chuyện thường ấy chứ!
Lại tràng giang đại hải, hỏi mỗi nửa câu mà trả lời đến mấy câu liền, khiếp thật. Ông ấy mà là chính trị viên thì chỉ những họp rồi lê thê mà mệt chứ chẳng chơi. Nghĩ vậy nhưng thật ra trong lòng Hằng, anh Giao là người mà cậu rất tin yêu và  quý mến. Từ ngày về trung đội của anh, Hằng chưa bao giờ thấy anh nóng giận ai bao giờ. Cho dù là mấy cậu lính đồng hương Hải Phòng của anh luôn trốn trại đi chơi làm anh mất mặt, đến cánh lãnh đạo cấp trên ít tuổi hơn anh hay làm phách phê phán này nọ anh cũng chỉ cười ồ ồ rồi bỏ đi nơi khác. Anh có biệt tài hoà giải mọi người trong khi bất đồng quan điểm, kể cả khi bàn công việc lẫn khi đỏ mặt tía tai trên những bàn cờ đang vào nước bí. Cũng không biết thế nào mà khi các đối thủ đang căng nhau anh lại đưa tay vào bàn cờ của họ để rồi gỡ hộ bên này một nước, hoặc mách cho bên kia một vài nước mà họ lại đều để mặc cho anh thao túng. Cứ như thế cho đến khi các đối thủ say sưa trở lại cuộc chơi một cách êm thắm. Chuyện ngày thường là thế nhưng khi vào nhiệm vụ thì anh lại thay đổi khác hẳn. Từ việc phân công, giao nhiệm vụ đến việc kiểm tra kết quả công tác anh không bỏ sót một chi tiết nào. Đôn đốc nhắc nhở chi tiết, kỹ lưỡng đến chân tơ kẽ tóc, phê bình khiển trách cụ thể, sát sàn sạt đến tận mặt không vị nể một ai. Vậy nhưng hầu như chưa ai bất bình về những việc mà anh đã quyết định có liên quan tới họ, kể cả đó là những lời phê phán khá là nặng nề. Mọi người thấy anh luôn tròn trặn và không bận tâm nhiều về anh vì anh thật giản dị. Sự có mặt của anh trong đơn vị giống như là khí trời vốn dĩ lúc nào cũng sẵn có trong tự nhiên vậy. Một người lãnh đạo như thế tựa như của hiếm trong ngàn vạn con người. Ai sẽ là người nhận ra những viên ngọc sáng đẹp ấy để mà xếp vào đúng cái vị trí của nó. Những người tuyển ngọc vốn dĩ không là ngọc, thế thì họ biết thế nào về màu sắc, hình dáng của ngọc!
Cơm nước xong được một lúc thì đại đội tập trung điểm danh như thường lệ. Kể ra nếu như ở vùng gần nơi phường phố thì cái sự tranh thủ te tắt để ngó nghiêng quang cảnh một tý là cái việc thường xảy ra nên không hiếm những buổi đơn vị phải tổ chức đi tìm người. Còn ở nơi xa lắc này, chỉ toàn rừng rú thì việc kiểm tra con số cũng chỉ là làm theo nguyên tắc mà thôi. Thế nên cũng chỉ độ ba mươi phút là đơn vị đã giải tán, ai về nhà ấy. Đang định theo anh Như về nhà trọ thì cậu Luận xô đến bên:
- Thế nào rồi anh?
- Thế nào thì anh biết cậu hỏi cái gì?
Chưa kịp nghe Luận giải thích về câu hỏi vừa rồi đã nghe từ phía sau có giọng nói cất lên:
- Thì cái việc nhà trọ ấy?
Té ra là Kiệm thư sinh, không biết cũng đã đến bên cạnh từ lúc nào.
- Xong rồi! Xong rồi!
Cũng đã lâu lắm mấy anh em không có dịp trò chuyện cùng nhau, nhất là vừa rồi Hằng lại vừa về phép qua nhà vào. Sau một hồi trả lời hàng loạt câu hỏi của hai chàng trai trẻ Hằng cũng kể thêm sự gặp mặt với mấy cô gái Hà thành làm cho các chàng trai trẻ thích thú không khác gì nghe đọc tiểu thuyết tình yêu. Sau những câu chuyện của Hằng, những câu chuyện riêng của từng cậu cũng được bộc lộ với vẻ lo lắng bần thần.
- Không biết cô ấy có còn nhớ em không biết!
- Mới xa nhau chưa được một năm, làm gì mà đã nhanh quên đến thế!
- Anh không biết đâu! Bên cạnh cô ấy có đến ba bốn đứa nhằm vào, em lại ở xa! Cự ly như thế chắc là bất lợi rồi anh ạ.
- Đừng bi quan và cũng đừng coi thường chị em phụ nữ. Một khi người ta đã yêu thì họ phải say mình một điều gì chứ không phải họ yêu theo cảm tính đâu, thế nên các cậu chỉ cần chăm viết thư về là được.
- Thế mà vừa rồi em lại cứ phân vân mới chết chứ. Em sợ nói chuyện tình cảm nhiều rồi đến khi họ lấy người khác họ đem ra đọc cho nhau nghe rồi họ cười với nhau thì chán chết.
- Không bao giờ đâu! Cậu chỉ lo bò trắng răng mà thôi. Một khi đã đi với người khác họ lại lo cái người mới biết chuyện cũ còn hơn là lo gặp hổ đón hơi ấy chứ.
- Thế thì em phải viết thư ngay hôm nay mới được anh ạ.
- Thế còn thằng này thế nào?
Kiệm chậm rãi trả lời:
- Em thì chỉ mới thích cô ấy, chứ còn cô ấy thế nào thì em không biết.
- Thế thì đâu đã có gì được. Này nhưng lúc cậu lên đường đi bộ đội cô ấy đối với cậu thế nào?
- Từ khi em trúng tuyển nghĩa vụ, chiều nào cô ấy cũng sang chơi. Còn thằng Lượng ở ngay bên cạnh cũng đi với em một đợt mà chả thấy cô ấy đến thăm hỏi lần nào.
- Thế là yêu rồi! Sao mà dốt thế không biết! Người ta đợi cậu nói ra đến đỏ con mắt mà lại không nói gì có chết không cơ chứ.
- Không biết thế nào mà lúc chia tay em chỉ nói với cô ấy là thỉnh thoảng bạn đến chơi cho mế tớ đỡ buồn, cô ấy nói đồng ý thế rồi cô ấy cũng buồn lây theo em mà rơm rớm nước mắt anh ạ!
- Đồ con khỉ! Cô ấy làm gì phải buồn lây vì cậu mà cô ấy buồn vì phải xa cậu! Hiểu chửa đồ con khỉ?
- Thật thế hả anh?
- Chứ còn sao nữa!
Rõ là anh loà lại dẫn anh mù! Một anh chàng chưa yêu nổi một mối tình nào cho trọn vẹn lại đi hướng dẫn về tình yêu cho những người khác nghe thật tức cười. Nhưng dù sao thì giữa xứ mù có một anh chột cũng đã là có sự hơn hẳn rồi, nhất là anh ta lại có cái mốc tuổi đời nhiều hơn họ đến ba bốn năm chứ chẳng chơi.
Câu chuyện của những chàng trai trẻ chưa vợ thì có rất nhiều, nhưng vốn dĩ vẫn là những câu chuyện mang đề tài tình yêu là chính. Xin cũng đừng trách cứ họ thiếu bản lĩnh, thiếu ý chí trong lúc đất nước đang từng ngày hướng đến một mục đích lớn lao hơn, trong lúc xã hội đòi hỏi ở họ những điều to lớn hơn về trách nhiệm của những người lính mà họ lại nghĩ nhiều đến cái sự tư riêng như vậy. Tuổi trẻ thường là thế, cho dù bất kỳ ở thời nào họ vẫn luôn yêu hết mình, nhưng không phải vì thế mà họ không dám quên mình cho sự nghiệp chung của đất nước. Cho dù ngay sau những giây phút say đắm với những kỷ niệm thân thiết họ vẫn vững vàng lao vào cuộc chiến cho dù họ biết họ có phải hy sinh.
Ngay từ những ngày tập trung huấn luyện ở tỉnh đội bộ ba một già, hai trẻ này vẫn luôn gắn bó với nhau. Cũng không thể nói họ gắn bó với nhau vì một lý do nào cả vì họ đến với nhau rất tự nhiên không hò hẹn thề thốt kết nghì, kết ngãi. Tất cả sự gắn bó tựu trung lại chỉ là sự đồng cảm nào đó mà mọi người và cả chính họ cũng không thể nhận ra. Nhưng có một mối quan hệ mà ai cũng phải thừa nhận giữa họ đó là  những người đồng đội.
      
                          3

          Mới sáng ngày ra mà đã thấy cụ Thêm đi từ trên nương về. Chả biết có cái gì quan trọng mà thấy cụ đặt cái rổ xuống bên sân một cách khá thận trọng, trước khi vít cái cần tre cho cái gầu hạ xuống múc nước để rửa tay chân. Mặc dù cụ sống ở vùng thôn bản khá xa chợ búa và các vùng phường phố nhưng cụ cũng biết khá nhiều kiểu sống của các tầng lớp dưới xuôi. Qua câu chuyện cụ kể lại người ta tưởng cụ chỉ là người vùng xuôi lên chơi với con cháu ở trên này mà thôi. Sự kiện buổi đầu cụ gây ra cho anh Như và Hằng hầu như mọi người đã quên hẳn rồi. Mấy ngày gần đây cụ đối xử với hai anh em khá gần gũi và thân thiện. Tuy vậy cụ lại vắng nhà luôn nên cả hai anh em vẫn chưa có dịp ngồi với cụ, loại trừ vài lần cụ mang nước chè xanh ra mời hai anh em uống. Nước chè xanh thì Hằng không ham lắm nhưng anh Như thì có vẻ thích, nhất là vào buổi sớm và sau khi ăn cơm ở nhà bếp về. Cụ bà mất cũng đã khá lâu, các con gái thì đã về nhà chồng cả cho nên cụ chỉ có một mình. Sáng thì đi nương, trưa lại về nhà lo cơm, lo nước. Cái vòng tròn ấy hình như đã theo cụ từ lâu, bây giờ đã thành nề, thành nếp mất rồi. Những quan niệm về cách sống, cách cư xử của cụ giản dị như mọi người vùng cao khác trên đất nước mình. Quan niệm ấy đã truyền từ đời này sang đời khác cho dù nhiều năm gần đây phong trào Hợp tác xã đã mở ra nhiều mối giao tiếp giữa những người trong cùng thôn bản và rồi cũng có nhiều đơn vị, cơ quan sơ tán về cùng sống đưa đến khá nhiều kiểu văn minh và cũng mang đến khối chuyện phiền toái và không hợp với đạo lý của vùng quê này.
          Cũng không biết thế nào mà cách đây mấy năm có một đơn vị Thanh niên xung phong nói là ở Thủ đô vào ở nhờ một thời gian để chữa đườngC, đến khi rút đi rồi lòng dân có vẻ bất mãn quá, đến mức chỉ nghe nói là người Hà Nội là đã mất hết thiện cảm như cụ Thêm chủ nhà mà Hằng và anh Như trọ trong những ngày đầu khi hai anh em mới đến.
          Sau một hồi loay hoay cạnh cái giếng cụ Thêm cũng đã vào nhà với cái rổ trong tay. Cụ đi thẳng tới trước mặt hai anh em và chìa cái miệng rổ ra nói với anh Như:
- Bên vườn có quả mít chín, ta mang về mấy ông con cùng ăn.
Anh Như vội xua tay nói:
- Cụ để cho các cháu bên các chị ấy dùng, anh em chúng con cũng đã ăn bên cụ Phúc hôm qua rồi.
Cụ Phúc là chủ nhà anh Giao trọ, cụ có đến vài chục cây cối các loại trong vườn, riêng mít cũng có đến sáu bẩy cây. cụ Thêm biết vậy nhưng cụ vẫn cố ép hai anh em cùng ăn:
- Bên nhà chúng cũng có, với lại hôm rồi ta cũng cho chúng một quả to rồi, cái này là cho ông con mình nếm xem quả vụ này có khá hơn không.
Nói chưa dứt lời cụ đã đi xuống bếp để lấy dao lên bổ mít.
Từ khi đến đóng quân ở vùng này Hằng cũng đã nhận thấy đây là vùng quê có khá nhiều khó khăn về kinh tế. Thóc gạo xem ra không có mấy, thức ăn thường ngày của cả vùng là những bữa cơm độn một gạo có đến hai, ba ngô hoặc sắn khô. Thức ăn thì hầu như không mấy khi mua ở chợ . Phần vì chợ xa, vả lại người dân ở đây cũng rất hiếm tiền, chính vì vậy nên ra rừng kiếm được cái gì thì ăn cái đó. Khi thì là con cầy, con rúi săn được, nhưng mà rất hiếm, còn lại chủ yếu là các con vật nuôi trong nhà cùng với đôi ba vạt rau còi cọc vì thiếu nước trồng ở trong vườn. Thoảng hoặc có thu hoạch được vài loại hoa trái thì lại đem xuống chợ bán lấy tiền mua lấy ít muối, đường cùng các vật dụng cần thiết khác. Món mít xanh cũng là một nguồn thức ăn dự trữ của mọi nhà ở các dạng muối, xào, kho để có chút mặn mồm nuốt trôi đôi ba bát cơm độn thường ngày.
Mỗi lần qua bếp anh nuôi ăn cơm xong Hằng cũng hay lọ mọ xuống chỗ anh Toán anh nuôi trưởng ngồi chơi. Thực ra thì Hằng xuống xem có cái gì ăn được là Hằng xin về cho cụ Thêm. Anh Toán cũng biết vậy nên hôm thì ít muối, ít mỡ xào rán còn lại, cũng có khi là một phần của hộp thịt đã chia cho các mâm còn lại anh cũng đưa cho Hằng. Những khi có chút gì Hằng mang về cho cụ Thêm đều cất đặt khá kín đáo rồi cái thì đem cho mấy đứa cháu, cái gì ít ỏi một chút thì cụ để lại cho mình. Cũng không phải ngay từ đầu cụ Thêm đã nhận những thứ Hằng mang về ngay đâu. Cụ ngờ vực Hằng bớt xén để mang về rồi đơn vị sẽ phê bình, về sau nghe Hằng giải thích mãi cụ mới thôi không cật vấn nữa.
Cũng phải đến gần một tháng ở trong nhà cụ Thêm, giờ đây hai anh em mới lại tìm thấy nét tươi vui hài hước của cụ. Những câu chuyện về gia đình và bản thân cụ lần lượt được cụ kể lại cho hai anh em nghe. Đâu là chuyện đi săn thú trên rừng, chuyện vui tết của ngày xưa, cả chuyện cụ phải lòng cụ bà như thế nào cũng được kể ra. Thế rồi cụ lại nói đến đám người ngày xưa đã trọ trong nhà cụ, từ việc họ ôm ấp nhau ra sao đến chuyện họ gần gũi quá đáng cùng nhau làm cho cụ thấy nó khó nhìn và đáng xấu hổ. Mỗi lần nghe đến đó Hằng lại phì cười rồi bao biện cho đám người nọ:
- Đó là bố chưa quen gặp cảnh này bao giờ mà thôi! Người nước ngoài họ cho đó là chuyện bình thường bố ạ.
- Đấy biết ngay mà! Đã là dân Hà Nội anh nào chả thế! Chẳng qua là cánh Hà Nội kỳ này chỉ có mỗi mình cậu nên cậu bất lực mà thôi. Cho dù thế nào thì bố cũng không tán thành cách sống như vậy. Vừa lúc đó anh Như xen vào:
- Bố có biết cái Xoan cháu ngoại của bố đang nhắm vào đứa nào không? Nó đấy bố ạ! Cậu ấy còn phải trốn không dám gặp để tránh sự phê bình của ông Giao đấy! 
Vừa nói đến đây thì cụ Thêm bật quát lên:
- Này anh đừng tưởng anh là người văn minh mà anh coi thường cháu tôi đấy nhé! Cả bản chỉ có mình nó là xinh nhất thôi đấy, anh còn đòi gì hơn nữa nào.
- Thế nhớ! Nếu mà mai đây nó lại mang văn minh đến cho cháu của bố thì làm thế nào?
- Cháu của ta chắc hẳn là nó không như thế chứ…!
Cụ Thêm hơi lưỡng lự vừa như trả lời anh Như, vừa như tự nói với mình về sự ngờ vực không biết cháu mình nó có tránh được cái sự ấy không? Cái Huyền nhà bà Tám chả bảo chín chắn đó sao thế mà rồi cũng trốn nhà đi biệt có thấy về đâu.
- Này thế mày đã thế nào với cái Xoan hả?
- Bố cứ yên tâm đi cô ấy còn ít tuổi, mà con cũng có người yêu rồi.
- Chả lẽ cháu của ta không bằng người yêu gì đó của cậu à?
- Không phải thế, chỉ là cháu làm sao lại có thể bội bạc với ngườì yêu của cháu được!
- Cậu ấy và cô bạn gái đã chia tay từ nửa năm trước rồi, nó chẳng còn cô nào nữa đâu bố ạ.
- Thế sao cậu lại dám dối bố thế nhỉ?
- Chả là tại bố cứ lo cháu của bố hư hỏng nên…
Cụ Thêm vội cướp lời:
- Này cái việc ấy thì bố cũng đã xem trên chiếu bóng rồi. Liên Xô họ cũng thế thì chắc cũng không có gì là xấu. Nhưng dù sao thì cũng ở chỗ kín chứ cứ đứng giữa đường mà cũng thế thì người ta phải phê phán thôi.
- Có nghĩa là bố đồng ý cho nó được ấy... chứ gì?
- Ấy là thế nào? Chỉ được hôn nhau thôi nhưng mà không được cho ai nhìn thấy, nhỡ sau này các cậu không về đây nữa, bỏ rơi nó thì làm thế nào?
Cụ Thêm nói một thôi một hồi mà vẫn sợ hai người này không hiểu ý mình. Chẳng qua là cụ cũng kết một cậu cháu rể như kiểu này rồi nhưng lại sợ cháu mình cũng quá yêu rồi để quá ra thì mang tiếng nên cụ không biết nói như thế nào cho thoả đáng. Thấy cụ có vẻ lúng túng anh Như cũng thôi không trêu cụ nữa, anh bảo với ông cụ:
- Bố yên tâm đi, đơn vị chúng con là đơn vị chủ lực của bộ nên cán bộ, chiến sĩ không ai được vi phạm kỷ luật đâu.
          Mặc dù cái việc đơn vị chủ lực là gì, nó có quan hệ thế nào đến mối tình của bọn con trai, con gái hay không thì đến người nói ra cũng chẳng hiểu nữa là cụ Thêm, nhưng dù sao thì câu nói đó cũng làm cho cụ yên lòng hơn.
          - Chuyện rông dài mãi, ta phải đi mượn cái thang để lấy cái gầu lên kẻo không có cái gì múc nước nấu cơm bây giờ đây.
          - Sao bố không làm cái dây bằng sắt cho chắc mà lại làm bằng dây rừng cho hay đứt.
          - Dây sắt cũng không chịu được đâu, ta cũng đã làm rồi mà không được vì nó cứ oải cái móc ra, thế là lại tuột.
          - Không sao đâu, con đã làm cho nhiều người rồi, múc cả thùng to vẫn không đứt, không tuột được. Con đã thấy bố có đám dây thép tráng kẽm kia rồi, bây giờ chỉ cần một cái chạm chặt và một cái búa là xong thôi.
          - Các thứ thì có nhưng không biết cái dây có chịu được không?
          - Bố cứ yên tâm đi, con làm nhiều lần rồi mà.
          Thế là ông cụ bê cả đám đồ nghề bụi bặm trong gậm giường ra cho cậu, tuy rằng trong bụng vẫn không tin là cậu có thể làm được. Có lẽ cụ cũng định cứ để cho cậu thất bại, rồi quyết đoán là cậu nói ngoa để rồi lấy cớ răn đe cô cháu gái nên cụ chấp nhận tốn ít dây thép mà cụ nhặt nhạnh từ hồi còn chiến tranh để lại.
          Hằng tìm trong đống đồ cũ đưa ra hai đoạn sắt phi sáu dài đến mười phân rồi đóng xuống tấm gỗ dầy mà cụ Thêm vẫn làm đòn kê. Từ một cái cọc sắt Hằng quấn một vòng tròn vào đó xong rồi kéo sang cái cọc  sắt thứ hai quấn tiếp hai vòng tròn khác. Cứ như vậy mà quấn sau một hồi cậu đã có đến hàng chục đoạn dây thép với hai vòng tròn ở hai đầu dính liền vào nhau. Sau khi đã quấn được nhiều các đoạn dây giống nhau Hằng liền tháo các đoạn dây rồi chặt từng cái rời ra. Cứ để nguyên như thế Hằng bẻ gập chỗ giữa của đoạn dây để hai vòng tròn hai đầu chập vào nhau. Cứ hai vòng đầu của đoạn này móc vào đoạn uốn giữa của đoạn kia rồi dùng búa gõ cho kín các vòng tròn đầu lại thế là các đoạn nối liên tiếp với nhau kéo dài mãi ra. Hằng làm chỉ trong một buổi nghỉ mà được hơn mười mét vừa đủ độ dài của giếng.
          Cũng không ngờ cuộc thử dây lại náo nhiệt đến thế. Hàng xóm có, bộ đội có, con cháu của cụ Thêm nghe tin cũng đến, lẽ dĩ nhiên là có cả cô Xoan cháu gái của cụ Thêm với đôi mắt lúc nào cũng ánh lên tia sáng như muốn thiêu cháy cái anh bộ đội ở nhà của ông mình. Sau khi đã gắn vào dây cả cái thùng gánh nước, một chàng thanh niên thả thùng xuống giếng rồi thì lắc, giật một lúc lâu mà cái thùng cũng chẳng chịu rời ra và thùng nước đã được kéo lên đầy ắp. Cũng không thiếu những người còn chưa tin về sự chắc chắn của dây, họ vẫn kéo giăng ra để tìm xem có chỗ nào khả dĩ có bị oải ra không. Cũng không bao lâu sau người ta đã thừa nhận là cái dây có thể chịu đựng được sức vóc của thùng nước và rồi họ cùng cười chia vui với cụ Thêm. Lẽ dĩ nhiên là cụ Thêm đã quên từ lâu cái sự nghi ngờ đối với chàng trai nọ. Cụ không còn ngại về cái việc cháu gái của cụ mê say anh chàng bộ đội quê ngoài Hà Nội đang ở nhà mình nữa. Còn một điều mà cụ để ý kỹ hơn xem cái con cháu gái của cụ có mê trai thật hay không. Tất nhiên là cụ phải thừa nhận thôi vì cụ đã thấy cháu của cụ chả để ý gì đến thử dây mà suốt cả buổi con bé chỉ hút mắt vào cái bóng xanh biêng biếc nọ. Cụ thở dài: Thế có chết không cơ chứ!
          Không quá ba tháng sau đơn vị lại rời quê hương của cụ Thêm để lên đường đi chiến đấu. Anh Như thì đã chuyển đơn vị về tuyến sau, chỉ còn mỗi một mình Hằng chia tay với ông cháu của cụ Thêm. Câu chuyện say đắm của cô Xoan cháu cụ Thêm cũng chưa kịp phát triển bởi Hằng luôn cố gắng xa lánh cho dù cô Xoan đã cố tìm cách thể hiện mối cảm tình của mình mà chàng trai nọ vẫn cứ lơ lửng vậy. Điều này thì Hằng biết nhưng mà Hằng có sự quyết tâm từ nhiều lần trước đã thành kinh nghiệm rồi nên mọi sự rồi cũng qua nhanh chóng. Cô Xoan cũng chỉ nước mắt lưng tròng một chút vậy thôi.
          Chỉ còn ba mươi phút nữa là đơn vị sẽ xuất phát. Trong mấy ngày qua Hằng đã thu thập được một số quần áo dư thừa của mình và cả của mấy cậu bạn mà không phải thu cũ đổi mới gói vào một bọc khá to. Hằng lại xin được một cái mũ cối còn khá mới gói vào một tờ báo cũ để lại trên tấm phản mà Hằng và anh Như vẫn nằm ngủ. Bắt đầu nghe còi của anh Giao cất lên ở đầu xóm Hằng mới gọi cụ Thêm lại để đưa cho cụ số đồ dùng nọ. Cụ cứ ngần ngại từ chối, Hằng phải động viên mãi cụ vẫn chưa chịu nhận:
          - Tất cả những thứ này cho dù có thu về rồi cũng huỷ bỏ mà thôi, con muốn để lại cho bố và mọi người dùng cho khỏi phí, huống chi ở mình còn nhiều người rách rưới quá, ngay bố cũng vá víu nhiều như thế cơ mà.
          - Bố ngại rồi trong thôn bản họ sẽ không nghĩ như thế, họ cho là bố lợi dụng!
          - Biết vậy nên con đã viết giấy nói rõ việc này rồi lại còn có cả ý kiến của anh Giao trong ấy nữa đấy bố ạ. Ai hỏi bố cứ đưa giấy ra cho họ là được.
          Vừa lúc đó anh Giao cũng vào đến cửa:
          - Thế nào! Hai bố con chia tay xong chưa, ra tập trung thôi chứ!
          Cả hai cùng chào ông cụ Thêm rồi bước ra, cũng vừa lúc ấy ông trưởng thôn vào đến trước cửa, ông  cất giọng nói với cụ Thêm:
          - Việc này chúng cháu đã biết rồi, cụ cứ nhận để mà dùng cụ ạ! 
          Từ trên khuôn mặt già nua của cụ Thêm phảng phất một nỗi buồn mà cụ ít khi thể hiện ra ngoài mặt, cụ giơ tay lên như vẫy chào tạm biệt hai người chiến sĩ, mồm mấp máy không nói thành lời, mắt thì nhìn về một nơi xa đến vô cùng, vô tận. Có lẽ cụ nghĩ về cái nơi mà những người chiến sĩ sắp đến, cụ hiểu rồi những con người tốt ấy sẽ gặp chuyện gì và rồi cụ cầu khấn mong cho họ tránh được mọi sự nguy hiểm, luôn gặp được những điều may mắn. Đoàn quân đã ra đi và chàng trai Hà Nội ấy cũng không có điều kiện để trở lại vùng quê ấy nữa. Trong lòng của chàng trai ấy vẫn luôn nhớ về một vùng đất nghèo về vật chất mà giầu tình người. Câu chuyện về tình dân như thế đâu có gì đặc biệt và đâu chỉ có ở riêng một vùng nào. 

                            4

          Gần đến sáu giờ chiều đơn vị mới bắt đầu tập kết về bãi xe để chuẩn bị lên đường. Suốt cả buổi chiều mọi người làm các công việc chuẩn bị mà có vẻ như vẫn chưa xong. Đâu là vài cuốn sổ, cây bút máy, đâu là mấy bộ quần áo lót, rồi thì tăng võng, hộp thuốc cá nhân. Vài anh nghiện thuốc lào thì còn nhiều thứ nữa, đâu là cái bật lửa, bình xăng để tra bật lửa. Những gói thuốc dự trữ được vò đi ép lại sao cho nhỏ nhất để ba lô còn đựng thêm trăm thứ bà rằn khác nữa. Những thứ bắt buộc ai cũng có như súng đạn, bao gạo thì không thể làm thay đổi khối lượng được nên mọi người chẳng để tâm đến việc sắp đặt làm gì, chỉ cần khoác lên thế là xong. Hằng kiểm lại chiếc ba lô của mình lần cuối để tránh bị bỏ lại những thứ cần thiết cho sau này. Hai bộ quân phục, hai bộ đồ lót, cả cái áo sợi có hàng khuy trước ngực màu cỏ úa mà anh em quen gọi là áo bà Định. Bà Định không là ai khác mà là bà Nguyễn Thị Định Phó tư lệnh quân giải phóng miền Nam lúc bấy giờ. Cũng không biết cơn cớ gì mà anh em chiến sĩ lại gọi đó là áo mang tên của bà. Những chiếc áo sợi kiểu này khá giống những chiếc áo len hoặc sợi vẫn bán ở miền Bắc cho các bà các cô dùng. Một mặt nó lại chỉ được cấp khi họ sắp làm quân giải phóng của bà nên có lẽ vì thế mà họ gọi đó là áo bà Định. Ngoài những thứ của riêng, Hằng còn phải mang cho đại đội một số quân cụ và còn có cả một bọc khá lớn mềm trơn. Có lẽ đây là các loại cờ quạt, giấy má mà đại đội cần dùng cho các cuộc học họp. Công việc chuẩn bị chỉ kết thúc khi tất cả đã lên xe để đi vào mặt trận.
          Đoàn xe đã bắt đầu chuyển bánh từ từ lượn trên những đoạn đường cuối của miền đất phương Bắc. Những bãi khách đã không còn ai ở đang trơ ra những hàng cọc buộc võng mà mọi người để lại từ những đêm trước. Không riêng gì đơn vị của Hằng ra trận, bởi có nhiều bãi khách vắng như thế này.
          Tất cả những người lính hầu như đều im lặng ngồi trong xe và nhìn ra hai bên đường như cố thu vào tầm mắt những hình ảnh thân thương của miền Bắc trước khi bóng tối che đi tất cả mọi thứ. Những gì đã sảy ra trong những ngày gần nhất và cả những gì đã sảy ra trong quá khứ hầu như đều hiện lên tất cả trong đầu. Thế rồi đến hình ảnh của những người thân, những bạn bè và cả những người phụ nữ đã quen biết trong những ngày qua cũng hiện lên cùng với những hình thân mật trìu mến nhất của họ mà Hằng đã cảm nhận và có ấn tượng ở họ. Có rất nhiều cuộc ra đi đã từng sảy ra trong mỗi đời người ví như rời nhà đi chơi đâu đó ở nơi họ hàng dăm ba ngày rồi lại về. Có những lần ra đi xa nhà lâu hơn như đi học nghề, đi làm việc nhưng rồi cũng lại trở về cho dù có lâu hơn một chút cũng đã làm cho ta xao xuyến, nhớ nhung.Tuy nhiên những khoảnh khắc ấy nhanh chóng tan đi, nhường cho các trạng thái bình thường trở lại để con người vui vẻ và cởi mở như trạng thái vốn có. Nhưng lần ra đi này đã không như thế bởi ngoài cái xao xuyến, nhớ nhung còn một điều ta phải nghĩ đến đó là lần ra đi này đã đành là rất lâu mới trở lại và rồi còn có thể trở lại được nữa không mới là điều đáng phải nghĩ đến. Ta hiểu sự hy vọng vượt qua được sự nguy hiểm và cái chết trong chiến tranh là điều không tưởng, sự hy vọng ở đây chỉ còn là sự cầu may mà thôi. Tuy nhiên như vậy nhưng con người ta không chỉ nghĩ về một điều đó, sự lôi cuốn của cả xã hội, sự hứng khởi vì một sự quang vinh, sự thù hận vì một hành vi tàn ác đối với đồng loại, sự ganh đua cho cái hơn hẳn của cá nhân, của đồng bọn, đồng phe với mình cũng là những xúc tác để con người dẹp bỏ đi tất cả mọi điều để dành cho điều đó. Những lúc ấy cái nguy hiểm và cả cái chết cũng bị coi là nhỏ, nhờ thế mà có bao sự tích anh hùng làm cho chính ta và cho cả kẻ thù của ta cũng phải nể phục. Tất nhiên là họ ngạc nhiên và nể phục bởi vì họ đâu có ở trong cái không khí đầy chặt ý niệm như vậy, họ đâu có đau thương, đâu có mất mát gì để mà phải cố giành giật lại. Cái của họ là chiếm lấy bằng sức mạnh, chiếm lấy để thoả mãn sự tham lam vô lối mà thôi. Tuy vậy họ cũng không phải không cố sống, cố chết để giữ bằng được những thứ mà họ sắp sửa chiếm được, vì họ cũng đã mất nhiều công sức cho cái mưu đồ nhơ nhuốc ấy, họ cũng đã mất không ít của nả, công sức và cả sự sống nhiều người của chính họ. Một điều đáng kể nữa là họ đã bị nhục nhã khi cái sức vóc hổ, báo của họ lại bị thua bởi con giun, cái kiến và rồi còn bao con giun, cái kiến khác đã ở trong tay họ, đang ở trong tầm ngắm của họ cũng sẽ tuột khỏi, cũng sẽ coi khinh họ, như thế thì làm sao mà họ không cố sống, cố chết trong cuộc chiến này… Cũng chỉ là tự mình nghĩ ra mọi chuyện như thế, rồi lại tự đưa mình đến với cao trào của sự yêu thương, sự bất bình, sự căm thù và rồi chỉ còn lại một điều duy nhất đó là sự quyết định rằng ta không thể tiếc xương máu trong cái sự nghiệp lớn lao này của dân tộc. Ta sẽ chiến đấu thật dũng cảm và không ngại ngần hy sinh một cách anh dũng như những người đồng đội đã đi trước vì mọi người, vì gia đình và Tổ quốc. 
          Những chiếc xe Vọt Tiến của Trung Quốc viện trợ dùng để chuyển quân cứ nối tiếp nhau lao đi trên những quãng đường rừng, đường đèo tối om om dài như vô tận. Những quầng sáng đèn gầm chỉ nhỏ bằng cái sàng làm sao có thể soi nổi con đường phía trước, thế mà những người chiến sĩ lái xe vẫn chẳng cần giảm tốc độ. Có lẽ họ đi theo sự quen thuộc trong đầu chứ không phải dựa vào bóng sáng nhỏ nhoi kia. Những cú xóc tung lên, hạ xuống cứ liên tiếp xảy ra làm cho người ngồi trên xe cũng nảy lên, nảy xuống như xóc ốc. Những cú ngoặt tựa hồ như muốn hắt người từ góc này sang góc khác nếu như họ không bám chặt vào thành xe và không ngồi sát vào nhau. Ánh sao mờ tỏ trên những khoảng rừng thưa như hé mở cho ta nhìn thấy sự nguy hiểm hầu như lúc nào cũng có thể xảy ra, bởi khi đầu xe đã nhô ra sát mép bờ vực mà vẫn chưa thấy đoạn đầu cua ở đâu. Quả thật nếu không quen thuộc chắc là cả xe và người đã xuống thám hiểm đáy vực từ lâu rồi. Những gì có thể nói về người chiến sỹ lái xe hết đêm này sang đêm khác vẫn đi, về trong hiểm nguy, trong bom đạn. Đâu có phải cứ ôm súng lao vào cửa mở mới là những anh hùng!
          Sau rất nhiều lần bò lên những cái dốc dài vô tận đoàn xe cũng đã lên đến một đỉnh cao. Từ đây đã nghe thấy tiếng máy bay L19 của địch lượn lờ, cùng những chùm đèn dù vàng ệch ma quái trên đầu. Những đám cháy lân tinh xanh lét ngún khói trên những thân cây đen xì chồng đống lên nhau. Cả một bầu không khí chứa đầy mùi thuốc bom khét lẹt.
          Chỉ đi thêm một đoạn nữa thì cả đoàn xe phải dừng lại vì phía trước con đường đầy bùn nước không sao tiến lên được. Một khẩu lệnh nhỏ truyền từ người này sang người khác: Tất cả mang quân trang, súng đạn xuống xe! Tất cả mang quân trang, súng đạn xuống xe!... Thế có nghĩa là đã đến chiến trường rồi đấy! Có nghĩa nơi ta đang đứng đây cũng chính là gianh giới của hoà bình và chiến tranh! Gianh giới của hoà bình và chiến tranh chỉ là một quãng đường ô tô không quá ba tiếng đồng hồ vậy thôi sao? Thực ra gianh giới của vùng này sang vùng khác cũng chỉ là ước lệ vậy thôi. Với từng gia đình thì bên này hàng rào là sân vườn nhà mình, còn bên kia hàng rào là sân vườn nhà khác. Thế nhưng gianh giới của hai làng, hai tỉnh, hai nước nhiều khi chả có cái rào nào để mà ngăn chia. Gianh giới của hoà bình và chiến tranh cũng vậy thôi. Mọi cái luôn ở cạnh nhau, mọi cái luôn ở trong nhau, luôn hoà trộn vào nhau. Mái đồi bên này khô khan chết cây, cháy lá, mái đồi bên kia mưa chảy nước trôi. Mái đồi bên này là hoà bình yên vui, còn mái đồi bên kia là chiến tranh, bom đạn.
          Có lẽ mùa mưa phía sau dãy Trường Sơn đã bắt đầu khá lâu rồi nên ngay trên đỉnh đồi mà bùn vữa ngập ngụa đến là khủng khiếp. Vừa mới đi được một đoạn ngắn mà anh nào anh ấy cũng đã thấm mệt. Mà không mệt sao được khi mỗi bước chân đều ngập trong bùn sâu gần đến háng. Đang mải miết bước lên cho kịp hàng quân phía trước thì nghe tiếng cậu Luận gọi réo lên ở phía sau:
          - Anh Hằng ơi lại kéo em một tý, chân em mút chặt xuống bùn rồi!
          - Đợi một tý, anh cũng đang dính chặt dưới bùn rồi đây.
          Không biết làm sao vừa mới bước đi ngon thế mà mới chỉ dừng lại nghe cậu Luận gọi thì chân lại dính chặt xuống bùn thế này không biết.
          - Cậu phải tự tìm cách thoát lấy thôi, ông anh của chú cũng như có nhựa gắn xuống bùn rồi đây này.
          - Thế chả lẽ cứ đứng mãi ở đây hả anh!
          Hằng đang cố sức xoay bàn chân cho đám bùn vữa rộng ra nên cũng chẳng kịp trả lời Luận nữa. Hết ngả người ra phía trước, rồi lại ngả người về phía sau mà đám bùn cũng chỉ rộng ra một chút. Dù sao thì cũng cứ thử rút chân lên xem sao. Sau một hồi cố hết sức bình sinh thì chân cũng đã rút lên được một tý nhưng mà chỉ là chân thôi còn giầy thì nằm lại không chịu theo chân lên nữa.
- Này Luận ơi! Cậu làm thế nào cho giầy nó tụt ra là rút chân lên được đấy.
- Thế thì làm gì có giầy mà đi hả anh?
- Đành vậy thôi, đơn vị đi xa quá rồi.
- Nhưng mà em buộc chặt quá không sao rút ra khỏi giầy được.
- Thì cố xoay cho bùn vào trong khe chân là nó tuột ra thôi.
Cũng phải mất một lúc thì hai anh em mới thoát ra khỏi vũng bùn, đành chịu để đôi giày ở lại. Cái lỗi này là do mình gây ra mà thôi, trách ai bây giờ. Thực ra thì khi sức nặng cơ thể dồn vào chân làm cho nó lún sâu xuống bùn thì đồng thời cũng tạo ra một cái lỗ, nếu ngay sau đó rút ngay lên thì không sao, nhưng nếu để một lúc thì bùn xung quanh dồn đầy vào, một mặt chặn lên trên, đồng thời vùng đế giày lại bị rút hết khí thành chân không, thế là lại bị ép mạnh hơn. Cách tốt nhất là cựa chân sao cho có khe hở cho khí tràn vào là rút lên được. Có điều là ngoáy mãi chân thì bùn vào cả khe chân và giày làm trơn tuột chân lên còn giày thì nằm lại. Một cách lấy cắp giày của ông thần bùn thật là hữu dụng, không chê vào đâu được.
Sau mấy giờ đi bộ trong bùn vữa dưới ánh sáng lờ mờ của các vì sao thì trời cũng dần dần sáng. Hết len lỏi qua các rặng cây lại leo thang qua các vách đá, hết bám dây song co mình lên dốc đứng, lại sờ xẩm, dò dẫm lội dọc suối, rồi thì buộc phao bơi vượt qua sông, mãi đến khi đi cắt ngang đường Chín thì trời đã sáng rõ. Nếu không có tiếng máy bay ì ầm trên đầu thì với quang cảnh ấy cũng chỉ như đi dã ngoại trong tập luyện ở ngoài Bắc mà thôi. Điều đáng để nói là từ đây mới thật sự bắt đầu vào đường dây ra trận. Từ đây đã bắt đầu là chiến trường, mà chiến trường thì không thể nói chơi được. Chiến trường là chiến đấu, là gian khổ, là xương máu hy sinh, đâu có giản đơn như diễn tập. 
Khi cả đơn vị về đến bãi khách tiếp theo thì trời đã tối, mọi người vội vàng buộc tăng võng lên những thân cây đã nhẵn thín vì các đoàn quân đi trước đã cọ quệt, đã chà xát sau mỗi đợt quân vào. Sau bữa cơm dã chiến cả trung đội tập trung để nghe quán triệt nhiệm vụ cho những ngày sau. Thật may là vị trí bãi khách của đơn vị tập kết lại không gặp mưa nên các chàng trai đều đã lên võng nghỉ ngơi. Bộ quần áo ngâm bùn đêm trước đã được gột sạch trong lúc lội suối giờ cũng đã khô và cứng còng. Hằng nằm yên trên võng thả lỏng người để lắng nghe những âm thanh xung quanh, mặc kệ các lớp vải cứng cứ cọ vào da thịt. Đôi chân đã rời rã sau một ngày bươn trải với một cường độ cao nhất từ trước đến giờ cũng không thèm động đậy. Tuy vậy nhưng Hằng cũng không thể ngủ ngay được bởi phiên gác đầu tiên nơi bãi khách lại là phiên gác của Hằng và Lượng sẽ phải bắt đầu sau mươi phút nữa.
Những ồn ào của hàng trăm người đã át đi mọi âm thanh khác của rừng đã có sẵn từ cái thời nguyên thuỷ xa xôi nào đó, giờ đây chợt vang lên như một bản hoà tấu với trăm ngàn cung bậc khác nhau. Rất nhiều âm thanh không biết của loài nào lại cứ ri ri rỉ rỉ. Cũng có âm thanh cứ buông ra đều đặn tiếng một tựa như tiếng gõ nhịp trong các bài hát dân ca. Cũng có nhiều âm thanh rất quen thuộc giống như những âm thanh vẫn phát ra sau vườn nhà những khi còn nhỏ đã từng nghe thấy trong khi chơi trò trốn tìm vào những đêm trăng sáng. Đôi chỗ vẫn còn vài cậu chưa chịu ngủ, thoảng hoặc lại lào thào với nhau không biết chuyện gì đó bên cánh võng ở cuối của bãi khách…
Đã hết phiên gác lâu rồi mà Hằng vẫn chưa sao ngủ được. Những hình ảnh thân thuộc về quê hương§, nơi người cha của cậu đã sinh ra và lớn lên ở đó. Cái làng Tây Lạc cùng những cái ao đầy bèo tấm và khoai nước liên tiếp nối nhau vừa lướt qua, lại đến những hình ảnh gần gũi về con đường đất với hàng xà cừ cao lớn, cùng với khu đầm sen rõ rộng, luôn toả hương thơm trong những mùa hè đầy nắng và gió ở cái làng Đồng Dầu, một vùng đất thuần nông của ngoại thành Hà Nội, nơi Hằng đã sống cùng với cha mẹ và những người thân suốt cả một thời tuổi nhỏ.
Mảng trời sao lộ ra từ tán rừng thưa cũng chả khác gì bầu trời sao của làng Tây Lạc trên quê hương Nam Định, lại càng không khác với bầu trời sao của làng Đồng Dầu trên đất ngoại thành Hà Nội. Từ trên những bầu trời sao ấy người lính thấy như lại được trở về gần gũi với những người thân của mình vậy. Bầu trời sao ấy đã theo những người lính ra mặt trận hôm nay và còn theo người lính trong những ngày sau nữa để mà an ủi, để mà vỗ về trong khi họ xa vắng những người thân. Có thể cùng trong lúc ấy người lính cùng những người thân của họ cũng đang nhìn lên những ngôi sao để nhớ nhau, để nghĩ về nhau và nói cùng nhau những lời tha thiết nhất. Chính vì thế nên không chỉ riêng ai, bầu trời sao đã trở nên thân thiết với tất cả những người lính trong những năm tháng chinh chiến ở xa.
Giấc ngủ của Hằng đến rất từ từ sau rất nhiều những hình ảnh thân yêu của mẹ hiện ra. Bà lặng lẽ đi tìm những đoạn dây để nối dài ra, buộc vào bốn góc của cái màn xô căng trên chiếc chiếu giải dưới sân nơi cậu con trai của bà đã ngủ quên không chịu mắc màn…   
                                  5

Sau gần một tháng, ngày đi đêm nghỉ đơn vị cũng đã vào đến nơi tập kết. Kể từ khi cả đoàn quân vượt sông Xê Bang Hiêng thì tất cả những người lính chỉ còn biết rằng mình đang đi vào hướng Nam mà thôi. Những cánh rừng nghỉ tạm sau một đêm không tên không tuổi cũng tuột ra khỏi bộ não mà chẳng để lại chút gì gọi là vương vấn. Nhiều chỗ đoàn quân đi qua rồi mới nghe một đôi người kháo rằng đấy là vùng ngã ba biên giới hoặc một địa danh nào đó do những người đã vào ra một đôi lần nói lại thế thôi. Thực ra mấy người này cũng đoán già, đoán non khi thấy những khoảng rừng có vẻ giông giống vậy thôi chứ cũng không dám khảng định một cách thật đúng. Chỉ có cái tên bằng số là không có thể sai được bởi hàng ngày lãnh đạo cấp trên phát lệnh hành quân đều nói đến trong lúc xuất phát.
Bãi khách T73 đêm mới rồi bị máy báy địch đánh phá nên cả đoàn lại phải đi thêm một quãng khá xa để vào bãi khách dự phòng. Đây cũng là trạm cuối của đường dây Xã hội chủ nghĩa mà đơn vị đi qua, ngày mai đoàn quân sẽ đến binh trạm 1 của đường dây Giải phóng. Theo như dự đoán của mấy cậu thạo tin thì đơn vị còn phải hành quân qua 15 binh trạm nữa thì mới đến hậu cứ của đơn vị. Thế thì đôi chân chưa thể được nghỉ ngơi mà còn phải đi dài dài hơn nữa. Dù sao thì ở đâu cũng đều là đất mình cả vậy thôi, chẳng có gì cần phải phân vân điều này, điều nọ cho mệt. Nói như mấy cậu người Mường Cẩm Thuỷ thì (khắc đi, khắc đến). Đã lâu không thấy ai hỏi đến ngày, tháng nên cũng chẳng biết khi đơn vị vào đến cứ là ngày bao nhiêu. Có điều chắc chắn là vào khoảng cuối tháng mười một sang đầu tháng mười hai âm lịch, vì suốt mấy buổi tối chẳng thấy bóng dáng ông trăng đâu cả.
Cũng không ai ngờ được trong suốt thời gian ở Đường 9 Nam Lào Hằng không bị sốt rét, ngay cả khi ra ngoài Bắc củng cố mấy tháng liền Hằng cũng không biết sốt rét là gì, thế mà vừa đặt chân vào hậu cứ Tây Nguyên lần này thì Hằng lăn ra sốt. Việc đào hầm hố Hằng chả tham gia được tý nào, từ việc đào đắp đất đến chặt gỗ làm nóc hầm kèo đều dồn cả vào hai ông y sỹ là Cứ và Bình. Chẳng những thế hai ồng này còn phải để mắt đến Hằng, sợ Hằng biến chứng sang sốt rét ác tính. Mấy ngày sau đó Hằng cũng không cất mình lên được, việc ăn uống đều nhờ vào anh Toán là anh nuôi trưởng của đại đội. Gần nửa tháng chiến dịch Hằng không được tham gia một buổi nào cả bởi cơn sốt cứ kéo dài liên miên không dứt. Sau mỗi ngày đi chiến dịch về Luận, Tâm và Kiệm lại sang hầm nói chuyện với Hằng về đánh đấm của các tiểu đoàn mà đại đội 2 của Hằng phối thuộc. Công việc của đại đội vẫn chỉ là tiếp đạn, chuyển thương là chính, thoảng hoặc có gặp địch thì lại phải lựa để tránh không phải đọ súng, có thế mới bảo vệ được thương binh. Sau hàng loạt những chuyện vui về chiến thắng, bao giờ về cuối các cậu ấy cũng tỏ vẻ bực dọc vì khi ao ước làm bộ đội là để có dịp đánh giặc thế mà đến khi giặc ở ngay trước mắt lại phải tránh đi thì cớ gì mà họ chả bực mình.
Hôm nay đã là ngày thứ ba Hằng cắt cơn sốt. Đề nghị mãi đại đội phó Nhu mới cho đi chiến dịch. Anh Nhu cho Hằng đi cũng chỉ là mang theo một khẩu súng đỡ cho vài người khi phải khênh cáng quá nhiều và dự phòng khi có người bị thương thêm thôi chứ không giao nhiệm vụ gì quan trọng cả.
Cao điểm 1049 cũng như  muôn vàn những cao điểm khác với tầng tầng, lớp lớp những cây cổ thụ, xen lẫn những vạt rừng le cuốn thành những vòm mái che phủ kín cả mặt đất. Rồi thì các loại nứa tép, vầu, tre gai cao vút trên khắp cả một dải rừng chuyển tiếp làm cho ta chẳng thể nhận ra đâu là đỉnh của cao điểm. Thực ra cao điểm 1049 chính là đỉnh Ngọc Rinh Rua cao nhất của cao nguyên miền Trung mà ngày còn học phổ thông có lần thầy Vũ Tú Nguyên đã gọi lên chỉ nó trên bản đồ địa lý. Cao nguyên miền Trung còn có một cao điểm nữa là cao điểm 1015, sách địa lý gọi nó là đỉnh Ngọc Tô Ba. Đây cũng là một địa danh mà quân ta đã tiêu diệt mấy tiểu đoàn quân trong năm1968.
Kể từ ngày vào chiến trường đến nay mọi người hầu như lúc nào cũng nhớ nhà, nhớ người thân. Những người đồng đội nói chuyện với nhau cho dù là đề tài gì thì sau một hồi thế nào cũng lại quay lại đề tài gia đình, bè bạn. Những câu chuyện cho dù ở ngoài Bắc có kín đến đâu thì đến bây giờ cũng bị lôi ra để mà góp vào không khí chung của mọi người. Có những người được tiếng là kín nhất như chính trị viên Sinh và chính trị viên phó Huynh cũng đã tham gia vào tiết mục kể chuyện này. Chuyện về người thân mà người chiến sĩ đề cập đến nhiều nhất là chuyện về người yêu của họ. Cũng chẳng ai biết những người con gái ấy có thật xinh đẹp hay không nhưng qua lời kể của các chàng trai đang yêu thì họ đều như tiên cả. Tuy vậy cũng có những chàng trai đã bị lộ “bem” bởi người yêu cũng đã từng đến thăm và lẽ dĩ nhiên là nhiều người đã gặp. Lại còn cái đám cùng quê thì họ chả còn lạ gì những cô gái của nhau, thế nhưng họ vẫn muốn nói cho nhau nghe về những cô bạn ấy với những tình tiết hết sức đặc biệt mà theo họ thì những tình tiết của các cô ấy chỉ có thể dành riêng cho người con trai của các cô ấy mà thôi. Những câu chuyện như thế thì thật là chỉ còn biết nghe kể và cười vui phụ hoạ.
Cũng không biết làm thế nào mà câu chuyện Hằng tránh gặp bạn gái trước khi đi chiến đấu dạo nào cũng đã bị mấy chàng thạo tin kháo ra từ ngay những buổi đầu tiên có tiết mục này. Trong rất nhiều những nhận xét mà Hằng nghe được thì hình như có rất nhiều ý luôn đối nghịch lẫn nhau. Người thì cho đây là một mối tình cao thượng hiếm có không mấy ai làm được. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng trong việc này thì chàng trai là người đã quá tự đề cao mình mà phủ nhận những điều tốt đẹp của người khác. Những ý kiến ấy nêu ra kèm theo hàng loạt những đánh giá thật cao đẹp về người phụ nữ. Đâu là sự dũng cảm không thua nam giới, đâu là sự hy sinh chịu đựng hết cuộc chiến tranh này đến cuộc chiến tranh khác. Nhiều đêm Hằng nghĩ về điều này và tự vấn lòng mình về sự vô tư trong suy nghĩ. Đúng là Hằng chỉ muốn làm sao cho người thân yêu của mình không phải côi cút như bao người phụ nữ và bao đứa trẻ khi gặp cảnh éo le để rồi khốn khổ trong cảnh vợ nọ con kia. Hằng đâu có tự đề cao mình lên như nhiều đồng đội đã đánh giá như vậy. Có điều dù có nói thế nào đi nữa thì việc làm của Hằng cũng cứ lồ lộ ra dưới sự xét đoán theo hướng như vậy. Sự thật thì Hằng cũng đã thấy, đã biết có đến hàng vạn người phụ nữ của thời chín năm kháng chiến, hàng vạn người phụ nữ của cả hai miền Nam Bắc đã mất chồng, mất con sống trong cảnh goá bụa mà đã có bao giờ họ sợ điều đó đâu. Họ vẫn yêu, vẫn chờ đợi, vẫn hy vọng cho dù hy vọng thật nhỏ nhoi. Họ đâu có cần những ai phải lo cho họ! Họ đâu có cần ai thương hại họ! Cho dù những ý kiến này chưa ai nói thẳng với Hằng, nhưng Hằng nghĩ nếu có lần thứ hai như thế thì nhất định Hằng sẽ phải cân nhắc sâu sắc hơn nữa. Nhưng thôi, mọi sự đã xảy ra rồi làm sao có thể thay đổi được nữa.
Đơn vị chuyển địa điểm đến một vùng khác sau mấy ngày đường hành quân bộ, để rồi lại tiếp tục với việc phục vụ chiến đấu. Lần này đơn vị phải chuyên chở đạn, gạo qua sông PôCô cho các đơn vị đánh vào phía Nam CôngTum nên gặp khá nhiều khó khăn vất vả. Sau những trận đánh giằng dai giữa ta và địch thì sự ác liệt lại tăng lên khi cả hai bên đều muốn đi đến những thắng lợi nhất định, bởi khi mùa mưa đến việc di chuyển và tiếp tế lương thực, súng đạn sẽ bị cản trở. Lẽ dĩ nhiên là khi chiến dịch càng ác liệt thì đơn vị của Hằng cũng chung chịu với các đơn vị chiến đấu. Những trận B52 rải thảm, những trận pháo bầy liên hồi kỳ trận của địch luôn chặn vào đầu và quét vào đuôi đội hình của các trung đội, tuy vậy đơn vị cũng chưa có thương vong nào.
Đêm nay đơn vị lại tiếp tục lên đường cùng với trung đoàn 48 để tiến đánh vào Công Tum. Đạn cối 120 nặng đến 17 cân một quả, mỗi người phải mang 3 quả, đạn cối 82 mỗi người phải mang đến 6 quả. Rồi thì đạn K56 dùng cho súng AK, đạn Nổ, đạn xuyên lõm cho DKZ 75, DKZ 82. Cao cấp hơn còn có đạn pháo D74, DKB, hoả tiễn H12, Hoả tiễn B72, mỗi loại đều khá nặng và cồng kềnh khó mang vác. Vũ khí bộ binh thì có lựu đạn tấn công, thủ pháo, thuốc nổ TNT, CH4, đạn B40, B41 vv…Cũng không thiếu  mìn phóng MF 1A, mìn Định hướng DH 35 để phá hàng rào và diệt bộ binh địch.
Mỗi lần vận chuyển cho dù cả đơn vị cố sức cũng chả được bao nhiêu, thế mà chỉ cạch, oành một cái đã đi đứt một quả đạn cối. Thật là nhanh và tốn kém quá đi mất. Thôi thì cũng đành vậy chứ còn biết làm sao cho được khi kẻ địch còn xài gấp cả chục lần chúng ta xài. Chúng ta đâu có muốn làm như vậy trên chính mảnh đất của chúng ta. Cuộc chiến như chúng ta biết thật là buồn, thật là tàn bạo và thật là không đáng có. Chúng ta đã cố gắng hoà hoãn trong nhiều lần ký kết các hiệp ước và gần nhất là ký kết hiệp định Giơ ne vơ của hơn mười năm trước. Tất cả đã không thể dừng lại được và vận mệnh dân tộc lại phải trải qua những ngày tháng đạn bom cực kỳ man rợ.
Những người chiến sĩ phải hoàn thành nhiệm vụ của mình, đó là trách nhiệm lớn nhất. Còn việc dũng cảm, xông tới và chiến thắng đối phương đó là công việc của người lính, vì nếu không thế thì cần gì phải có họ. Tuy nhiên cũng nhờ thế mà họ bảo vệ được đồng bào, bảo vệ được tổ quốc và tự bảo vệ được chính mình. Họ có quyền tự hào vì sự hy sinh của họ cho dân tộc, cho đất nước vì điều đó là nhân văn lớn nhất của thời điểm lúc bấy giờ. Còn trước đó và cả về sau này, mỗi thời điểm lại có một mục đích ý nghĩa riêng của nó. Đừng bao giờ bắc đồng cân để mà đong đo thời này, thời khác bởi như thế thì thật là khập khiễng, thật là không phải.
Chiến dịch ngày càng khốc liệt hơn trong những ngày đầu năm 1972. Đại đội 2 cũng đã di chuyển chỗ đóng quân mấy lần liên tiếp. Hình như mặt trận ngày càng rộng ra nên đơn vị cũng bị chia sẻ thành nhiều bộ phận để phối thuộc. Riêng đại đội bộ thì vẫn tập trung ở một chỗ, khi có trận đánh lớn thì mới cử cán bộ trực tiếp chỉ huy. Cơ bản vẫn là đại đội trưởng Điền và chính trị viên trưởng Sinh, còn chính trị viên phó Huynh và đại đội phó Nhu thì đã đi chỉ đạo trực tiếp ở các trung đội 1 và 2. Chỉ có anh Giao ở trung đội 3 luôn chỉ có một mình trong mọi việc.
Chiến dịch dường như đã có những chuyển hướng khác với nhiệm vụ ban đầu. Nhiều đơn vị được phân tán để căng địch ra làm cho chúng không thể tập trung được. Trong khi đó các đơn vị luôn xuất hiện với đủ mọi cái tên vốn đã quen thuộc nhưng lại ở quá nhiều địa điểm khác nhau, thành ra đi đến chỗ nào kẻ địch cũng thấy là quân của sư 320, quân của sư 2, sư 10 và nhiều sư đoàn khác nữa. Kẻ địch chắc phải hoang mang thật sự vì mới sớm nay chúng chạm mặt 320 ở Tây Nguyên thì ngay chiều hôm đó chúng lại chạm mặt với 320 ở Quảng Trị. Chúng biết 320 có A, có B nhưng chúng lại không biết họ có C, có D hay không. Điều này là một bí mật chiến lược làm sao mà chúng biết được.

                       RA BẮC

                               1

Sáng mai Hằng được phân công đi cùng trung đội 2 tách khỏi đại đội đến phối thuộc với trung đoàn 52 về vùng dưới. Cũng may là ở trung đội 2 còn có Yên là người cùng sở Điện Thanh Hoá với Hằng nên cũng đỡ buồn. Hai người vừa đi vừa nói chuyện về gia đình của nhau trên suốt dọc đường. Yên không gầy nhưng khuôn mặt của Yên cứ phô ra cái sự gầy bởi cái cằm của Yên cứ đua ra nhòn nhọn, hai má thì hóp vào, hố mắt thì sâu thành ra ai cũng bảo Yên còm cõi. Không biết Yên có thêm gì của riêng mà ba lô của cậu ấy cứ to kềnh, to càng ra làm cho bước đi của Yên cứ  nghiêng hết cả về phía trước.Vậy nhưng Yên vẫn chuyện rất rôm rả, thoảng hoặc lại pha trò cười hin hít nghe thật là ngộ.
Suốt từ hai hôm trước Hằng lại lên cơn sốt, y sĩ Bình đã tiêm cho Hằng mấy ống thuốc trợ sức và cả mấy ống Qui nin trị sốt rét vậy mà hình như cơn sốt vẫn không chịu giảm cơn. Cũng không biết thế nào mà mỗi khi sốt rét thân nhiệt lên rất là cao, có người lên đến 41 độ vậy mà xem ra cũng vẫn chẳng hề hấn gì. Còn chuyện 40 độ trở xuống thì mọi người cứ coi như là không sốt, vẫn gùi gạo, gánh đạn và khênh thương binh đi thoăn thoắt.
Chặng đường đi có lẽ cũng đã được gần hai giờ đồng hồ mà Hằng vẫn không thấy đỡ. Trước mặt lại là một cái dốc dựng đứng đầy bùn đất và lá khô vụn mủn, chỉ mới vòng qua một đoạn cua ngắn đường bằng mà Hằng theo mãi vẫn chưa thấy đội hình, có lẽ mình phải chạy mới theo kịp nhóm đằng trước. Chỉ mới kịp nghĩ lướt qua trong đầu Hằng đã thực hiện ngay thế mà phải gần hai mươi phút sau Hằng mới bắt kịp đội hình. Có lẽ thấy Hằng tụt lại lâu quá nên lãnh đạo đại đội đã cử y sĩ Bình lùi lại để chờ Hằng chứ đơn vị thì đã đi xa rồi.
Vừa gặp Hằng ì ạch chạy đến Bình đã sờ tay lên trán của Hằng để xem có nóng quá không. Mới sờ vào trán Hằng đã thấy cậu ta rụt tay lại để lấy thuốc ra tiêm cho Hằng. Sau phát tiêm vào cánh tay cậu ta lại bắt Hằng ngồi nguyên đó kéo quần xuống chọc ngay Seranh thuốc vào mông. Có lẽ cũng đành tiêm ngồi như thế bởi đất dưới chân chả khác gì bùn nhão thì nằm ra sao được. Không tiêm thì Hằng còn chịu được, tiêm rồi thì mắt hoa đầu váng mỗi lúc một tăng làm Hằng không còn gượng dậy được, thế rồi Hằng thấy tối sầm lại, không còn biết gì nữa. Cũng không biết sau bao nhiêu thời gian Hằng mới tỉnh trở lại, chỉ đến khi mở mắt ra thì Hằng đã thấy cả một đám đông vây kín lấy Hằng. Anh Điền đại đội trưởng cũng đang dòm nom ngay sát bên cạnh. Cũng chỉ kịp thoáng nhìn thấy trong một vài phút rồi Hằng lại lịm đi.
Cũng không biết Hằng đã sốt như thế nào mà mấy ngày sau khi tỉnh lại chỉ thấy mỗi một mình nằm trên một cái sạp nứa trải trong một căn nhà hầm ẩm thấp. Cuộc điều trị có lẽ phải mất hơn một tháng mới đỡ, tuy là đã đỡ nhưng Hằng còn rất yếu nên cũng chỉ chống gậy đi bộ xung quanh trước lán mà thôi. Mỗi ngày Hằng lò dò theo mọi người đi qua lán nhà bếp để ăn cơm. Tiêu chuẩn của người ốm nặng khá hơn các bệnh nhân khác ở chỗ có thêm mấy miếng thịt hộp của miền Bắc đưa vào còn lại thì cũng chỉ có măng le, cá khô và ruốc bông. Hàng ngày Hằng ăn cũng không được nhiều nên khi ốm Hằng ăn càng ít. Cơm canh còn lại đã có mấy cậu lính bị thương giải quyết hết nên cậu cũng chả cần lo rửa, bát rửa đũa mà chỉ chào các bạn là lại lò dò về lán.
Vừa qua bên lán 6 chợt nghe thấy tiếng hò hét ồn ào náo nhiệt không biết là có chuyện gì. Chờ mãi mới thấy mấy cậu bên khoa ngoại về qua cho biết bên ấy có một cậu sốt rét ác tính nhiều lần biến chứng tâm thần. Nghe vậy Hằng càng lo không biết rồi đây mình có thể lại như cậu ấy hay không. Cứ nghĩ đến mấy cô gái điên Hằng vẫn gặp ở quê ngày nào Hằng lại thấy gai gai sợ. Tóc tai các cô ấy rũ rượi, mặt vêu vao đầy ghét bám. Bàn tay khẳng kheo gầy giơ ra mò mẫm ở rãnh thoát nước, gặp gì cho vào mồm ăn nấy. Những miếng vải xơ xưới lua tua không còn biết gọi là màu gì choàng từ cái cần cổ cứ đuỗn đuồn ra lao về phía trước. Cặp mông lép kẹp sần sùi những vẩy thoảng hoặc lại phơi ra khi cô ấy bước đi hoặc khi gió đánh tạt về một phía. Cái thảm hại hơn có lẽ lại là việc mấy đứa trẻ con lúc nào cũng theo đằng sau trêu chọc. Đứa lành hơn thì cũng lấy cái que đánh bò khều vào bộ giẻ trên người cô ấy. Đứa dữ dằn hơn chúng chả nể nang gì mà không quất một vài roi vào cái thân hình quắt queo đen đúa người không ra người, ma không ra ma ấy. Chả lẽ rồi có một ngày ta cũng điên như thế bởi những cơn sốt rét ác tính mà người bạn bên lán 6 vẫn đang gào thét ngoài kia.
Đang suy nghĩ luẩn quẩn một mình chợt tiếng chân chạy huỳnh huỵch từ mé sau nhà vọng đến làm cắt đứt luồng suy nghĩ của Hằng. Vừa chống cái gậy tre đi về phía sau nhà đã thấy cậu bạn tâm thần đang vắt vẻo trên một cây bứa khá cao ngay đầu hồi phòng làm thuốc. Vừa khoa chân, khoa tay cậu ta vừa hô xung phong ầm ĩ tưởng như sẽ nhảy ngay xuống đất làm cho các y tá, bác sĩ đứng dưới luống cuống mà không biết làm gì. Có một anh y sĩ đang đứng bên cửa nhà thuốc tay lăm lăm một cái võng mồm thì gọi mấy anh từ trong nhà thuốc ra giúp sức. Cũng đã mấy lần anh bạn tâm thần doạ sẽ nhảy từ trên cây xuống làm cho mọi người cứ cuống cả lên. Những cành bứa xoè tán hết tầng này đến tầng khác đâm ngang ra xung quanh có làm cản trở anh ta rơi xuống, nhưng thân gỗ của nó kiêng gì đầu, mình, chân, tay mà không làm cho cái sự va chạm để rồi dẫn đến gẫy, vỡ, toác, để rồi có thêm những chấn thương về thể xác hợp với sang chấn về tinh thần đưa anh ta đến chỗ chết hoặc tàn phế hơn nữa. Những tiếng thét xung phong, những âm thanh giả làm tiếng nổ của anh như cứa vào lòng mọi người. Một cái gì đó vừa bi thương, vừa oanh liệt cứ như khía vào quả tim của những người đang đứng cùng anh ngay phía bên dưới gốc cây bứa với những cành ngang vô cảm.
Sau mấy tuần điều trị với đủ các loại thuốc, đâu là DDS, NIVAQUIN, B1, B12, KINACRIN rồi thì tiêm QUY NIN đến ù cả tai mà sức khoẻ Hằng cũng chẳng thấy khá hơn. Đã hơn một tuần nay uống viên phòng số 2 là loại khá mạnh trong thuốc điều trị mà cũng chẳng khả quan hơn tý nào. Mãi đến hôm kia anh Điều y sĩ mới  quyết định điều trị cho Hằng phác đồ mới là viên phòng số 3 màu đỏ. Xem ra loại thuốc này hợp với Hằng hơn. Những ngày tập đi với chiếc gậy tre rồi cũng đã qua, Hằng đã có thể đi lại bình thường. Cái gậy tre mà anh Điều đưa cho bữa trước đã bị bỏ xó không còn cần đến nữa. Nói là đã đi lại bình thường nhưng tốc độ di chuyển của cậu hình như vẫn còn rất chậm. Mỗi lần đi lại cũng chỉ vài trăm mét cậu đã thấy mỏi chân giống như ngày nào hành quân từ Bắc vào Nam.
Vừa cắt cơn sốt là Hằng đã lang thang đây đó mà chẳng chịu ngồi yên một chỗ. Khi thì Hằng sang chỗ đồng chí Điều bên khu quân y sĩ, khi thì Hằng sang khu thương binh hỏi xem có ai là người Hà Nội hay không. Sớm nay đồng chí Điều xuống điều trị có nói cho Hằng biết về kế hoạch giám định sức khoẻ cho thương bệnh binh trong kỳ tới. Bên hành chính của viện đã lập danh sách báo về các bộ phận rất nhiều các đồng chi thương binh bị mất hoặc hỏng các chức năng nhìn, nghe, đi lại, cầm nắm và cả các trường hợp tâm thần. Phía các bệnh binh sốt rét quá yếu cũng phải giám định một vài trường hợp. Hằng nghe nói vậy thì biết vậy, cậu cũng chẳng hiểu cái việc giám định như vậy để làm gì. Có chăng là việc cậu mong sớm giám định để kịp về với đơn vị không thì khi về đơn vị đã di chuyển là cậu lại phải đi đơn vị khác thì thật là phiền. Nghĩ thế nào làm thế ấy, cậu liền hỏi thăm dò:
- Không biết em đã được giám định chưa anh Điều nhỉ?
- Tớ thấy có một Hằng trong danh sách nhưng không biết là Hằng nào vì ngay trong diện điều trị của tớ cũng còn một cậu Hằng bên lán 4, lại còn có đến 2 Hằng khác ở nhóm điều trị nội khoa khác.
- Em chỉ lo khi về đơn vị đi vào sâu quá không còn tìm được, lại phải về một đơn vị nào đó của miền thì chán ngắt. Dẫu sao thì làm quân chủ lực trong sư cơ động vẫn hay hơn anh ạ.
- À không! Tớ nói giám định đây là giám để đưa về hậu phương vì mất sức chiến đấu chứ không phải giám để cho xuất viện.
- Lại hậu phương, em đã chán với cái cảnh hậu phương, hậu cứ rồi. Đành rằng đâu cũng là nhiệm vụ thế mà một đằng bom pháo hy sinh ở phía sau với lại một đằng trực tiếp ngoài chiến hào đánh cho thật đã rồi hy sinh thì chỗ nào hơn?
Nghe Hằng nói anh Điều chỉ mỉm cười lặng lẽ, khá lâu sau anh mới nhẹ nhàng nói:
- Thế cậu bảo tất cả chúng tớ chả lẽ không nghĩ vậy hay sao...
- Nhưng các anh lại có chuyên môn khác chúng em nên phải theo đúng chuyên môn chứ.
- Chả nhẽ chúng tớ không trải qua bắn súng, ném lựu đạn và thả cối chắc? Chúng tớ cũng muốn trực tiếp lập chiến công chứ đâu có muốn kể ra rằng chưa bao giờ cầm súng xông lên đánh giặc trong khi mình là một người chiến sĩ ra đi chiến đấu để giải phóng đất nước.
Có lẽ những lời hùng hồn mà anh nói ra không phải chỉ để nói với Hằng mà hình như anh nói với cả anh nữa. không khí im lặng đến không ngờ sau những tuyên ngôn của anh Điều chợt bị phá vỡ:
- Mà cậu cũng là một dạng chuyên môn đấy chứ?
- Không em chỉ là bị bắt cóc lên làm trong thời gian nào đó mà thôi.
- Này, tý nữa thì quên! Chỗ hành chính của viện họ nhờ hỏi xem cậu có cách nào hàn được cái nồi cất bằng nhôm hay không?
- Hàn nhôm phải có máy và môi chất, ở trong này chả có cách nào hàn được đâu anh ạ.
- Thế thì gay go quá, không biết lấy gì để vô trùng dụng cụ mổ xẻ và hấp bông băng được. Hay là cậu cứ xuống xem xem thế nào.
- Thế lỗ thủng có to không anh?
- Chỉ là lỗ của mấy viên bi xuyên qua, lỗ to thì lọt ngón tay còn lỗ bé thì vừa lọt chính viên bi mà thôi.
- Thôi được để em xuống xem thế nào.
Hai người đi vòng vèo qua ba bốn cái lán cho đến khi gặp con suối nhỏ thì dừng lại trước một căn nhà hầm nửa chìm, nửa nổi, bên trong khá rộng nhưng chỉ thấy dụng cụ, còn người thì đi đâu không rõ. Loanh quanh một lúc lâu vẫn chẳng có ai về, anh Điều bực dọc lẩm bẩm:
- Nói mãi mà vẫn không rút kinh nghiệm. Đi đâu thì cũng phải có một mống ở nhà để mà gác sách chứ, đừng tưởng đây xa địch mà chủ quan, đến khi thám báo nó đến tận nơi thì mới trắng mắt ra!
Chờ mãi chẳng được anh Điều đành vào trong nhà lôi ra vài thứ dụng cụ đun nấu. Trong số đó có một cái nồi nhôm khá lớn, nắp đậy bằng nhôm đúc dày, có bốn cái đinh khuy kẹp chặt với miệng nồi. Chỗ gần miệng có mấy lỗ nhỏ bằng đầu ngón út miệng loe ra như hoa rău muống. Vừa lúc đang ngắm nghía cái nồi nhôm ấy thì anh Điều quay trở lại.
- Cái này thì làm được anh ạ! Em chỉ cần nói qua là họ làm được thôi. Trước hết anh bảo họ lấy cái kẹp đạn mài sắc sau đó khoét hai bên miệng lỗ loe thêm ra, còn ở giữa để nguyên sau rồi lấy đuôi cánh bom cắt lấy một đoạn nhỏ đập cho tròn rồi cho vào lỗ tán hai bên cho chặt thế là xong anh ạ.
- Tớ sợ khi áp lực cao chỗ ấy không chịu nổi.
- Không sao đâu anh ạ.
- Ừ thôi thế cũng được, lát nữa tớ bảo các cậu ấy làm thử xem sao.
Hai anh em lại lọc cọc quay về lán điều trị, cả hai đều không nói gì nữa. Mỗi người đều có những suy nghĩ của riêng mình .

                                       2

Gần một tuần vừa làm thuốc vừa ăn uống với tiêu chuẩn cao, sức khoẻ của Hằng đã khá hơn mọi khi, nhưng nhìn chung thì cậu vẫn xanh và gầy. Kể ra thì cậu cũng mới chỉ cắt sốt mấy hôm, trong thời gian ngắn thế làm sao mà béo tốt ngay được.
Chả biết có chuyện gì mà sớm nay anh Điều bắt số bệnh binh tập trung về hội trường ngay từ sớm. Hằng vì mệt mỏi hơn ngày thường nên đến khá muộn, khi đến nơi thì hội trường chỉ còn độ ba chục bệnh binh với bốn ông bác sĩ còn ngồi ở đó. Hằng nghe loáng thoáng hình như có ai đó gọi tên mình mà không biết có phải hay không. Cũng chẳng biết thế nào mà sau khi uống mấy viên phòng số ba rồi thì tai ù đặc hết cả.
Thế rồi cả đám bệnh binh đều đã khám hết chỉ còn trơ lại mỗi mình mới thấy một ông bác sĩ hỏi đến Hằng. Ông ta hỏi tên tuổi và cả quê quán của Hằng sau khi đã khám đi, khám lại con người của Hằng sau đó thì ra hiệu cho Hằng về lán.
Vừa đi vừa nghỉ rồi Hằng cũng đã về đến lán của mình. Vừa về đến lán đã thấy bốn năm anh em chờ mình ở bên trong xô ra hỏi han loạn xạ chả hiểu ra thế nào. Người thì hỏi kết luận của anh ở loại nào, người thì hỏi rằng anh có được ra không, cũng chẳng biết cậu ấy bảo ra đâu. Cũng phải rất lâu Hằng mới hiểu ra những câu hỏi của mấy anh em cùng cảnh sốt rét ác tính như mình. Nói là hiểu thế thôi chứ thực ra Hằng cũng không biết mình ở loại ba hay bốn, chỉ thấy đồng chí viện trưởng xem đi xem lại bệnh án rồi hỏi về tình hình ăn uống sinh hoạt của Hằng. Cuối cùng thì đồng chí ấy ghi gì vào bệnh án mà thấy đầy những chữ là chữ. Một lúc lâu sau đồng chí viện trưởng cũng ngẩng đầu lên rồi động viên vài câu đại loại là “cố gắng ăn uống cho nó tăng hồng cầu lên một tý, không thì rồi đi cũng không nổi đâu đấy...”
Hằng cũng không ngờ lần đi viện này lại là lần xa đơn vị mãi mãi, bởi chỉ gần một tuần sau đó Hằng đã phải chống gậy theo đoàn quân ra Bắc. Trên đường đi ra Hằng còn phải vài lần cấp cứu nữa, mà lần nào cũng cứ mê man nóng rét rồi co giật làm cho mọi ngưòi phát hoảng.
Cũng không hiểu thế nào mà đến Binh trạm T. 14 ngoài bữa ăn khá thịnh soạn với rất nhiều đồ hộp, mỗi người được phát một ít kẹo bánh và đường sữa, rồi thì còn có cả thuốc lá bao miền Bắc hẳn hoi. Hỏi ra mới biết hôm nay chính là ngày mồng một tết âm lịch năm 1975.
Thế là đã gần năm năm trôi qua, năm cái tết chiến trường, năm cái tết giữa bom rơi đạn nổ. Những gì là vui Hằng đã nếm qua, những gì là buồn Hằng cũng đã nếm qua. Cho dù là thế nào thì những năm tháng này cũng là những thời khắc đặc biệt mang dấu ấn trong cuộc đời. Những gì đã đi qua sẽ không bao giờ trở lại, cho dù điều đó là khốc liệt, là tàn lụi, là chết chóc. Bởi chính từ nơi đó ta hiểu được cái “bản ngã” của chính ta, nó là dũng cảm ngoan cường hay là sự run sợ yếu hèn mà bất kỳ người nào cũng phải có trước cái sự thực chết chóc, hy sinh trong cuộc đấu tranh một mất một còn của những người chiến sĩ. Qua những năm tháng ấy cho ta nhận ra chính ta. Rồi đây sau bao năm tháng đã đi qua, có một khi nào đó ta ngồi ta nghĩ về mình, ta sẽ nói gì với con cái. Ta có thể cao giọng dạy bảo chúng rằng hãy sống cho ra sống như bố mẹ chúng đã từng sống.
Cũng nhờ có cái đài của mấy anh cán bộ ở các đơn vị mặt trận cùng ra nên anh em trong đoàn biết được nhiều tin tức về tết và đặc biệt là nhiều tin về chiến sự trên khắp miền Nam. Không khí mấy ngày này có cái gì đó rất lạ, giống như cái không khí hừng hực của bẩy năm về trước, không khí của những cuộc tổng tiến công nhằm vào kẻ địch. Trên đường không chỗ nào không nói về điều đó cùng với  những dự đoán khác nhau. Tuy nhiên tất cả các dự đoán đều có ý như đây là cuộc chiến sau cùng để thống nhất đất nước giành độc lập dân tộc, điều mà mỗi người con dân đất Việt đã mong đợi hàng ngàn năm nay.
Bắt đầu ra đến đất Bắc thì không còn phải hành quân bộ nữa mà đi bằng ô tô. Vẫn những cái xe Gát mang nhãn hiệu Trung Hoa như ngày nào đã chở người vào, nay lại chở người ra. Đường xá mấy năm giặc đánh phá vẫn chưa sửa được nên những cái xe chả khác nào cái rổ cứ xóc những người ngồi trên nó như là xóc ốc. Qua trạm 10 Quảng Bình mấy ngày thì mọi người được nhận quân trang mới. Những cái màn vải xô nhuộm xanh, những bộ quân phục cũng màu xanh, rồi thì mũ dày, ba lô cũng vẫn xanh một màu như thế cả. Cũng từ đây người ta đã phân chia quân nhân tỉnh nào về tỉnh ấy và rồi từng người lại đi tiếp về các đoàn an dưỡng của các tỉnh. Hằng không kê khai nơi mình nhập ngũ mà khai nơi sinh và thế là Hằng được đưa về Đoàn 869 của Hà Nội. Vừa về đến đoàn an dưỡng Hằng đã phải đi điều trị ở Viện 12. Cũng vẫn bệnh sốt rét là chính, ngoài ra còn thêm cả bệnh sưng phổi đã phát triển trên dọc đường hành quân trước đó.

                                                    3

Cũng do ốm yếu quá nên dù rất gần nhà nhưng suốt từ ngày về đoàn an dưỡng Hằng vẫn chưa dám về nhà gặp mẹ. Sớm nay chủ nhật, đại đội tập trung chiến sĩ phổ biến một số nhiệm vụ sau đó công bố cho một phần ba số chiến sĩ ở gần được đi tranh thủ về qua nhà.
Sau mấy tháng vừa điều trị vừa an dưỡng, Hằng cũng đã cắt cơn sốt rét, nhìn người cũng đã thấy có da có thịt. Hôm cân trọng lượng kiểm tra sức khoẻ cậu cũng đã đạt được trọng lượng cân của ngày nhập ngũ. Cũng nhờ có nước da khá sáng sủa nên dù đã gần ba mươi tuổi nhưng chợt nhìn người ta ngỡ cậu mới độ hai ba, hai bốn là cùng.
Ba lô quần áo, chăn màn và cả số bánh kẹo, đường sữa tiêu chuẩn đơn vị phát cho Hằng vẫn để dành để làm quà khi về nhà cũng đã được gói buộc xong, vậy mà cậu vẫn chưa chịu rời đơn vị ra về. Có bao nhiêu điều cậu tưởng tượng ra khi gặp mẹ và em gái. Đâu là chuyện mẹ sẽ chạy vội ra để ôm lấy cậu, sờ nắn trên người cậu xem có bị thương tích gì không. Còn cậu sẽ cũng chạy thật nhanh đến bên mẹ lau giúp mẹ những giọt nước mắt sung sướng cứ chảy ràn rụa mãi không ngừng. Họ sẽ nói với nhau những gì là thương nhớ thật tha thiết và cảm động...
Thế nhưng ngay sau đó cậu lại phủ nhận tất cả những điều cậu vừa nghĩ ra trước đó. Bởi cuộc đời mẹ đã có bao nhiêu lần gặp gỡ, bao nhiêu lần từ biệt người thân. Thậm chí là bao nhiêu lần vĩnh biệt những người mà bà thương yêu nhất. Cùng với những khổ cực về tinh thần và vật chất mà bà từng chịu đựng hết năm này qua năm khác, làm cho bà thêm chai sạn, thêm cứng rắn và rồi mọi điều vui buồn trong lòng bà được nhìn nhận ở mức độ trầm tĩnh đến không ngờ. Dù sao thì việc nghĩ vẫn cứ phải nghĩ, bởi đó là thói thường của tất cả mọi người trước khi họ làm một việc gì.
Cuộc gặp gỡ xảy ra hoàn toàn khác với cả hai quang cảnh mà Hằng đã tưởng tượng ra, bởi ngay khi mở tấm liếp tre làm cánh cổng rồi vào đến sân Hằng chẳng gặp một ai. Chỉ đến khi bước vào căn nhà tranh tối tranh sáng, gỡ được hai quai ba lô đặt xuống mặt giường Hằng mới kịp nhận ra có một người đang ngồi trên tấm phản kê ở gian nhà phía hồi bên trái. Cũng phải mất một lúc Hằng mới nhận ra đó là một người đàn ông lạ mặt có mái tóc bạc có lẽ cũng sấp sỉ ở tuổi bẩy mươi. Hằng vội cất tiếng hỏi:
- Cụ ơi, cụ có biết bà cụ chủ nhà này đi đâu không nhỉ?
Ông già tóc trắng cũng bất ngờ không kém khi thấy có một chàng bộ đội tự nhiên cứ như vào nhà mình vậy, đã thế lại còn hỏi chủ nhà đi đâu nữa chứ. Mãi đến khi bình tĩnh trở lại cụ già mới thủng thỉnh trả lời:
- Cụ tôi vừa ra chùa làm lễ anh ạ!
Nghe xong câu trả lời Hằng cũng chào qua quýt cụ già nọ rồi cứ thế đi vội ra ngoài mà cũng chả nói cho ông cụ biết mình là ai và đến để làm gì. Cuối cùng thì  người Hằng gặp đầu tiên lại không phải là mẹ, chả biết đó có phải là điều không may hay không.
Sau khi quét quanh làng một vòng, gặp một loạt cả già lẫn trẻ cùng với hàng chục câu hỏi và câu trả lời thì rồi Hằng cũng về gặp mẹ. Có lẽ khi về nhà nghe ông lão tóc bạc kể lại chắc mẹ đã đoán được chàng trai bộ đội ấy là ai nên khi hai mẹ con gặp nhau thì chỉ thấy mẹ đứng im để nhìn cậu mà chẳng vồ vập hoặc tỏ ra bất ngờ một tý nào. Sau khi đã ngắm khá kỹ cậu con trai của mình rồi thì cụ cũng cất tiếng nhưng là để nói với ông lão tóc bạc mà không phải là nói với Hằng:
- Đây là thằng anh con Hà đấy!
Sau khi nghe mẹ nói như vậy thì ông lão tóc bạc vội đứng lên như có vẻ muốn bắt tay Hằng. Ông cất giọng chậm rãi nói:
- Thế thì con phải gọi ông ấy bằng ông mới đúng.
Mẹ Hằng hình như cũng cho là đúng mà không cải chính thêm điều gì. Đến lúc này Hằng mới biết và mới gặp được một người cháu của mẹ mình.
Không giống như nhiều nhà khác, cuộc trở về của Hằng thật giản dị, thật bình thường. Đó có phải cách sống đúng, sống tốt hay không thì không biết, tuy nhiên với hoàn cảnh ít họ hàng thân thích, lại khó về kinh tế thì có lẽ gặp mặt như thế là thích hợp.
          Gần một tuần ở nhà thật là vừa vui, vừa buồn, vui vì được gặp mẹ, gặp các anh chị em và các cháu, rồi thì còn cả số bạn bè cùng trang lứa, cùng học một lớp ngày nào. Còn buồn vì số đông bè bạn đều bận bịu gia đình  mà không qua lại thăm hỏi chuyện trò lâu được. Bọn họ còn phải lo làm, lo nuôi con cái và cả lo cha già, mẹ yếu.
          Cũng may trong suốt những ngày nghỉ có cậu Hợp thương binh cứng khớp hay đến chơi bời trò chuyện. Hợp còn ít tuổi bởi cậu là em thứ ba của Thu, mà Thu thì cũng còn kém Hằng đến hai tuổi chứ có ít đâu. Dù sao thì Hợp giống Hằng ở chỗ đang còn là trai tân chưa vợ đang ở vào diện cần phải đi đây đi đó để tìm mối cho mình.
          Trong đời bộ đội lúc nào cũng đều là quân phong, quân kỷ, đêm thì hội họp gác xách, ngày thì ra thao trường, chí ít cũng là tập đội ngũ, còn không thì lăn lê bò toài ngắm bắn bia, tập chiến thuật vân vân và vân vân với mọi vấn đề. Chỉ có ở đoàn an dưỡng mới được thoải mái đôi chút, nhờ đó Hằng hầu như chả ở đơn vị mấy mà chỉ ở nhà. Sau mấy tuần chơi bời, Hằng bắt đầu tham gia làm hợp tác giúp mẹ kiếm thêm ít công điểm. Mùa vụ thì cũng đã qua nên cũng chỉ còn mỗi việc gánh gạch vào lò, gánh gạch ra lò. Thôi thì có tý việc làm vừa đỡ buồn lại có thêm công điểm cho mẹ.
          Ngay từ nhiều năm còn ở độ tuổi trẻ con Hằng chẳng mấy khi tiếp xúc với nhiều người lớn, hơn nữa lại xa làng xóm ngay từ khi mới lớn, nên cậu ít hiểu về họ. Gần đây đi làm cùng với mọi người trong làng Hằng mới có dịp ngồi lâu với họ và phần nào cậu đã hiểu về họ hơn. Những câu chuyện chiến đấu mà Hằng kể cho họ nghe, làm cho họ thấy thật cảm phục, còn những câu chuyện đời thường hài hước mà những người này kể về những người kia không có mặt tại đấy nghe thật buồn cười thật là vui làm cho công việc có phần nhẹ nhõm hơn nhiều.
          Cùng đi làm hợp tác cũng còn có vài cô bé người làng vừa mới lớn lên mà Hằng chẳng biết là con nhà ai. Ngay từ khi bước chân ra khỏi nhà họ đã bịt kín mặt bằng những tấm khăn bông trắng nên Hằng chỉ còn biết trả lời những câu chào của họ khi gặp mặt mà không thể chủ động hỏi han gì họ được. Họ chỉ hơi hé mở ra lau mồ hôi những khi giải lao rồi lại trùm kín lại nên đã mấy ngày rồi mà Hằng chẳng biết họ là ai. Tuy nhiên qua đôi mắt của họ Hằng cũng đã nhận ra vài cô có cái nhìn hết sức ý nghĩa. Những khi giải lao họ ngồi gần Hằng hơn và không ít lần chăm chắm nhìn sang hoặc vội vàng nhìn ra phía khác khi bất chợt gặp ánh mắt dò hỏi của Hằng nhìn vào khuôn mặt họ.

                                             4

          Không phải chỉ riêng Hằng thấy được ý tứ ấy ở các cô gái mới lớn kia mà cả mấy ông bà già cũng đã nhận ra được những ánh mắt đưa tình ấy. Cũng chả ngại ngần gì mà họ không cất lời trêu chọc các cô:
          - Chiến sĩ đấy! Đứa nào có cảm tình thì ra mặt đi chứ không lại lỡ mất thời cơ.
          Vừa nghe đến đấy các cô liền ngúng nguẩy ra vẻ thẹn thùng kéo nhau bỏ chạy ra xa rồi cấu chí nhau la oai oái, họ giống như một bầy trẻ nhỏ vô tư lự mà ta vẫn gặp trên đường. Trong số đó có một cô bé không cao lắm có vẻ dạn dĩ hơn, các bạn vẫn gọi tên là Mận thường phải đổi vai với Hằng. Cũng chính nhờ thế mà hai người có điều kiện nói chuyện với nhau nhiều hơn so với những cô khác. Chả biết cô ấy có cảm tình như các bạn vẫn trêu hay không nhưng Hằng cũng cứ hẹn cô ấy ra chơi và cô ấy đã đồng ý.
          Ngay tối hôm đó và liền mấy tối hôm sau Mận đã ra nơi hẹn để gặp Hằng, họ đã đi chơi nói chuyện hàng mấy tiếng đồng hồ mỗi ngày trên dọc con đường từ nhà Hằng xuống đình làng. Tất cả những câu chuyện  hai người nói với nhau trong những lần đầu tiên đi chơi ấy thật chả ăn nhập vào đâu. Tuy nhiên đó lại là những cuộc gặp gỡ mở đầu cho mối quan hệ sau này của hai người.
          Mất mấy hôm Hằng phải về đơn vị để duy trì con số theo quy định. Chiều nay anh Đạt đại đội phó lại cho cậu tranh thủ về nhà. Cơm nước xong có lẽ cũng đã gần tám giờ tối, Hằng đang định đi vào phía trong làng thì thấy Mận bước vào cổng thế là Hằng đành phải quay trở lại. Ánh đèn dầu vang khè không đủ để soi rõ khuôn mặt của cô gái nhất là cô ấy lại hơi có ý đi vào góc khuất làm cho việc nhìn rõ khuôn mặt của cô càng khó khăn hơn. Tuy vậy bà mẹ của Hằng đang ngồi giần gạo ở giữa nền nhà vẫn nhận ra cô bé và cất tiếng chào trước:
- Cái Mận ra chơi đấy hả cháu?
- Vâng ạ!
- Cứ ngồi chơi nói chuyện với anh nhé, bác phải giần nốt mẻ gạo để mai có cái thổi cơm cháu ạ.
Sau khi chào hỏi mẹ của Hằng cô gái ghé mình ngồi xuống chiếc giường gỗ kê ở gian nhà phía bên trái. Hằng đi rót nước từ cái ấm tích ra để mời cô gái thì mẹ Hằng cũng mang cái đèn dầu nhỏ ở gần chỗ cụ đang giần sảy đến để vào cái ghế đẩu đặt trước mặt hai người. Thấy chỗ làm của mẹ bị tối và cũng muốn để cho cô gái tự nhiên hơn Hằng lại mang cái đèn trở lại cho mẹ nhưng bà bảo bà không cần đèn vẫn làm được, thế là Hằng lại mang cái đèn ấy về chỗ cũ. Câu chuyện giữa hai người dường như có sự dè dặt, đôi lúc họ hoàn toàn im lặng không biết nói với nhau điều gì. Những lúc như thế bà mẹ Hằng lại chen vào một câu hỏi để cho không khí cởi mở hơn. Điều làm Hằng khó nói chuyện nhất là cô gái không cùng lứa tuổi với Hằng, chính vì vậy mà khi Hằng hỏi một vài thông tin về các bạn của mình cho có chuyện thì cô ấy chả biết tý gì. Cũng phải thôi, vì khi cô ấy lớn lên Hằng đã không còn ở quê nữa. Hằng đã rời quê khi cô ấy mới độ sáu bẩy tuổi đến nay đã mười năm có lẻ, lẽ nào cô ấy chả lạ lẫm. Hằng cảm thấy buồn vì sự dè dặt và không hiểu biết của cả hai người. Nhìn kỹ cô gái dưới ánh đèn Hằng càng thấy ngần ngại khi mình đã trót mời cô ấy ra chơi. Sau một loạt những khoảng trống kế tiếp nhau thì Mận cũng thấy ái ngại, cô đứng lên chào mẹ Hằng rồi xin phép ra về. Hằng xin phép mẹ rồi ra đưa tiễn Mận về nhà, hai người vừa đi vừa tiếp tục câu chuyện đang dở, cách nhà khoảng độ gần ba trăm mét, cậu đang định chào lần nữa rồi về nhưng cậu thấy hình như Mận chưa muốn ra về thì phải. Chính cái lúc Hằng định nói lời cuối thì cô ấy lại hỏi rất nhiều chuyện, đâu là chuyện chiến đấu ở miền Nam rồi chuyện học hành ngày bé của của Hằng. Quãng đường hai người đi dần dần càng gần vào đoạn cổng chính của làng, dự đoán nơi ấy chắc khá đông thanh niên nam nữ nên hầu như cả hai đều có ý đi chậm lại, nếu không nói là đã dừng hẳn lại để nói chuyện mà không đi nữa. Ngay lúc đó có mấy người đi ngược ra bắt gặp hai người, tuy họ không biết hai người này là ai bởi trời quá tối, nhưng họ cũng có ý đi gần hơn xem bọn này là con cái nhà ai mà lại chuyện trò đêm hôm như thế. Có lẽ Mận cũng không thích cảnh này nên cô khẽ nói:
          - Mình ra xa làng một chút anh ạ!
          Đến đây thì Hằng nhận ra rằng Mận chưa muốn ra về, việc chào mẹ Hằng để về chẳng qua là muốn hai người nói chuyện được tự do hơn mà thôi. Thế là hai người lại quay lại con đường cũ và lần này thì họ vượt qua nhà Hằng để tiến ra xa làng thật sự. Đêm nay trời trở gió làm cho không khí khá lạnh, có lẽ đây là đợt rét cuối cùng của mùa đông mà ta quen gọi là rét Nàng Bân. Hằng luôn đi về phía bên phải của Mận có ý như muốn che đỡ cho cô những cơn gió lạnh thỉnh thoảng quét qua hai người. Chả biết đi đi lại lại thế nào hai người lại dừng ngay trước cái lò gạch mà ban chiều hai người đã cùng làm ở đó. Hằng vẫn đứng che gió cho Mận như khi nãy, mặc dù anh chẳng thể nào che hết được những cơn gió ngày càng mạnh hơn thổi từ đầm nước trước mặt. Đi qua, đi lại một lúc thì họ cũng tìm ra được một chỗ khuất gió đó là cái ô cửa đốt lò phía nam dài, rộng mỗi chiều chừng hai mét. Họ ngồi sát nhau trên một khúc gỗ đốt lò tìm được ở gần đó và tiếp tục câu chuyện. Câu chuyện ở nhà miễn cưỡng bao nhiêu thì bây giờ lại say sưa bấy nhiêu. Những câu hỏi và những câu trả lời với nhiều đề tài khác nhau nhưng có vẻ đã rất gắn bó mà không còn rời rạc như trước. Chả biết lúc ấy do lạnh hay do ít ngồi gần bọn con trai mà mỗi lần người Hằng chạm vào thấy Mận cứ run rẩy đến lạ, Hằng vội hỏi khẽ bên tai của Mận:
          - Em có lạnh không?
          - Không anh ạ!
          Bàn tay Hằng đặt nhẹ lên vai Mận khi thấy cô phả hơi thở nóng hổi thì thào trả lời câu hỏi bên tai của anh. Có lẽ cô ấy xúc động về bàn tay của Hằng đang đặt trên vai cô và hình như bàn tay ấy đang từ từ nắm chặt hơn. Sự gần gũi của hai người làm cho họ như trôi đi trong cảm giác thật đặc biệt, mở đầu cho một điều gì đó mới mẻ dường như không cưỡng lại được và nó sắp phải xảy ra. Bắt đầu là bàn tay, rồi đến cả cánh tay của Hằng đã vòng qua vai của Mận, vẫn không thấy cô có một sự phản đối nào. Chả bao lâu sau cả vòng tay của Hằng đã ôm cả thân hình nóng ấm của Mận vào lòng, còn Mận thì thả lỏng toàn thân dựa hẳn vào Hằng. Một cái hôn thật dài như chưa bao giờ dài thế khởi đầu cho một cuộc yêu đương đã phải xảy ra.
          Sau giây phút ấy Hằng cứ tự trách về sự quá dễ dãi của mình, cùng với ý nghĩ đó là sự phân vân về sự quá nhanh, quá gấp gáp khi cô ấy chấp nhận những gì vừa xảy ra giữa hai người. Cô ấy còn quá trẻ, cô ấy có thể yêu nhưng chắc gì đã đủ chín chắn để trở thành một người vợ, một người bạn đối với một người đàn ông hơn cô quá nhiều tuổi. Cô ấy sẽ hành động ra sao khi những điều tình tứ, hoa lá, tươi trẻ trong yêu của những tâm hồn trẻ như cô ấy còn chưa được phát tiết hết? Sự nuối tiếc về những gì mà con người ta chưa được một lần hưởng thụ có thôi thúc cô ấy quay trở lại khi cô ấy đã làm vợ, làm mẹ hay không?  Cái gia đình nhỏ bé ấy rồi sẽ ra sao? Có lẽ cũng cần phải xem lại cho thật cẩn thận! Họ ra về cùng với những lời hẹn gặp lại đêm sau khi đã cảm thấy quá khuya và trời thì ngày một lạnh thêm gấp bội.
          Hằng khẽ kéo cánh cửa bằng liếp ra rồi nhẹ nhàng lách người vào nhà. Anh cố hết sức tránh gây ra tiếng động để mẹ khỏi thức giấc vì người già thường ít ngủ, nếu mẹ bị thức dậy là mẹ sẽ không ngủ lại được nữa. Một điều thật bất ngờ là vừa mới chui vào nhà còn chưa kịp nhìn rõ những gì trong nhà, anh đã nghe tiếng của mẹ cất lên:
- Nhà ấy nó không chịu cho con nó về nhà mình đâu!
Hằng thật không thể ngờ anh đi đâu mẹ anh cũng biết, chưa chừng bà cụ thức từ tối đến giờ đợi anh về cũng nên.
- Mẹ vẫn thức từ tối đến giờ cơ à?
- Tao cũng đã ngủ được một giấc rồi, nằm mãi nhạt mồm tao dậy ăn miếng trầu cho ấm.
- Sao mẹ lại nghĩ là nhà họ sẽ không đồng ý?
          - Tao ở làng này mấy chục năm nay rồi, ai thế nào mà tao chẳng biết.
          - Nhưng nếu cô ấy quyết không nghe thì sao?
          - Con bé ấy đần đần là, bố mẹ nó quát một tiếng là im như thóc, chả dám hé răng đâu!
Dừng một lúc bà lại nói tiếp:
- Nhà nó chỉ ưa giầu sang phú quý, chứ nghèo như nhà ta thì ...
Nói đến đây thì bà dừng lại, liền sau đó là một tiếng thở dài thay cho phần câu nói còn dang dở.
- Đi ngủ đi, mai là thứ hai lên đơn vị cho sớm không người ta lại phê bình cho đấy.
Hằng làm theo lời mẹ như một cái máy mà không nói lại điều gì. Nằm xuống giường đã lâu nhưng anh cũng vẫn chưa có vẻ buồn ngủ. Những câu nói của mẹ vừa rồi làm cho anh rất phân vân và không biết tin vào lời mẹ hay tin vào tình cảm của Mận với những gì mà cô ấy đã hưởng ứng với Hằng trong buổi tối hôm nay.
Ông Chắn bố của Mận là một người còn trẻ, ông thích văn nghệ và đã từng đứng ra làm trưởng đoàn cải lương của làng. Ông là người thích làm các công việc có tính tươi vui trong cuộc sống và lúc nào cũng tỏ ra vồn vã cởi mở đối với mọi người. Ngày xưa mỗi lần Hằng đến nhà ông xem tập cải lương ông vẫn tươi cười đón tiếp và còn rất muốn Hằng tham gia vào đội của ông. Một người vui vẻ hoà nhã như vậy chả nhẽ lại thủ cựu đến mức có thể bắt con gái mình từ bỏ tình yêu chỉ vì người nó yêu không giầu có hay sao?
Cứ nhắm mắt lại Hằng lại tưởng tượng ra trước mắt hình ảnh ông Chắn luôn tươi cười khi anh cùng một người bạn cùng tuổi gọi ông Chắn là cậu ruột đến chơi nhà. Rồi còn những lần xem tập cải lương ở nhà ông, xem ông đi đánh lưới săn những con chim giẽ kiếm ăn trên đồng làng. Có cả những đêm các cậu còn theo ông ra tận đồng Thốp để rình săn lũ chim lạc sau khi được thả bay trong hội không tìm được đường về đã hạ xuống đó để kiếm ăn và uống nước.
Từ mấy hôm trước Hằng chỉ ngại ngần về việc Mận còn quá trẻ, hơn nữa từ trước đến giờ anh vẫn gọi bố mẹ Mận là anh chị, nếu bây giờ phải đổi cách xưng hô thì cũng đáng ngại thật. Ngờ đâu điều đáng ngại không phải là điều đó mà lại là chuyện mối tình có thể bị ngăn trở của gia đình cô ấy. Càng nghĩ anh càng cảm thấy buồn chán và bế tắc, lúc lâu sau anh chậc lưỡi thầm nói với mình: Thôi chẳng nghĩ nữa, mặc kệ sự đời muốn ra sao thì ra! Cố chợp mắt để mai còn lên đơn vị.
Sau buổi tối hẹn gặp Mận không thành Hằng có linh cảm câu chuyện mà mẹ nói có thể đã xảy ra, tuy vậy anh vẫn hy vọng Mận sẽ xuất hiện đột ngột trước mặt anh như những câu chuyện tình lãng mạn mà anh vẫn đọc hàng ngày. Nhưng rồi cái điều tưởng tượng ấy chẳng bao giờ xảy ra vì Mận không biết đã đi đâu vắng biệt tăm hơi. Có lẽ cô ấy đã bị giam lỏng ở đâu đó hoặc đã bị đưa đến nhà ai đó ở quê ngoại để cách ly cô ấy với Hằng. Có một điều mà Hằng không tưởng tượng nổi là có lần Hằng kiếm cớ cùng cháu của ông Chắn vào nhà chơi có ý xem Mận có nhà hay không thì vẫn thấy ông niềm nở và chuyện trò rất thân tình như không có việc gì xảy ra. Đến lúc này thì Hằng thấy mẹ đã đánh giá đúng con người ông Chắn, thế mới biết ông quả là một người kín đáo và sâu sắc. Hằng không đến nỗi buồn bực quá lâu vì dù sao câu chuyện tình của anh với cô Mận cũng chưa đến nỗi nào, hơn nữa với tính cách của ông bố Mận đã làm cho anh thấy không còn muốn gần gũi với họ nữa.
Trong những ngày tháng giêng, tháng hai âm lịch hàng năm của các vùng quê Kinh Bắc cũ vẫn thường có lệ mở những hội hè đình đám. Trước hết là tế lễ Thành hoàng hoặc suy tôn công đức của tiền nhân có công với làng với nước, sau đó là các trò vui, mừng một năm làm ăn thịnh vượng. Bên cạnh đó nhiều làng còn có các lễ hội mang màu sắc riêng khác ví như hội pháo mồng bốn tháng giêng của làng Đồng Kỵ, hội hát Quan họ của bốn mươi chín làng Quan họ, mà hội lớn nhất là hội ngày mười ba tháng giêng vùng chùa Lim. Ngoài ra trong hội còn có rất nhiều các trò chơi dân gian náo nhiệt mà làng nào cũng có. Đáng kể nhất vẫn là nghi thức tế lễ của các cụ trong trang phục tế với những chiếc mũ hình hộp, những bộ áo thụng đỏ, đen, vàng, xanh tuỳ theo tục lệ của mỗi làng trông thật kính cẩn và trang trọng. Sau mỗi câu xướng lên các vị chủ tế, bồi tế cứ lần lượt tiến lên dâng hương, dâng các vật phẩm lên bàn tế.
Còn về phần hội thì càng phong phú hơn với các trò vui gồm đủ loại, đâu là các sới vật với đủ các giải lèo, giải chính. Cho dù giải chỉ là cái mâm đồng, cái chậu thau chả lấy gì làm to lắm nhưng vẫn thu hút rất nhiều các đô vật ở khắp các vùng về tham dự. Đâu là các đô Đình Sấm, các đô Gia Lược, đô Đồng Kỵ, đô Trung Mầu và nhiều vùng tận Hải Phòng, Hà Nội, Hà Tây cũng về tham dự. Những trò vui này vừa mang tính giải trí trong dân gian nhưng trong đó còn có ý muốn duy trì tinh thần thượng võ của cha ông truyền lại.
Ngoài ra các hội làng còn tổ chức chọi gà, đánh cờ, đốt pháo và cả tổ chức các vở tuồng đồ, tuồng pho kéo dài hết cả ba ngày, ba đêm hội với những vở tuồng kinh điển như Lã Bố hý Điêu Thuyền, Sơn Hậu đệ nhất, Sơn Hậu đệ nhị, Rồi thì Bao công xử án Quách Hoè, Bao công xử án Bàng Quý phi vv... Ngoài tuồng cổ còn có cả các loại chèo cổ, chèo cải biên và không hiếm các vở cải lương với nhiều tình tiết ly kỳ anh hùng cái thế hoặc đầy nỗi niềm thương cảm cùng với sự chiến thắng của những người hiền, những chính nhân quân tử cho dù trước đó họ có gặp bao nhiêu gian nan, trở ngại. Hầu hết những vở hát dưới bất kỳ hình thức nào cũng đều phê phán cái ác, cái sai trái, ca ngợi cái đúng, cái hiền, định hướng cho con người ta về cách sống, cách suy xét sao cho phải ở đời. Mỗi vở diễn là một bài học nhân văn lớn cho tất cả mọi người, mong sao cứ giữ mãi được nền nếp sinh hoạt như vậy làm đẹp và làm vui cho đời trên những làng quê thanh bình yên ấm. Những ngày hội, những đêm văn nghệ đã làm dịu đi nỗi buồn trong lòng của Hằng. Anh quyết định sẽ dừng lại tất cả các việc yêu đương để tập trung vào việc lo công việc làm sau khi nhận công tác mới hoặc nhận quyết định ra quân.

                                                             5

Rời sân khấu tuồng của làng Nghĩa Vũ, Hằng lững thững theo đoàn người đi ra phía đầu làng để ra đường cái chính. Làng Nghĩa Vũ cùng một xã với làng của Hằng nhưng ở cách xa làng của Hằng gần một cây số rưỡi. Kể ra thì từ làng Hằng sang đó quả cũng quá xa đối với những người nhiều tuổi, nhưng với lớp trẻ và lại trai tơ như Hằng thì quãng đường ấy chả đáng là bao. Vừa đi vừa nghĩ về vở tuồng mới xem nên Hằng chẳng để ý đến ai, mãi đến khi ra khỏi làng Nghĩa Vũ, Hằng mới thấy những người đi xem xa như Hằng không phải là ít. Trời thì tối, với lại nếu có gặp ban ngày thì chưa chắc Hằng đã biết ai là người làng nên Hằng cứ đi một mình như vậy. Hằng rời nhà đi công tác lâu quá rồi, mà số các chàng trai, cô gái son rỗi hôm nay thì lại vừa mới lớn lên, những thay đổi về vóc dáng làm cho người ta lạ hẳn đi so với thời con trẻ. Nếu có người nào đó giống bố, giống mẹ thì khả dĩ Hằng mới nhận ra, còn thì Hằng đâu có biết ai. Hằng thả lỏng mọi tâm sự, tạo cho mình sự thoải mái rồi cứ thế lững thững đi trong bóng tối nghe các câu chuyện của các cô, các cậu trêu chọc nhau trên dọc đường. Nhiều câu chuyện làm Hằng rất muốn cười nhưng lại sợ các cô, các cậu chạm nọc nên đành cứ nín lặng cố nhịn để đi. Phía trước Hằng là hai cô gái vừa đi vừa tâm sự, tuy chỉ nghe tiếng được, tiếng không nhưng xem ra câu chuyện của họ có vẻ khá rôm rả.
Câu chuyện của họ chỉ tập trung vào mỗi một đề tài là nói về các chàng trai mà họ cùng quen. Hầu như họ chỉ nói với nhau những nhận định của họ về hình thức và tính cách của các chàng mà không nói gì đến điều khác. Những nhận xét của họ xem ra hết sức thật tình, tuy nhiên những người trong câu chuyện đều ở một cái tên bí mật mà họ tự hiểu với nhau, còn tên thực thì ngoài họ chắc không ai biết. Sau rất nhiều nhân vật mà họ nói ra Hằng chẳng mấy chú ý lắm vì Hằng đâu có biết họ là ai. Nhưng đến một nhân vật bộ đội được nhắc đi nhắc lại thì Hằng giật mình, linh cảm cho thấy hình như mấy cô này nói đến ai đó giống mình. Tất nhiên là anh chẳng nghe rõ hết được mọi chi tiết câu chuyện của họ, còn những mẩu đối thoại nghe ra rất suôn sẻ được viết ra sau này chẳng qua chỉ là sự góp nhặt những điều nghe được rồi ghép lại sao cho hợp lý mà thôi. 
- Chị xem cái tay bộ đội mới về ấy trông cũng được đấy chứ?
- Hình như hắn cặp với cái “mờ” ở xóm nhà mày hay sao ấy.
- Tắt rồi bà chị ạ.
- Có chắc không đấy?
- Gớm làm gì mà tìm hiểu kỹ thế? Hay là đã kết người ta rồi đấy?
- Vớ vẩn, biết người ta thế nào mà kết với chẳng quả, tao thì thụi cho mấy quả bây giờ.
Cùng lúc đó hai cô gái díu vào nhau để cấu, véo trêu nhau rồi kêu la oai oái.
- Này im đi, có người đằng sau đấy, khéo người ta nghe thấy người ta cười cho.
- Không phải người làng đâu mà sợ.
- Sao biết?
- Người ấy đi phía sau đã lâu lắm rồi, nếu người làng thì đã lên tiếng.
- ừ nhỉ! Có lẽ là người ở xóm Lẻ mày ạ...Sao họ đi xem xa thế nhỉ?
Hình như cô bạn kia chả nghe hay sao mà thay cho việc trả lời lại là một câu hỏi:
- Này hình như ngày trước anh ấy học cùng với anh cả của chị thì phải?
- Có lẽ thế.
- Mấy đứa bạn em nói ngày xưa anh ấy học giỏi lắm, mấy lần thi học sinh giỏi thành phố cơ đấy, chắc vì nhà nghèo quá nên phải bỏ học để đi chuyên nghiệp chứ nếu không thì ...
- Không biết anh ấy có bị thương không nhỉ?
- Chắc là có, hình như anh ấy đang ở trạm an dưỡng trên huyện thì phải.
- Anh ấy trông cũng được đấy chứ, chỉ tội chả có họ với ai trong làng cả. Hình như nhà anh ấy ngày xưa nghèo lắm, toàn phải đi xin ăn thì phải.
- Em nghe mẹ em bảo ngày ấy vùng mình có hàng trăm, hàng ngàn người ăn mày, ăn xin ấy chứ. Lúc đó làm sao có thể sống được là quý, cần gì phải tính toán này nọ. Này thế chị có kết không để em bảo mấy đứa ở gần đó nó giới thiệu cho.
- Sao mày không tự giới thiệu cho mày ấy.
- Em chỉ sợ em xấu xí quá anh ấy không để ý đến thôi chứ, nếu mà anh ấy đồng ý thử xem.
- Thôi chả nói nữa nhỡ đến tai người ta thì xấu hổ chết mất... Không biết ông nào đi mãi đằng sau mà không lên tiếng thế nhỉ?
- Chị thử quay lại hỏi xem... em đố chị dám đấy.
- Sợ gì, mày mất gì tao hỏi cho mà xem, tao cứ hỏi người ta về đâu là được chứ gì?
- Em chịu một cái véo tai.
- Mười cái?
- Hai cái thôi.
- Được, để tao hỏi.
Sau câu chuyện thách đố giữa hai cô gái là một khoảng thời gian im lặng không ai nói gì. Phía trước hai cô có ý như đi chậm dần lại để chờ người đi sau tiến kịp. Tựa như vô tình người đi sau vẫn giữ nguyên tốc độ nên chỉ độ mấy phút cả ba người đã đi gần như ngang nhau. Cô có hình dáng cao hơn bất chợt quay hẳn lại gần như chạm mặt vào người phía sau vừa tiến đến:
- Anh về...?
Cô gái định hỏi anh về đâu để cho họ đi cùng nhưng chưa kịp hỏi phần sau của câu hỏi đã giật mình sững người lại khi đã nhận ra người cô hỏi chả phải ai xa lạ mà chính là cái anh chàng bộ đội mà họ đã bàn tán suốt từ nãy đến giờ. Tuy nhiên cô cũng nhanh ý hỏi tiếp:
- Anh cũng đi xem ạ?
- Vâng! Tôi cũng đi sang đây lúc tối.
- Anh đi có một mình ạ?
- Tôi đi với mấy người nhưng sau đó không gặp lại, hình như họ đi trước mất rồi.
- Thế thì họ bỏ rơi anh rồi, thôi anh về cùng với chúng em cho vui.
Vừa nói về cùng với chúng em, cô nhìn lên phía trước có ý tìm cô bạn cùng đi với mình, nào ngờ phía trước bây giờ chả còn ai nữa. Chắc rằng khi thấy tình huống vừa rồi cô bạn của cô sợ lộ chuyện nên đã chạy trốn mất, để mặc bạn mình với cái người đáng ngại nọ. Để chữa thẹn cô bạn đành nói với theo vào khoảng không một câu đe doạ  :
- Ngày mai dứt khoát phải đòi nợ mười cái véo tai
- Làm sao mà cô có vẻ tức tối với cô ấy thế?
- Nó dám bỏ em lại một mình.
- Vẫn có tôi cùng đi như vừa rồi đấy chứ?
Cô gái không nói gì nhưng hai vai như đang rung lên và hình như cô đang cố ghìm lại tiếng cười cứ muốn bật ra.
- Này nhưng mà cô tên là gì ấy nhỉ?
- Em là Phương.
- Có phải cô là em của Cầu không nhỉ?
- Dạ phải ạ.
Sau mấy câu hỏi vừa rồi hai người có vẻ bớt bỡ ngỡ hơn, vì dẫu sao thì ít nhất thì họ cũng biết về nhau, với người này thì là bạn cùng học với ông anh của mình. Còn với người kia thì đây là em gái của anh bạn cùng học với mình. Mỗi người đều có một tự nhận như thế và cảm thấy như giữa họ có sự gần gũi lên rất nhiều và câu chuyện hầu như cứ tràn chảy không ngừng. Hết người này hỏi về tình hình của người kia lại đến người kia hỏi lại với bao nhiêu chuyện từ chuyện nhà đến làng xóm rồi đến chuyện đi học, đi làm của cô gái, chuyện về đời lính của chàng trai.
Câu chuyện có lẽ sẽ còn dài nữa nếu như phía trước chưa phải là cái cổng làng sừng sững chắn ngay trước mặt. Hai người dùng dằng một lúc rồi cũng đành phải từ biệt với lời hẹn đến thăm nhau trong những ngày sắp tới.
Một buổi trưa không hẹn trước, Phương và một người bạn gái nữa đột ngột vào chơi nhà Hằng. Ánh sáng ban ngày giúp Hằng nhìn rõ Phương hơn. Cô ấy không đẹp lắm nhưng rất có duyên, đôi mắt hơi sâu có viền đen làm cho người ta rất dễ có cảm tình. Hình như cô ấy cũng đã một vài lần yêu nhưng không biết thế nào vẫn chưa chịu lấy ai. Mấy ngày nay cô ấy đang học thêu ở dưới đình làng, nơi ấy lại khá gần nhà Hằng nên tranh thủ về sớm kéo theo cô bạn vào chơi. Tính ra có lẽ cũng đến mười năm Hằng không gặp cô ấy, nếu nói cho đúng thì có thể còn hơn mười năm vì hồi Hằng đến nhà Cầu thì cô ấy mới mười hai, mười ba tuổi là cùng. Cánh thanh niên thời ấy hầu như hơi ngố trong quan hệ với giới nữ và chắc chắn chả bao giờ để ý đến các cô nhóc ấy làm gì. Trong bụng họ chỉ thấy khó chịu vì các cô em ấy chỉ hay nhõng nhẽo và nhất là hay mách lẻo để bố mẹ mắng mỏ làm khó cho mình. Cuộc viếng thăm dù rất ngắn ngủi với lý do về lo cơm nước để kịp đến lớp buổi chiều nhưng vẫn đầy đủ thủ tục, ngoài ra lại còn hẹn gặp nhau buổi tối hôm ấy mới là điều đáng nói. Linh cảm cho thấy cái số đào hoa của Hằng vẫn chưa cho dừng lại được, đành phải chấp nhận vậy thôi.
Cuộc tình mới với Phương đến cũng nhanh chóng và hầu như không có trở ngại gì đáng kể sau mấy lần đi chơi tối cùng nhau. Mỗi ngày hai người vẫn gặp nhau mỗi khi Phương đến lớp và cả khi Phương rời lớp học về nhà. Họ gặp nhau cả ở trên lớp thêu vì ngoài thời gian lên lớp là thời gian thực hành học viên tự quản. Những người cùng học với Phương đều là người làng cả, họ đều muốn vun vào khi thấy hai người nhiệt tình với nhau như thế. Còn với những buổi tối thì hầu như họ không thiếu nhau bao giờ. Những buổi tối say mê thường làm cho họ quên cả việc về đi ngủ, nhiều hôm đi chơi về muộn Phương toàn về ngủ với cô em họ nhà cậu mợ của Phương ở ngõ Ngách. Được cái cô em họ lại đồng tình với bà chị họ nói thác với bác là chị Phương vẫn về ngủ với cháu nên bố mẹ Phương cũng quen dần với việc Phương luôn không ngủ ở nhà.
Một buổi chiều khi Hằng từ đơn vị về nhà thì thấy mấy cậu bạn bảo cái Phương nó tìm cậu gắt quá không biết để làm gì. Đến ba giờ chiều hôm ấy thì hai người gặp được nhau. Phương ôm chặt ngay lấy Hằng rồi hồi hộp nói với người yêu:
- Bố mẹ em bảo anh đến nhà để nhà xem ý kiến anh thế nào.
- Thế em đã nói chuyện của chúng ta cho bố mẹ em rồi à?
- Em nói bữa trước...mà không nói thì chuyện cũng đã đến tai các cụ ấy rồi làm sao em giấu được.
- Nhưng ý các cụ ấy thế nào?
- Tối nay anh cứ đến thì biết, em chả nói nữa.
Vừa nói Phương vừa ngúng nguẩy bỏ đi giả như dằn dỗi. Mới được một đoạn đã thấy ngoái cổ lại:
- Anh nhớ đến sớm sớm đấy nhé, đừng để các cụ ấy phải chờ.
Nghe Phương báo tin này Hằng thấy thật bất ngờ tự nhủ: Chả lẽ câu chuyện về số đào hoa đáng ngán của mình đến đây là kết thúc được rồi chăng (?)
                      6

          Ánh đèn dầu trong nhà có vẻ không được sáng lắm nhưng từ ngoài cổng Hằng đã nhìn rõ trong nhà, anh tự hỏi:
- Sao lại chả có ai ngoài bố mẹ của Phương thế nhỉ (?)
Nghĩ quanh quẩn một lúc không ra cái gì cả, Hằng chỉ còn biết tin vào lời Phương và mạnh dạn bước vào cất tiếng chào:
- Cháu chào hai bác!
Hai bố mẹ Phương có lẽ cũng bất ngờ ngước nhìn lên chào lạiH:
- Anh đến chơi!
Vừa đáp lại lời chào của Hằng, ông bố Phương xê dịch cái ghế để cho Hằng ngồi xuống, vừa lúc ấy mới thấy Phương xách ấm nước từ nhà dưới đi lên. Đổ xong ấm nước nóng vào cái phích sơn đỏ cô liền di chuyển sang đứng cạnh Hằng. Có lẽ cô nghĩ nếu có cô ở bên cạnh thì người yêu có thể mạnh dạn hơn, hoặc giả cô định làm như thế để khảng định về ý kiến ban chiều là hoàn toàn đúng đắn.
Vừa rót nước ra chén ông bố của Phương vừa nhẹ nhàng nói với Hằng:
- Mấy hôm trước tôi thấy cái Phương nó về nói với gia đình về việc anh và nó có sự tìm hiểu với nhau. Chúng tôi cũng tán thành việc ấy, tuy vậy chúng tôi cũng phải báo qua trong nội tộc rồi mới có ý kiến chính thức. Tôi định trong vài ngày tới tôi hỏi ý kiến trong họ cho phải phép là được. Việc này chỉ là làm cho có lệ mà thôi còn việc chính là chúng tôi đã quyết được rồi.
Ông bố Phương đã dừng nói đã khá lâu mà Hằng vẫn chưa đáp lại được một lời nào. Sốt ruột quá Phương đá vào chân Hằng mấy cái liền để nhắc nhở, đến lúc ấy Hằng mới chợt tỉnh, anh dè dặt nói:
- Chúng cháu còn ít tuổi lại chả biết thủ tục thế nào nên có gì thì hai bác chỉ dẫn.
- Thôi được rồi, cứ đến thứ tư tới này rồi mọi việc sẽ đâu vào đấy cả thôi.
Câu chuyện còn được tiếp tục thêm một lúc nữa về công ăn việc làm của Hằng cùng với một vài câu hỏi về quê quán, anh em của Hằng nữa thì buổi gặp mặt kết thúc. Trong lúc Hằng chào bố mẹ Phương thì Phương đã ghé vào tai Hằng nói nhỏ:
- Nhớ chờ em ở đầu ngõ đấy.
Có lẽ chưa bao giờ Hằng ở trong hoàn cảnh căng thẳng đến như thế, kể cả khi đến chơi và tiếp xúc với bố mẹ của Dụng và bố mẹ của Nghi năm, bẩy năm về trước. Nên sau khi chào bố mẹ Phương thêm một lần nữa thì Hằng đi nhanh ra ngoài cổng, vừa đi vừa mong sao cho chóng thoát khỏi không khí căng thẳng vừa rồi. Theo lời dặn của Phương, Hằng đứng chờ có lẽ phải đến gần nửa tiếng mà vẫn chẳng thấy Phương ra,  anh đoán là bố mẹ còn giữ Phương lại để hỏi thêm nhiều chuyện khác nên chưa chắc Phương đã ra được, thế là Hằng cứ một mạch đi thẳng về nhà không đợi nữa.
Về đến nhà Hằng mới thấy vắng vẻ, anh cũng chẳng thắp đèn lên nữa mà ngồi yên lặng trên mép giường như thế để nghĩ về những sự việc đã qua.  Chiều nay mẹ vào chơi nhà chị hai rồi ở lại trong ấy không về nên những điều vừa rồi Hằng chẳng biết nói  với ai. Còn đang suy nghĩ miên man thì nghe có tiếng bước chân từ phía ngoài sân, anh vội đứng lên xem đó là ai mà lại dám vào nhà mình khi đang tối mò như thế, lại còn chẳng chịu đánh tiếng mới lạ chứ. Vừa thò đầu ra ngoài còn chưa kịp hỏi thì anh đã nhận ra người đó là Phương cùng với câu trách móc tuy rất nhỏ nhưng khá là gay gắt:
- Đã bảo chờ em thế mà lại cứ đi tuột về nhà... sao mà nhà tối thế?
- Cứ đứng chờ đấy để anh thắp đèn.
- Này, thế bu anh đã ngủ rồi cơ à?
- Không, bà cụ đi vào trong chị hai đến chiều mai mới về cơ.
- Thế thì đừng thắp đèn nữa, cứ ngồi tối nói chuyện cũng được anh ạ.
Nghe theo lời của Phương anh cũng không thắp đèn nữa, thế là hai người ngồi ngay xuống mép giường của gian nhà bên trái để nói chuyện.
- Sao lâu thế? Anh tưởng bố mẹ không cho em ra nữa.
- Em phải nói khối lý do ra bố mẹ mới cho đi đấy.
- Coi chừng cũng phải về sớm kẻo các cụ ấy lại tế cho một trận đấy.
- Không sao đâu, em đã nói với bố mẹ là em sẽ về nhà cậu mợ để ngủ, các cụ ấy im lặng không nói gì chắc là tán thành rồi.
- Này thế các cụ ấy không nghi ngờ gì thật à?
- Có gì mà nghi ngờ chứ, hơn nữa đã có cái Hoan nó xác nhận hộ nên chẳng có gì đáng ngại anh ạ.
Buổi tối hôm nay mặc dù không có trăng nhưng do bầu trời có khá nhiều sao nên ngoài trời cũng không tối lắm. Tuy không nhìn thật rõ mặt nhau nhưng họ vẫn nhìn thấy hình dáng lờ mờ của nhau. Trong một khoảng thời gian ngắn thôi nhưng họ đã nói với nhau rất nhiều chuyện. Những chuyện về yêu đươngB, những kế hoạch về cưới xin và nhiều nhiều dự định khác. Họ nói với nhau giống như một đôi vợ chồng vẫn bàn bạc với nhau về công việc sau một ngày làm việc trở về. Có lẽ do mải mê nói chuyện nên đến khi Phương chợt đứng lên đòi về Hằng mới nhận ra là trời đã quá khuya, anh phân vân nói với Phương:
- Chắc em Hoan không còn thức để chờ em nữa đâu, em cứ ngủ ở đây mai về sớm một tý là được.
- Em sợ có ai nhìn thấy thì chết mất anh ạ.
- Cũng chỉ còn thời gian ngắn nữa là mọi việc đâu vào đó, lúc ấy chắc chả còn ai nói gì nữa, với lại từ tối đến giờ chả ai thấy chúng mình ngồi với nhau thì còn sợ gì.
Những câu nói vừa rồi chắc đã thuyết phục được Phương nên không thấy cô nói gì thêm nữa. Cùng lúc ấy Hằng thấy hình như Phương không những đã ngồi sát mà còn dựa hẳn vào người anh để ngủ. Hằng nhẹ nhàng đỡ cho Phương nằm xuống giường và buông chiếc màn màu xanh phòng không xuống. Kế đó Hằng ra ngoài hiên kéo tấm liếp đóng kín cửa rồi vào nằm xuống bên cạnh Phương.
Hằng cũng đã nhiều lần nằm cạnh những cô gái mà Hằng đã yêu nhưng chưa bao giờ Hằng thấy cảm giác lạ như lần này. Chả biết có phải anh cảm thấy yên lòng khi anh đã coi Phương như là người vợ của mình thông qua cái quyết định của bố mẹ Phương lúc tối hay là Hằng thấy mình nằm cạnh một cô gái ở ngay trong nhà mình với một ý nghĩ hoàn toàn yên tâm rằng không có ai làm cản trở đến việc này.
Ngay sau khi nằm xuống cạnh Phương với ý định ngủ lấy một lúc thế nhưng khi nằm cạnh cô ấy hai mắt anh cứ dựng lên mà không sao có thể ngủ được. Anh nghiêng người về bên trái vòng tay ôm lấy Phương và kéo cô ấy nằm sát vào với mình. Những cảm giác đặc biệt cứ trào dâng lên làm anh thấy thật khó chịu, vòng tay anh cứ xiết chặt dần thêm.
Mặc dù không thấy Phương có một cử động nào có ý cưỡng lại nhưng cùng lúc ấy anh nghe thấy tiếng Phương nhỏ nhẹ nhưng tỉnh bơ ngay bên má, chẳng có một tý dấu hiệu ngái ngủ nào:
- Sao anh ôm chặt thế?
- Em vẫn chưa ngủ à?
- Ở bên cạnh anh em chẳng thể nào ngủ được, chỉ khi về nhà thì ngủ lăn, ngủ lóc quên cả trời đất.
Sau câu nói vừa rồi hơi thở của Phương hình như gấp gáp hơn, cả Hằng hình như cũng hồi hộp chả kém Phương là mấy. Trong một khoảnh khắc rất ngắn cả hai người họ chợt ôm ghì lấy nhau và hai cặp môi của họ dính chặt vào nhau... Không biết từ lúc nào mọi thứ vải vóc trên người của họ đã không còn nữa, chỉ còn da thịt ấm nóng chạm vào da thịt ấm nóng. Hai bàn tay của họ thay cho ánh mắt thăm dò đến mọi chỗ của nhau cùng với những cảm xúc thật là bay bổng. Những gì cần phải đến đã đến với họ trong sự hưng phấn đến tột độ không cần phải miễn cưỡng bởi bất kỳ một điều gì.
Họ giật mình tỉnh dậy và thật sự lo lắng sợ rằng ngoài trời đã sáng, nhưng thật may mắn khi Phương nhòm qua khe liếp thấy trời vẫn còn mờ tối. Họ thu dọn lại những gì bừa bộn mà họ đã gây ra trong đêm qua rồi cứ ngồi như thế ôm nhau để mà chờ sáng. Ngoài trời vừa mới mờ sáng Phương đã rời nhà để về nhà cậu, cô ấy sợ lúc về mà cậu mợ gặp thì không biết nói ra sao. Còn Hằng cũng đóng cửa, đóng cổng lại rồi đi lên đơn vị. Sớm nay đơn vị sẽ thông báo về việc tuyển dụng lao động của một số đơn vị sản xuất ở quanh huyện và một số trường chuyên nghiệp đóng ngay trên đất Hà Nội.

                        RA QUÂN

                                1

          Từ sáng thứ hai đến hôm nay đã gần ba ngày, có đến mấy đơn vị vào gặp đoàn mà Hằng vẫn chưa tìm cho mình được một công việc vừa ý. Cũng có chỗ có công việc ngay như xí nghiệp ốc vít Tây Mỗ thì công việc sản xuất ở đó nhàm chán, không phù hợp với tính cách của mình. Việc chuyển sang học nghề sửa chữa xe máy thì họ đòi phải học lại từ đầu. Hằng đã học nghề, đã làm bao nhiêu năm ở ngành điện rồi lại về làm quân giới mấy năm liền ở sư đoàn, bây giờ lại đi học từ đầu thì sao có thể chấp nhận được.
Còn một chỗ tuyển làm ngay là về làm nhân viên thuế vụ thì Hằng càng không thích. Đành rằng đây cũng là công việc nhà nước, nhưng Hằng vẫn ngại công việc này từ xưa đến giờ, bởi công việc này va chạm với rất nhiều người. Hơn nữa công việc này dễ làm cho người ta thay đổi tính tình từ chỗ hiền lành trở thành ác độc, từ ngay thẳng trở thành tham lam khi tiếp xúc với của cải vật chất. Chưa nói đến việc có bao nhiêu kẻ dùng tiền của hối lộ nhờ cậy mình bỏ qua cho họ những việc làm ăn phi pháp. Đến khi không thể mua nổi mình chúng có thể dùng các thủ đoạn ác độc để ép mình đi vào con đường ấy. Bản thân mình đâu phải là người đã được miễn dịch đối với các loại khuẩn độc đầy rẫy khắp nơi. Cho dù cái truyền thống không tham của người, từ ông bố có di truyền lại và cả một quá trình tu dưỡng của bản thân đã chắc gì vượt qua được cái bả vật chất mỗi ngày cứ gậm nhấm vào mình trong khi mình đang vướng bởi cái nghèo, cái khó và vì nó mình đã phải bỏ dở bao nhiêu điều tốt đẹp cả trong tiến thân và trong tình yêu hạnh phúc. Mình đâu có phải là người có bản lĩnh siêu việt, để không phải bị quyến rũ vào cái vòng đó. Điều tốt nhất là nên tránh xa những chỗ như thế thì hơn.
Đang lúc buồn chán vì chưa tìm ra được công việc gì phù hợp cho mình thì Hợp đến. Mấy ngày vừa rồi Hợp không phải ở lại đơn vị vì Hợp là thương binh bị thương cứng khớp gối. Tất nhiên là những công việc kia Hợp không thể tham dự được, có chăng là phải có một ngành nào đó có công việc ít phải di chuyển mà lại không cần đến chân mấy thì Hợp mới làm được, vì vậy nên cậu ấy vẫn cứ phải chờ đợi.
          Hợp đến lần này có vẻ không vui lắm, hình như có chuyện gì đó phiền muộn mà Hợp không muốn nói ra. Hằng đoán chắc là có việc gì nghiêm trọng nên cố gạn hỏi:
          - Có gì không vừa ý mà bần thần ra thế?
          - Cũng khá nghiêm trọng đấy anh ạ.
          - Thì cứ nói xem nào.
          - Em không biết anh với Phương quan hệ thế nào nhưng xem ra có chuyện rồi. Buổi tối hôm thứ ba em qua đấy thấy nhà Phương không biết có chuyện gì mà  ầm ĩ cả lên anh ạ.
          Nghe Hợp nói vậy Hằng cũng chẳng biết đầu cua tai nheo ra sao mà trả lời. Chuyện của hai người thì bố Phương đã nói rõ rồi làm gì lại có thể thay đổi nhanh thế được, còn chuyện qua lại của hai người thì không ai biết, với lại dẫu sao họ cũng sẽ lấy nhau, thế thì có gì đáng phải làm cho lớn chuyện.
          - Này thế cậu có nghe được cái gì không thì nói cho tớ biết để tớ tìm cách xử lý chứ.
          - Nói chung là rất tệ, những lời họ nói chắc anh sẽ rất khó chịu.
          - Thì cậu cứ nói cho tớ nghe xem nào.
          - Họ nói thì nhiều nhưng có mấy ý này là căng nhất. Thứ nhất là họ bảo nhà anh không có gốc ở đây, chẳng biết ở đâu cả. Ngày xưa đã phải đi ăn xin, ăn mày, còn bây giờ hoàn cảnh vẫn quá khó khăn. Nếu để con cái nhà mình vào đó thì chắc là sẽ khổ. Nhưng cái chính mà họ không muốn nói ra ấy là hai nhà không môn đăng hộ đối.
          Nghe Hợp nói từ đầu đến lúc ấy Hằng chỉ lặng lẽ nghe mà không nói một lời nào, sau cùng anh thở dài và nói như trong mộng:
          - Cũng chả khác gì nhau cả...
          Hợp thấy Hằng lẩm bẩm vội hỏi lại:
          - Anh bảo cái gì cơ? 
- Chả có gì đâu, chú cứ về đi.
Vừa nói Hằng vừa đứng lên đi về phía cổng của đơn vị, cũng chẳng để ý đến Hợp đang gọi ở phía sau lưng. Mãi đến khi ra đến cổng mấy anh bạn đứng gác gọi lại rồi chỉ về phía sau Hằng mới nhận ra. Anh đi vội trở lại phía Hợp, có lẽ anh không muốn để Hợp phải cà nhắc đi đến với anh là chính, đến khi đối diện với nhau Hợp mới nói:
- Phương nhờ em dặn anh là sáng mai cô ấy sẽ trốn nhà lên gặp anh, anh nhớ đón cô ấy ở cổng chợ Sa đấy nhé.
Hằng nghe Hợp nói xong chỉ gật đầu nhẹ rồi lại quay ra phía cổng doanh trại. Vừa bước chân qua cổng mấy cậu gác lại hỏi giật giọng:
- Về nhà đấy hở?
Vừa nghe hai cậu gác đánh tiếng Hằng liền quay lại bốt gác, tay thì móc bao thuốc đã bóc dở ném cho hai cậu này, miệng thì thủng thẳng nói:
- ừ, tớ về qua nhà tý, anh Đạt C phó đồng ý rồi.
Thực ra Hằng không về nhà mà đi lang thang dọc con đường từ doanh trại vòng ra đường chính lên ngã ba Trạm biến thế 110 KV. Trong đầu anh có hàng chục giả thiết về nguyên nhân sự việc và cùng với nó là hàng chục những phương án để nhằm cứu vãn mối tình của hai người. Nhưng cứ nghĩ đến những người như ông Chắn và những người trong họ nhà Phương anh lại bực giận về những lời nói của họ. Họ đâu có hiểu được bố mẹ Hằng và cả Hằng nữa đã sống trong sáng đến thế nào. Họ đâu có hiểu gia đình nhà Hằng thà sống khổ cực mà không cần nhận một tý vật chất nào của làng xã cấp cho trong thời gian cải cách. Đành rằng có lúc những người thân của Hằng đã phải chìa tay đi xin những phần vật chất rất nhỏ để độ thân, để tồn tại trong cái thời cả dân tộc đói.
Trên đất nước Việt Nam này có được bao nhiêu người từng phải sống như con vật trong suốt những năm phong kiến, thực dân. Có bao nhiêu người từ kiếp tôi đòi giờ đây được Cách mạng đưa lại cho quyền làm người. Họ đâu hiểu được đã có bao nhiêu người từng một thời làm vua, làm chúa và rồi đã có lúc phải xuống làm nô tỳ, làm nàng hầu, làm con sen, thằng ở sống nơi bếp gio, thùng trấu. Trên đời này còn có bao người phải chết đói bởi không làm nổi một kiếp ăn mày.
Anh sẽ phải từ bỏ con gái họ để họ hiểu rằng anh đâu có muốn đến làm thân với họA, đâu phải vì cái đông đàn, đông lũ, vì cái danh giá tông tộc của họ. Nhưng còn Phương? Phương sẽ thế nào khi trong lòng cô ấy đã hoàn toàn tin vào mối tình giữa cô ấy và Hằng. Sự đổ vỡ khác nào xé nát cõi lòng cô ấy. Chả lẽ mình cũng trở thành một người thù hận bình thường như những con người kia chăng, dù sao cũng phải gặp Phương vào ngày mai đã. Những ý nghĩ tích cực trên đã giúp Hằng cảm thấy nhẹ nhõm đi một phần nào. Anh quyết định gặp Phương vào sớm ngày mai như đã hẹn.
Chợ Sa vào đúng phiên nên khá đông, tuy vậy Hằng vẫn nhận ra Phương đang đứng với cô em họ bên  gốc cây đa đầu chợ. Khi hai chị em Phương gặp Hằng rồi thì cô em họ chia tay vào chợ mua hàng. Hằng cầm tay Phương đi qua chợ để lên khu đồi trồng cây nằm phía bắc chợ Sa. Thực ra khu đồi này chính là dấu tích Loa Thành của vua An Dương Vương mấy ngàn năm về trước, giờ đây người ta trồng những cây trám, cây mít, cây ổi và một vài loại cây ăn quả khác. Bên dưới gốc các cây to ngưòi ta trồng một vài trăm hom sắn, mỗi năm thu hoạch một ít củ để ăn. Ngoài ra đồi còn mọc tự nhiên lên một số loại cây hoang dại làm thành những bụi rậm cao gần ngập đầu người vì thế nên Hằng và Phương đi vào đó cũng ít có người nhìn thấy được. Hai người chọn một chỗ khá xa làng xóm để tránh gặp người lui tới.
Cả hai người cứ lặng lẽ đi mà chẳng ai chịu cất tiếng làm tăng thêm sự căng thẳng. Chỉ đến khi dừng lại nhìn vào mắt Phương mới thấy hình như cô khóc quá nhiều. Cứ mỗi lần nhìn vào hai mắt của Phương là trong lòng Hằng lại cảm thấy như có muối xát. Chưa bao giờ anh lại cảm thấy lòng mình xót xa đến như vậy. Anh dùng cả hai tay kéo Phương gần lại với mình, chỉ chờ như vậy là Phương ôm chặt lấy người yêu rồi im lặng để cho nước mắt chảy dài trên má. Hằng cũng ôm chặt lấy Phương để mặc cô khóc trong im lặng, anh nghĩ có như vậy cô ấy mới có thể trấn tĩnh lại được. Quả nhiên anh đã đoán đúng điều đó, vì chỉ sau mươi phút thả lỏng mình trong lòng người yêu cô đã không còn khóc nữa. Hai tay cô lỏng dần, ngước lên nhìn vào mặt Hằng và nói chậm từng tiếng một:
- Em biết là anh rất giận những người trong họ nhà em, mong anh thông cảm cho họ, để rồi em sẽ nói cho họ hiểu ra.
- Anh cũng mong là thế.
- Em cũng không ngờ được anh ạ! Mọi việc tưởng như đã ổn thoả cả, vậy mà sau lúc em xuống dưới bếp tự nhiên thấy ầm ĩ cả lên, thậm chí bố mẹ em cũng không còn bình tĩnh được nữa.
- Sao anh nghe nói cả bố và mẹ em cũng đã tuyên bố không chấp nhận quan hệ của chúng ta.
- Em cũng không biết người ta đã nói những gì trong lúc em không có ở đó. Có lẽ có một người nào đó đã khơi ra cái quy ước cũ của họ nhà em.
             - Theo em thì nên làm như thế nào bây giờ?
- Em sẽ thuyết phục bố mẹ em dần thôi anh ạ.
- Anh sợ em không làm được, vì cái chuyện môn đăng hộ đối, rồi thì giầu nghèo từ lâu đã ăn sâu vào họ.
- Chỉ cần anh chờ đợi, mấy lại đừng nổi giận với họ là được.
Dù nói với nhau như thế nhưng trong lòng họ cũng không tin lắm vào những dự kiến của mình. Tuy nhiên trong lúc này thì họ cũng chỉ còn biết chờ đợi chứ còn biết làm gì. Họ chia tay nhau sau rất nhiều cử chỉ âu yếm để tự động viên, an ủi nhau vượt qua trở ngại.
Tuy rằng bố mẹ Phương cấm cô gặp Hằng nhưng bằng cách này cách khác cô vẫn đến gặp được anh. Khi thì tranh thủ đến lớp sớm hoặc về trước giờ để vào gặp người yêu. Mỗi lần như thế họ lại hỏi về xem tình hình đã tiến triển đến đâu rồi và lại thở dài chờ đợi.
Đã gần một tháng trôi qua trong tình trạng gặp gỡ tranh thủ như vậy mà Phương vẫn chưa thuyết phục được bố mẹ và những người trong họ. Mỗi lần gặp nhau họ cũng chỉ còn dành cho nhau chút tình yêu như ban đầu vậy thôi.
Tuần này cũng đã là bốn tuần Hằng lấy giấy giới thiệu đi liên hệ công tác. Anh đã đi đến hàng chục nhà máy xí nghiệp mà vẫn chưa xin được ở đâu. Chỗ nào họ cũng đòi hỏi hộ khẩu gốc ở Hà nội, mà hộ khẩu của Hằng thì lại ở Thanh Hoá.
Chiều nay anh dự định sẽ vào Xí nghiệp sửa chữa thiết bị điện Đông Anh để xin việc, đây là một đơn vị trong ngành điện, đơn vị cuối cùng có công việc hợp với ngành học cũ của anh. Gần ba mươi phút chờ đợi mới thấy ông trưởng phòng tổ chức đi họp về. Sau mấy câu chào hỏi thủ tục ông cầm đơn của Hằng lên xem rồi ông hồ hởi nói luôn:
- Thế này nhé! Tớ sẽ nhận cậu về làm việc được chưa nào. Hộ khẩu à, không cần đâu chỉ cần quyết định ra quân và hồ sơ của cậu là được.
Hằng mừng quá đến nỗi không biết nói gì với ông trưởng phòng có giọng nói miền Nam này, anh cứ ú ớ trong miệng mà mãi không thoát ra được.
- Thôi cứ về chuẩn bị đi, thứ tư này mang đến cho tớ xong là đi làm ngay đấy nhé, thôi về đi bây giờ tớ cũng phải sang Hà Nội để họp  đây.
Nói xong ông nhanh nhẹn bước ra khỏi phòng trước cả Hằng. Đến lúc Hằng quay ra thì chỉ còn một người vẫn ngồi ở chiếc bàn kề ngay cửa ra vào. Anh cất tiếng chào chiếu lệ rồi bước nhanh ra khỏi phòng lòng mừng khấp khởi.
Ra khỏi cửa anh lại giật mình chợt nghĩ R: Lại thứ tư! Vừa mới thứ tư “khủng hoảng” xong bây giờ lại thứ tư dễ lại xôi hỏng bỏng không lắm!
Thứ tư cùng với sự mong đợi cháy ruột, cháy gan rồi cũng đã đến, Hằng đến cửa phòng tổ chức sớm hơn đến gần ba mươi phút và phấp phỏng chờ đợi ở một cái ghế ngoài hiên. Thời gian mỗi lúc một dài, từ lúc có đôi ba người đến các phòng ban bên cạnh làm việc đến lúc các phòng ban này đã đầy người vẫn chưa thấy ông trưởng phòng tổ chức ấy đâu. Nhìn đi, nhìn lại vẫn chỉ thấy có mỗi một ông nhân viên ngồi gần phía cửa hôm trước đi vào mà chẳng thấy có ai vào thêm nữa. Đến lúc này thì Hằng không còn cách nào hơn là vào hỏi ông nhân viên nọ xem sao. Bước chân vào cửa phòng anh chợt nhận ra rằng ông nhân viên hôm nọ không ngồi ở chỗ cũ mà ngồi ngay vào chỗ của ông Hược trưởng phòng vẫn ngồi. Hằng khẽ dặng hắng đánh động để cho ông nhân viên ngẩng đầu lên, thế là Hằng tranh thủ ngay lúc đó để cất lời:
- Anh cho hỏi bác Hược hôm nay có đi làm không ạ?
Ông nhân viên vừa ngắm Hằng như muốn cố nhớ xem người này là ai rồi từ tốn hỏi lại:
- Anh gặp bác Hược có việc gì thế?
- Tôi được bác ấy hẹn gặp để làm thủ tục xin vào xí nghiệp ạ.
- À thế thì tôi biết rồi, hôm thứ bảy tuần trước anh đến làm việc với bác ấy có phải không?
- Vâng đúng thế ạ!
- Rất tiếc cho anh là bác ấy phải đi Nam để nhận nhiệm vụ mới từ chiều hôm trước mất rồi.
- Thế còn công việc của tôi, bác ấy có trao đổi lại với ai không ạ?
- Hôm ấy tôi cũng đã biết ý kiến của bác Hược nói với anh, nhưng do mới tiếp cận công tác này nên tôi cũng chưa biết cách xử lý ra sao với trường hợp không có hộ khẩu gốc ở Hà Nội. Tuy nhiên tôi có thể hứa với anh rằng tôi sẽ ghi nhớ việc này để đưa vào kế hoạch xin điều động của công ty trong năm tới. Lúc ấy chỉ cần có quyết định là có thể nhập khẩu được.
- Vấn đề là từ nay đến sang năm tôi sẽ phải làm thế nào để có quá trình công tác liên tục được.
- Có lẽ anh cứ về đơn vị cũ sau đó để địa chỉ lại, tôi hứa sẽ giúp anh thật sự.
- Cũng đành phải chấp nhận vậy thôi, địa chỉ đơn vị cũ tôi cũng đã ghi đầy đủ trong đơn và hồ sơ rồi, xin gửi lại nhờ anh giúp hộ vậy.
Sau một vài câu trao đổi và hứa hẹn, Hằng bắt tay ông trưởng phòng mới của Xí nghiệp thiết bị điện Đông Anh rồi ra về. Trên dọc đường từ xí nghiệp ra đến đường chính Hằng chợt lại nhớ đến sự linh cảm hôm nọ, anh cũng không hiểu thế nào mà sự việc lại linh nghiệm đến thế. Thôi thì cứ trở lại Thanh Hoá để làm việc trong một thời gian đã, vừa là để chờ đợi, vừa để cho có thời gian dài hơn một chút cho Phương vận động gia đình. Rời khỏi Xí nghiệp sửa chữa thiết bị điện, Hằng liền về đoàn an dưỡng đăng ký xin phục viên về đơn vị cũ. Ban chính sách cũng chẳng có khó khăn gì khi ghi lại ý kiến của anh vào phần ghi nguyện vọng của quân nhân.
Anh về đến nhà thì trời đã nhá nhem tối. Đặt mình lên chiếc giường xong liền ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Đến khi mẹ đi chơi trong chị ba về thì trời  tối đã lâu rồi. Anh chỉ giật mình choàng dậy khi thấy mẹ đang bỏ màn xuống cho anh, anh vội lên tiếng:
- Con chưa ngủ đâu, mẹ cứ để đấy cho con.
Nghe nói thế bà cụ lại vén màn trở lại rồi ngồi xuống bên cạnh con trai:
- Thôi con ạ! Để rồi tìm chỗ khác. Khối người thiên hạ về làm dâu làng này chẳng những tháo vát lại khéo cả đường ăn ở ví như mấy chị ở xóm Giữa, xóm Đình ấy.
Hằng không nói gì về những lời khuyên của mẹ, anh buồn rầu nói:
- Sắp tới con phải trở lại Thanh Hoá. Con chỉ mong có người đỡ đần mẹ trong lúc con đi vắng là được.
- Chả lẽ lại không xin ở gần được à?
- Con cũng cố gắng lắm nhưng không được.
- Chắc anh lại bực mình mà xin đi xa chứ gì!
- Không phải đâu mẹ ạ!
- Thôi đấy là tuỳ anh, bây giờ các anh đã có lông, có cánh bay đâu mà chả được, vợ con không lo để trơ lại cái thân già này chết khô chết héo chứ gì?
Nghe mẹ nói thế Hằng cũng cảm thấy cay cay ở sống mũi, anh cố trấn tĩnh vừa cười vừa trêu bà cụ để cho không khí trong nhà đỡ nặng nề hơn:
- Cụ ơi! Chỉ sợ rồi cụ lại réo lên rằng tôi mệt quá rồi, sao mà các anh, các chị đẻ nhiều đến thế không biết được.
- Được thế thì phúc nhà tôi đã to bằng cái đình.
Cứ nghe giọng nói của cụ, Hằng đoán cụ không còn giận mình nữa, cụ chỉ nói dỗi vậy thôi. Biết vậy là đã ổn, Hằng đứng lên chào mẹ rồi đi vào trong làng.
- Nhớ về mà coi nhà đấy, tao đi ngủ sớm, mai còn phải vào trong anh Thiện để giúp cho vợ chồng nó vài buổi cỏ.
Hằng mới đi khỏi nhà chưa quá trăm thước đã gặp Phương chờ ở đó:
- Đã hẹn thế sao mãi mới ra, tý nữa thì em về mất.
- Anh nằm chờ tối hẳn rồi chợp mắt ngủ quên mất, bà già không động vào màn thì có lẽ vẫn đang còn ngủ.
Thực ra Hằng là người rất ít ngủ, mỗi ngày anh ngủ không quá sáu giờ đồng hồ nhưng vẫn thấy bình thường. Có thời gian thức liền hai ba ngày sửa chữa nhưng anh cũng không phải ngủ bù. Chắc do thời gian vừa qua gặp nhiều chuyện phải suy nghĩ căng thẳng nên thần kinh có vẻ mệt mỏi mà thôi. Phương đâu có biết Hằng gặp bao nhiêu là chuyện trong thời gian qua.
- Tình hình ở nhà em bây giờ thế nào rồi?
- Vẫn thế thôi, em muốn cho tình hình lắng dịu đi một chút anh ạ.
Hằng thấy sốt ruột, tuy vậy anh lại không muốn làm Phương buồn nên anh chẳng nói gì thêm.
- Hôm nay anh bị bà cụ mắng cho một mẻ tý nữa thì to chuyện, về sau anh phải tìm cách làm dịu đi rồi mới ra đây được đấy.
- Mẹ anh mắng vì lý do gì  thế?
- Chung quy vẫn chỉ là chuyện không chịu lấy vợ, với lại hình như hồi này cụ yếu hơn dạo trước nhiều.
- Thế anh nói với cụ thế nào?
Dù vẫn nghe Phương hỏi nhưng anh lại không trả lời mà nói sang đề tài khác:
- Thực ra việc ấy chưa hẳn làm cụ buồn phiền bằng việc anh phải quay lại cơ quan cũ ở Thanh Hoá.
Vừa nghe Hằng nói phải đi Thanh Hoá, Phương giật mình vội hỏi lại ngay:
- Anh lại đi Thanh Hoá? Thế còn chuyện của mình anh tính thế nào?
- Anh cũng đã đi xin việc khắp nơi mà không được, nên đành phải chấp nhận vậy thôi. Phần vì anh muốn mình xa nhà một thời gian để em có cơ hội vận động bố mẹ và họ nhà em khách quan hơn.
- Em sợ xa nhau rồi mọi cái sẽ ...
Không để Phương nói hết câu Hằng lại tiếp luôn cái kế hoạch mà anh chợt nghĩ ra:
- Anh định vào đấy một thời gian, nếu công việc dễ xin thì xin cho em vào đó. Khi đã ở trong cơ quan rồi mình tổ chức, chắc là  không ai ngăn cản.
- Em sợ, có khi mình cũng phải...nhanh kẻo lỡ ra sẽ không kịp anh ạ.
- Chả lẽ em đã...
- Kỳ vừa rồi em không...với lại em thấy có vẻ khang khác thế nào ấy!
Câu chuyện đến đây đã làm cả hai người lo lắng thực sự, tuy vậy Hằng vẫn động viên Phương:
- Nếu vậy em cứ theo anh vào Thanh Hoá là mọi sự sẽ giải quyết được hết.
- Chắc nhà chẳng chịu cho em làm thế đâu anh ạ.
- Em cố tìm xem có cách nào không.
- Độ bao giờ thì anh đi?
- Chắc là vào đầu tháng mười tới, em sẽ đi tiễn anh chứ?
- Hồi này các cụ ấy giám sát chặt lắm, không biết em có đi tiễn anh được hay không. Em sợ các cụ ấy làm dữ rồi ảnh hưởng đến anh.
- Thôi thế để sau viết thư cũng được.
Hai người chia tay sau một loạt những đoạn kể lể và trêu chọc lẫn nhau không đầu không cuối. Trời về khuya không khí đã hơi lạnh thổi vào cơ thể hai người, họ dùng dằng một lúc rồi mới chịu rời nhau ra, mỗi người đi về một ngả.

                                                     2

Sau khi chen chúc đến ngột thở Hằng cũng mua được chiếc vé tầu đi Thanh Hoá. Tiếp theo là một cuộc vạ vật trên những bao ngô của một toa tầu có hai ghế chạy dọc thành toa. Loại toa chuyên dùng cho những con buôn hàng cồng kềnh vào Nam ra Bắc. Hằng xuống ga khi trời vừa sáng được một lúc, anh đi dọc con đường nhựa đã bong gần hết để vào trụ sở của nhà máy điện. Ngày anh đi bộ đội nhà máy còn đóng nhờ nhà dân nơi sơ tán, đến bây giờ thì nhà máy đã có cơ sở mới thật khang trang. Các phòng ban làm việc ở trong những gian nhà ngói khá rộng và sạch sẽ, so với thời chiến tranh thì bây giờ đã tốt lắm rồi.
Người tiếp anh là ông trưởng phòng tổ chức mới mà anh không biết tên. Ông cán bộ này khá niềm nở và nhiệt tình, ông nói:
- Anh chờ một chút phòng sẽ viết quyết định tiếp nhận. Về công việc thì nhà máy có thể giải quyết theo hai hướng, một là có thể về chính đơn vị cũ hai là bố trí về đơn vị mới theo nguyện vọng.
Ông dừng lại như có ý chờ xem anh có ý kiến gì không, thấy anh không tỏ vẻ khó chịu và xem ra còn có phần ưa chấp hành hơn là đòi hỏi, ông liền cất tiếng tiếp tục:
- Nếu anh thấy sức khoẻ không tốt thì có thể về làm nhân viên ngay ở phòng tổ chức, phòng hiện vẫn đang cần bổ sung thêm vài người nữa.
- Báo cáo đồng chí trưởng phòng, tôi vốn quen với công việc trực tiếp, có lẽ cứ cho tôi về đơn vị cũ.
- Thôi thế cũng được, anh cứ cầm giấy giới thiệu này về gặp ông Đính quản đốc phân xưởng cơ điện ở khu Lán ổi cũ rồi chúng tôi sẽ gửi quyết định sau.
Hằng lại về tổ sửa chữa máy của phân xưởng cơ điện, nơi ngày xưa Hằng đã làm việc tại đó, và cũng từ nơi đó Hằng đã ra đi suốt sáu năm qua. Những người của tổ máy cả cũ, cả mới, rồi thì cả phân xưởng đều đến thăm hỏi và chúc mừng Hằng. Những câu chuyện chiến trường của Hằng thu hút mọi người suốt từ tối đến đêm khuya. Những bác thợ già tóc bạc, những người bạn cùng trang lứa với Hằng, cả những bà chị trong khu công nhân còn đem cả lũ trẻ đến chơi. Những thay đổi từ ngày Hằng đi vắng được dịp nói ra để cho Hằng và tất cả mọi người cùng nghe. Cuối cùng thì cũng có người đặt ra một câu hỏi về chuyện vợ con của Hằng. Câu hỏi tuy rất thông thường nhưng lại hoá ra quan trọng, quan trọng đến nỗi có người suýt xoa rằng:
- Đấy, bao nhiêu là chuyện mà vẫn quên cái đoạn này đấy nhớ!
- Thì cũng phải dần dần chứ, một lúc nói sao cho hết được. 
Hằng còn chưa kịp trả lời câu hỏi đã có người đã tiếp ngay:
- Chắc là có rồi chứ? Ba mươi rồi còn gì!
- Dạ... cũng do cứ ở chiến trường suốt nên vẫn chưa có gì cả ạ.
- Thế thì phải nhanh lên chứ không lại cha già con cọc như tớ thì chán chết.
- Số cùng lứa với cậu có đứa đã hai con rồi đấy.
Những đợt thăm hỏi và những câu chuyện rồi cũng thưa dần. Hằng đã trở về với hình ảnh cũ, còn mọi người rồi cũng bận với công việc chung, công việc riêng nên không còn quan tâm mãi đến Hằng được. Xung quanh Hằng bây giờ chỉ còn những người bạn cùng khoá và những người cùng làm trong một tổ sản xuất. Có chăng thêm vài người cũng quan tâm đến Hằng là mấy cô, mấy chị ở tổ sửa chữa điện; những người hàng ngày vẫn làm cùng một chỗ với tổ của Hằng.
Điều làm cho họ gần gũi với Hằng vì một lý do rất dễ hiểu đó là tình thương luôn đầy đặn của người phụ nữ nói chung với những người có hoàn cảnh éo le và không may mắn cũng như những người luôn bị thiệt thòi, kém cạnh do đồng loại gây ra. Đối với những người bị thiệt thòi, kém cạnh do phải hy sinh quyền lợi của mình cho dân cho nước thì lại càng làm họ yêu quý và cảm thông dẫn đến thương yêu nhiều hơn nữa. Cũng chính vì điều đó nên ở đâu và bất cứ chỗ nào họ cũng cố tìm ra trong bè bạn, trong đồng đội xem có ai đó có con gái, em gái để mà giới thiệu cho Hằng. Họ mong sự giúp đỡ của họ phần nào đó để Hằng cũng có hạnh phúc như họ. Thế còn những người đồng giới với Hằng họ có ý nghĩ đó không? Cũng có đấy, thậm chí những điều họ muốn tạo ra cho Hằng những gì là hạnh phúc còn cao hơn, nhiều hơn những người phụ nữ.
Người ta gắn bó với nhau, thân quý nhau và nhớ mãi về nhau cũng bởi cái tình đồng cảm và cao hơn là sự lo lắng cho nhau, quan tâm đến nhau mà chẳng ai phải yều cầu, chẳng ai phải ra lệnh. Đó chính là cái người nhất của con người vậy! Hằng cảm thấy mình thật hạnh phúc, thật biết ơn mỗi khi nghĩ về điều ấy. Có lẽ đấy là chất xúc tác nuôi lớn thêm lòng yêu người, lòng vị tha của Hằng trong những năm sau này.
Cũng từ những quan tâm của mọi người mà lắm phen Hằng rối hết cả lên và rồi chẳng còn biết thế nào mà hưởng ứng nữa. Hôm thì phải tiếp cô Mão cháu bà Nhung làm ở Đường sắt, lúc lại phải tiếp cô Lạn trưởng cửa hàng thực phẩm. Lắm người còn rỉ tai bảo Hằng đến tán tỉnh mấy cô bé con của mấy anh chị cùng trong phân xưởng mới độ mười bẩy, mười tám tuổi vẫn gọi Hằng bằng chú mới chết chứ. Họ dẫn ra khối cặp vợ chồng lệch nhau đến hai mươi tuổi để bảo rằng việc đó là không sai. Những lúc như thế Hằng chỉ còn biết cười tủm, gật đầu lấy lệ rồi chào mà đi chứ còn biết làm sao được.
Công việc sửa chữa ngày một nhiều thêm làm cho cả tổ bận tối tăm cả mặt mũi. Công việc cuốn Hằng đi như những ngày nào làm cho Hằng tạm quên đi nhiều điều còn đang mắc mớ trong lòng. Tuy vậy Hằng cũng đã tranh thủ về qua Minh Đức để xem Nghi bây giờ thế nào. Mọi cái hình như đã khác trước nhiều, mà cũng phải thôi, đã hơn sáu năm rồi còn gì. Bãi cát, và hàng phi lao chắn sóng vẫn còn đó nhưng nhà thì không thấy đâu. Thực ra Hằng cũng không muốn sẽ gặp Nghi trực tiếp bởi Hằng sợ làm gia đình Nghi khó nghĩ khi Hằng ở mặt trận về, còn Nghi thì đã không chờ nữa hoặc giả người chồng của Nghi sẽ nghĩ thế nào về vợ mình khi tự nhiên lại gặp một người đã từng gần gũi với vợ của mình và rồi mọi tưởng tượng, mọi ngờ vực sẽ làm rạn nứt hạnh phúc của họ. Hằng đi loanh quanh một lượt, chợt gặp một quán nước ven đường, Hằng quyết định vào đó uống nước để rồi tìm cách hỏi thăm về Nghi.
Sau khi đã uống được một nửa cốc nước chè xanh, Hằng đặt cốc xuống giả như vô tình hỏi bà chủ quán:
- Ngày xưa, hình như cháu thấy nhiều gia đình sống ở gần bể lắm thế mà nay sao lại không thấy bác nhỉ?
- Họ ngại gió bão với lại hợp tác đã cho họ chuyển đi chỗ khác rồi anh ạ.
- Họ ở có xa đây không bác?
- Cũng không xa lắm đâu, anh quen nhà ai tôi chỉ cho.
- Cũng không quen lắm bác ạ, chỉ có lần đi tham quan cháu nghỉ nhờ nhà một ông cụ chuyên chữa thuốc Nam mà có cô con gái tên là Nghi ấy ạ.
- Thế thì nhà ấy đã chuyển lên kia kìa.
Hằng đứng lên ngó theo tay bà cụ gật đầu ra vẻ đã nhận ra rồi hỏi tiếp:
- Chả biết cô con gái ông cụ có còn công tác hay đã về rồi bác nhỉ?
        - Nó lấy chồng ở đâu xa lắm cách đây đã mấy năm rồi còn gì.
- Có chắc không bác?
- Sao không? Chỉ có điều là nhà chồng nó thì tôi không biết.
- Thế còn cô em cô ấy bác có biết không?
- Tôi lạ gì nó, cũng có gia đình rồi.
Hằng còn hỏi bà cụ thêm một vài câu hỏi về địa danh các vùng lân cận để cho câu chuyện tự nhiên hơn rồi đứng dậy trả tiền nước.
Về đến nhà thì trời đã muộn, anh lấy cơm tập đoàn về nhà rồi ngồi ăn ngay trước cửa. Mấy anh chị ở khu gia đình đi qua vừa cười, vừa trêu làm cho Hằng quên đi bao buồn bã trong lòng. Trở lại Minh Đức lần này thực ra chỉ để xác nhận lại những điều anh Yên là người ở Ngư Lộc đã cho biết từ mấy hôm trước mà thôi. Dù sao thì mọi việc đã đúng như dự định của Hằng khi anh chia tay Nghi đi chiến trường ở ga Thị Long năm ấy.
Hằng đi xem phim ở bãi Hàm Rồng về đã hơn mười giờ mà Đoài vẫn chưa về nhà. Hằng vừa dọn giường vừa lẩm bẩm: Không biết cậu này họp hành gì mà muộn thế không biết? Cũng chưa kịp buông màn đi ngủ thì nghe gõ cửa, Hằng đoán là Đoài về liền cất tiếng:
- Cửa khép hờ đấy, cứ đẩy mà vào.
- Đã ngủ rồi cơ à, sao sớm thế? Dậy mà nhận thư đây này.
Hằng bật dậy đón lá thư từ tay Đoài ném cho, chỉ mới nhìn dáng chữ ngoài bì Hằng đã nhận ra đó là thư của Phương, anh vội xé bì thư mở ra đọc.
- Thư của cô nào mà chữ đẹp thế không biết?
- A... à thư của cô em đấy mà.
Hằng mong bức thư này lắm, vì có thể trong đó sẽ có tin về sự thay đổi của gia đình và họ hàng nhà Phương, hoặc không thì cũng có ý kiến của Phương về việc có đi vào Thanh Hoá hay không.
Những hàng chữ xiên xiên màu xanh đều đặn lướt nhanh dưới mắt của Hằng, anh sốt ruột đón nhận các tin tức nên chẳng để ý đến những mở đầu tình tứ mà lướt qua một lượt từ đầu đến cuối, sau đó anh mới đọc lại từ đầu. Anh cũng không biết vui hay buồn khi Phương thông báo về “sự cố” hôm trước đã không có gì xảy ra. Tất cả những điều Phương muốn nói với Hằng là xin hãy chờ đợi cô ấy... Điều anh mong đợi là nếu không có sự cải thiện về không khí căng thẳng của gia đình Phương thì “sự cố” đó là sự đã rồi để mọi người sẽ phải chấp nhận và cô ấy sẽ vì nó mà mạnh dạn hơn, có thế mọi việc mới có thể tiến triển được. Nhưng việc đó đã không xảy ra.
Anh không lạ gì tính cách của tất cả mọi người ở cái làng quê ấy, đó là sự an phận làm ăn tại nơi chôn nhau, cắt rốn mà chẳng muốn đi đâu. Cho dù tại cái nơi quê ấy thật sự vẫn còn rất nghèo túng và khá lạc hậu về văn hoá. Mỗi người, mỗi nhà chỉ mong sao nhà mình có cót thóc đầy hơn nhà khác mà chẳng bao giờ nghĩ rằng mình còn thua xa những người ở các làng trong một xã. Những người con gái như Phương dễ gì dám bỏ làng để đi, bởi có bao cô gái làng lấy chồng ở nơi khác nào đã thấy ai khá giả được đâu. Khi ra đi đã vậy còn lúc cha mẹ, anh chị em có công kia việc nọ, lúc phải quay về.
Cái sợ bóng, sợ gió qua những lời đàm tiếu, chê bai của người làng trong bao câu chuyện hàng ngày. Huống chi thân gái dặm trường, biết đâu số phận thế nào... Những điều Hằng nghĩ và dự đoán thường ít khi sai lắm và chính vì thế mà anh thật là buồn. Hằng lặng lẽ buông màn rồi tắt đèn đi ngủ, ở giường trong chắc Đoài cũng đã ngủ, tiếng ngáy nhè nhẹ của Đoài đã đều đặn cất lên.
Đêm đã trôi qua gần hết mà Hằng vẫn không sao ngủ được bởi bao điều vương vấn trong lòng. Anh thầm nghĩ và tự phàn nàn về những trở ngại mà anh đã trải qua. Có bao điều khi mở đầu thật là sáng lạn ấy vậy mà về sau thì lại cứ chuội ra khỏi cái quỹ đạo đẹp đẽ ấy, tất cả giống như những thước phim lần lượt hiện về.

                                                         ***                                                                                                                   
Sáng nay chủ nhật, Hằng lấy xe đạp của Đoài xuống thư viện thị xã mượn vài cuốn sách để về nhà đọc. Cô gái coi thư viện khá quen với Hằng ghé mắt nhìn anh lật giở các tấm thẻ ghi tên sách rồi khẽ khàng nói:
- Loại sách mà anh hay mượn hầu như chả còn bộ nào nguyên vẹn đâu.
Hằng cũng chẳng thèm ngước lên mà trả lời như một cái máy:
- Cô giới thiệu cho một vài cuốn có nội dung khác xem nào.
- Anh thử xem một số truyện ngắn của ta xem sao, số tác phẩm mới này có nhiều chủ đề phong phú lắm anh ạ.
- Tôi lại ưa đọc các tiểu thuyết dài hơi hơn...! Cô có biết “Sông Tha Mi trong xanh” này có nội dung gì không?
- Hình như đó là truyện viết về các lãnh tụ của Mông Cổ thì phải anh ạ.
- Thế thì cô cho tôi mượn cuốn này vậy.
Hằng mang thẻ và giấy kê tài liệu cho cô thủ thư rồi cầm lấy cuốn sách dầy cộp lên ngắm nghía. Anh chào cô thủ thư rồi bước ra khỏi thư viện sau khi đã ký nhận vào thẻ mượn.
Đang lang thang dọc đường khu phát hành sách để về nhà Hằng chợt thấy hai cô gái không quen vừa vẫy, vừa gọi rối rít về hướng đi của mình. Anh quay đi quay lại thấy chẳng có ai ngoài mình ra, thế là anh dừng xe tiến về phía hai cô gái.
- Anh ơi...nhờ anh xem giúp cho em cái khoá xe một chút ạ.
- Thế nó bị làm sao?
- Dạ... em mở mãi không được ạ.
- Thế có nhầm chìa khoá không?
- Chúng em chỉ có mỗi một cái này thôi ạ.
Hằng cúi xuống cầm chiếc chìa khóa vặn đi vặn lại mãi mà cái khoá vẫn cứ im như thóc. Hết lôi ra lại cắm vào đến toát mồ hôi mà cũng chẳng ăn thua gì. Chán nản, anh đã định khuyên các cô khênh xe đến chỗ ông thợ khoá nhưng rồi lại cúi xuống cố thêm một lần nữa. Lần này anh hơi ấn cái chìa xuống một chút rồi mới vặn. Vừa mới hơi xoắn một chút đã nghe thấy cách một cái thế là cái càng khoá đã được mở ra. Đến lúc này Hằng mới nhận ra rằng loại khoá này dùng lâu và dùng nhiều lượt nên đã bị mòn các răng cưa, chỉ ấn xuống một chút là mở được. Anh thử đi thử lại sau đó hướng dẫn hai cô gái tập mở một vài lượt rồi mới dừng tay.
Vừa loay hoay tìm cách lau mấy ngón tay bẩn anh vừa hỏi:
- Các cô công tác ở đơn vị nào thế?
- Chúng em ở Công ty xây lắp điện anh ạ.
- Công ty đóng ở đâu mà sao tôi chẳng thấy có tiếng tăm gì nhỉ?
- Công ty đóng ở Hàm Rồng anh ạ.
- Chả lẽ nó ở mấy cái nhà trên đồi hướng ra sông Mã ấy à?
- Dạ đúng đấy ạ.
- Thế các cô về thăm nhà lên à?
- Chúng em đi họp ở ngoài đó về đấy chứ.
- Thế sao các cô lại đi ngược lại?
- Chả là khu công nhân của chúng em lại đóng ở Mật Sơn anh ạ... Lúc nào rỗi mời anh vào chơi.
- Nhưng biết các cô có tiếp không.
- Có chứ! Thế nào anh cũng đến nhé.
- Nhưng mà biết hỏi ai mới được chứ.
Nghe đến đây thì bỗng nhiên hai cô gái chợt hơi lặng đi một chút rồi thì thầm nói với nhau điều gì không rõ. Đến lúc Hằng đã lên xe mới thấy hai cô vừa cười vừa nói:
- Anh cứ hỏi thăm tên là Thái ở tổ lắp điện là đến anh ạ.
- Được rồi, nếu có dịp thuận tiện tôi sẽ vào chơi.
Hằng vừa đạp xe vừa nghĩ luẩn quẩn về hai cô gái hỏng xe vừa thấy buồn cười vì chỉ một tý nữa thôi là mình bắt các cô ấy khênh xe đến hiệu khoá. Mà hình như Công ty này là nơi vợ cậu Đạc công tác thì phải, thật toàn những chuyện gặp gỡ ngẫu nhiên không thể tưởng tượng được. Hai cô gái này cũng khá đấy chứ, để rồi hỏi thăm cậu Đạc xem thế nào...
Mấy hôm trước Hằng đã nói chuyện cho Đạc nghe cuộc gặp gỡ với hai cô gái và nhờ cậu ta thăm dò xem cô Thái này thế nào. Cũng chẳng biết vợ chồng cậu Đạc thế nào, không những chẳng tìm hiểu được gì mà còn nói hết tất cả cho cô ấy biết, thế là cô ấy hẹn gặp cho bằng được. Duy chỉ có một điều hơi lạ là Đạc đã kể khá tỷ mỉ về tình tiết gặp mặt hôm ấy nhưng Thái vẫn chẳng nhớ Hằng là ai. Cũng không còn cách nào hơn là phải ra mặt để tỏ rõ mọi việc vậy thôi. Thật không may cho Hằng là suốt mấy ngày nay lại phải làm cả ngày lẫn đêm để xử lý sự cố của nhà máy nên  đành phải viết thư cho Thái hẹn gặp vào dịp khác.
Gần một tháng trôi qua trong bận rộn, hôm nay mọi việc nhà máy mới xong. Chiều qua Hằng đã dặn Đạc hẹn với Thái là sẽ đến thăm vợ chồng Đạc, sau đó sẽ sang thăm Thái. Cũng không hiểu thế nào mà hôm vừa rồi nhận được thư thấy cô ấy nói vẫn chưa nhớ được cuộc gặp gỡ ấy ở đâu. Hằng cứ phân vân không hiểu tại sao, chả lẽ sự việc xảy ra chưa đến một tháng rưỡi mà cô ấy đã quên ngay được hay sao. Dù sao thì cũng cứ gặp cái đã rồi tính sau.
Sáng nay chủ nhật, Hằng đi cùng với hai người bạn vào thăm nhà Đạc ngay từ sáng sớm. Hai vợ chồng Đạc ra tận cổng khu tập thể để đón ba người vào nhà. Chỉ mới vừa vào đến cửa nhà Đạc, Hằng đã thấy hình như có rất nhiều cặp mắt ở các chỗ kín đang nhìn ngắm mấy ông khách trẻ. Biết vậy nhưng Hằng vẫn cứ tự nhiên bước vào nhà Đạc giả như không có chuyện gì xảy ra.
Cũng chỉ sau mươi phút hàn huyên với vợ chồng Đạc đã thấy mấy cô khách cùng trong khu tập thể bước vào. Hằng lướt qua một lượt nhưng chẳng thấy cô nào quen cả, có lẽ Thái bận gì đó nên chưa đến. Hằng còn đang suy nghĩ lung tung thì thấy vợ Đạc hỏi:
- Thế nào, Thái đã nhận ra người quen chưa?
Vừa nghe đến đây Hằng chợt giật mình nghĩ ngay đến việc hai cô bé hôm nọ chắc đã lừa trêu mình. Anh vừa buồn cười vừa giận hai cô bé vì đã chẳng cảm ơn người ta sửa xe cho lại còn gây chuyện rắc rối cho người ta nữa, bây giờ biết tính sao đây. Vừa lúc ấy một cô gái có khuôn mặt trái soan trắng trẻo và rất ưa nhìn chợt lên tiếng:
- Mình nhận ra rồi.
- Ai nào?
- Anh ấy mặc áo kẻ.
Sao thế nhỉ? Chả lẽ mình lại quên hay sao! Cô Thái mình quen sao có thể là cô này được. Dù sao thì cô ấy cũng có tên là Thái và cô ấy cũng đã giúp mình qua sự rắc rối nếu như cô ấy nói không biết mình là ai.
Cũng trong lúc nghe hai người hỏi và trả lời nhau Hằng đã nhìn kỹ Thái hơn. Hằng dễ nhận ra một đặc điểm khác của Thái là cô ấy có sự tăng hoóc môn nam tính nên trên ria mép có dấu đen mờ của lớp lông tơ dày hơn người bình thường, và đôi lông mày thì thật là đen đậm ôm kín đôi con mắt lá răm tình tứ. Tất cả những nét trên khắc hoạ lên một khuôn mặt xinh đẹp ít gặp trong cuộc sống. Nhưng cũng từ đó đã giúp Hằng khảng định cô gái ấy không phải là Thái mà Hằng đã gặp. Tuy sự việc đột ngột là thế nhưng Hằng cũng khá nhạy cảm khắc phục hoàn cảnh rắc rối này bằng cách đứng lên đi về phía Thái, tựa như anh cũng  đã xác nhận sự quen biết giữa hai người. Chỉ cần mấy bước chân Hằng đã đứng trước mặt Thái, anh chìa tay ra để nắm lấy tay của Thái kéo cô đứng lên. Lúc đầu Thái luống cuống định rụt tay ra, nhưng anh nắm khá chặt nên cô không tài nào rụt tay ra được. Hằng dùng sức kéo mạnh để đưa Thái ra phía ngoài sân, cũng lúc đó hình như Thái đã nhận ra ý tứ của Hằng nên cô không còn cưỡng lại nữa và đó chính là nguyên nhân làm cho Thái bị nhào theo ôm lấy người của Hằng. Mọi người được thể cười rộ cả lên làm cho cả hai người cùng ngượng nghịu đỏ mặt đứng trơ ra giữa cửa nhà Đạc. Cũng ngay lúc ấy ai đó chợt lên tiếng:
- Bạn bè cả, không việc gì mà ngại, ngày xưa chúng tớ cũng thế cả thôi.
Vừa lúc đó vợ Đạc cũng chen vào:
- Thôi hôm nay hai người là nhân vật chính nên cho được đi chơi, miễn phải vào bếp.
Được lời như cởi tấm lòng thế là Hằng và Thái tay trong tay đưa nhau ra ngoài ngõ để tâm sự. Vừa đi khuất mọi người Hằng đã vội buông tay Thái để tránh sự hiểu nhầm là Hằng cố ý lợi dụng, còn với Thái thì buông hay không cũng chả cần nữa vì cô đã thả lỏng tất cả ngay từ lúc còn ở trong nhà. Để tránh cho sự ngượng ngập vừa qua Hằng buộc lòng phải lên tiếng trước:
- Tôi xin lỗi Thái...có lẽ cô Thái mà tôi biết là người khác trong công ty.
- Cả công ty này chỉ có mình em là Thái...làm gì có ai khác nữa?
- Chả lẽ còn một công ty xây lắp điện nào nữa...?
- Anh hãy tả cô Thái của anh cho em xem nào.
Hằng lại kể cho Thái nghe toàn bộ câu chuyện cách đây gần một tháng rưỡi, rồi mô tả thật kỹ hình dạng hai cô gái Hằng gặp hôm đó cho Thái nghe. Anh vừa dứt lời thì cũng nghe Thái bật ra câu nói hết sức tự tin:
- Thế thì em biết rồi anh ạ! Nó không phải là Thái mà nó là...
Nói đến đây thì Thái đột nhiên dừng lại, sau một lúc cân nhắc Thái nói tiếp:
- Hẳn nào mấy hôm ấy mỗi khi nhìn thấy em từ xa chúng nó gọi rối rít rồi cứ tủm tỉm cười, làm em rõ tức... em phải đấm cho bọn này một trận mới được.
- Chớ đấm họ đấy nhé, dẫu sao các cô ấy cũng giúp cho mình quen biết với nhau.
- Đó là em nói thế thôi chứ có khi còn phải bảo chúng im mồm đi chứ không thì các anh, các chị ấy cười chết mất.
- Tôi cũng không ngờ sự việc lại xảy ra như thế, Thái thông cảm cho tôi và chấp nhận sự làm quen này của tôi nhé.
Thái không nói gì mà chỉ hơi gật đầu tỏ vẻ đồng ý và cúi xuống ngượng ngập thật sự. Vừa lúc đó vợ Đạc đã ra gọi hai người về ăn cơm. Hằng nắm tay Thái, nhẹ tay kéo cô theo sau để quay vào nhà. Bữa cơm thật giản dị nhưng cũng thật vui vẻ, tất nhiên là Hằng và Thái là mục tiêu cho tất cả mọi người trêu đùa và yêu quý. Dù chỉ mới quen thôi nhưng khi chia tay cả hai cũng bịn rịn khó nói thành lời. Những câu nói vun vào của mọi người tựa như lời cầu thân của chàng trai và cũng như lời tán thành của cô gái vì cả hai người chỉ có cười trừ mà chẳng hề có một lời phản đối nào. Lẽ dĩ nhiên là những người bạn họ đều đã tự ngắm hai người và họ nhận ra được cái ý tứ ấy. Nhiều người cũng đã nói đến cái sự thăm nhà, hỏi cưới và bao thứ khác nữa bởi họ yêu quý cả hai người, họ muốn hai người cũng có hạnh phúc, họ coi đó như là sự mong muốn chia xẻ của những người đã có ít nhiều hạnh phúc cho người chưa có một tý gì. Từ những việc làm như thế cho ta thấy xung quanh ta mọi con người đều thật tốt đẹp, thật nhân hậu. Nếu giữ mãi được như vậy thì cuộc đời này hạnh phúc biết bao và tươi đẹp biết bao!
Sau lần gặp ấy họ còn hẹn gặp riêng nhau mấy lần nữa, rồi thì thư đi, thư lại, dẫu chỉ là nhờ đưa qua tay giữa vợ chồng Đạc. Họ yêu nhau nhanh chóng quá và nói với nhau những từ yêu thương thật là đẹp trong khi gặp gỡ và cả trong thư. Không biết có phải cái gì đến quá nhanh thì đi cũng quá nhanh hay chăng mà cuộc tình của họ đã tan trong chỉ có mấy tháng trời. Cái sự tan vỡ bất ngờ mà mau mắn đến nỗi Hằng chẳng biết nguyên cớ từ đâu. Nếu như gần một năm sau Hằng không gặp một chàng Chí “Sở Khanh” do vui câu chuyện làm lộ ra.
Trong một lần gặp gỡ Thái vào một đêm trời tối ở bên bờ đê cầu Hạc, Thái đã nói với Hằng toàn bộ hoàn cảnh của mình từ gia đình, bè bạn và cả những người Thái đã yêu trước đó. Có một chi tiết mà Thái thật sự mạnh dạn nói ra đó là việc Thái đã có lần rơi vào cặm bẫy của một tên lừa đảo nào đó nên cô đã không còn sự trong trắng của người con gái nữa. Ngay sau khi nghe cô ấy nói Hằng lặng người đi và cảm thấy thật là buồn. Anh phân vân thật sự khi nghĩ rằng người mình yêu đã là một thứ thừa ế của người khác, như thế thì làm sao có thể chấp nhận được. Một sự chán nản đến cực độ đã trào ra làm cho anh không còn tỉnh táo được nữa. Bên cạnh anh, Thái cũng im lặng, không biết cô ấy đang nghĩ gì. Có lẽ cô ấy tự giận mình vì sự thật thà đến ngây ngô của cô ấy, hay là cô ấy đang tự trấn an mình về những gì tốt đẹp mà cô đã xác định mình phải chấp nhận kể từ sau sự mất mát quá lớn của đời con gái trong cô. Có lẽ sự im lặng đã giúp họ tự ổn định lại tình cảm và lý trí của mình. Chính trong khoảng rất lâu đó Hằng đã tìm ra cái lý do rất hợp lý để tự bào chữa cho việc mình có thể chấp nhận được người con gái đã không còn nguyên vẹn này nữa. Một điều mà Hằng nhận thấy đó là khuôn mặt đẹp, hình dáng đẹp của cô đã làm anh say mê. Rồi thì sự khéo léo của cô trong bếp núc, trong thêu thùa, may vá và trong giao tiếp hàng ngày. Còn cái sự thẳng thắn của cô ấy có phải cũng là một cái đẹp đó chăng? Trên đời này dễ có mấy ai dám nói ra cái sự thực bất hạnh như vậy, thế mà cô dám. Cứ như cụ Nguyễn Du đã viết trong Kiều: “nước vỏ lựu, máu mào gà -  mượn màu chiêu tập vẫn là còn nguyên” đấy sao. Mấy ai biết được và như thế cô ấy có quyền giấu giếm những ai đó để rồi vẫn còn nguyên chứ sao! Cuối cùng thì Hằng lại nghĩ thế còn những người đã với Hằng thì sao, những người đến sau Hằng họ sẽ nghĩ gì. Đành rằng cái sự của Hằng làm ra hoàn toàn mang động cơ trong sáng và không hề có ý chối từ cái người Hằng đã cùng với họ, thế nhưng sự đời đã chẳng chiều người và cái người đã cùng Hằng có khác gì Thái hôm nay vậy. Với ý nghĩ này đã thực sự bào chữa cho mình để có thể chấp nhận Thái kể cả khi có người biết cái sự này của hai người. Nghĩ thế nào Hằng nói cho Thái nghe như thế ấy. Thái vừa nghe vừa lặng lẽ khóc, cô gục đầu vào ngực của Hằng. Có lẽ cô buồn lắm trong suốt thời gian chờ đợi câu nói của Hằng. Thế nhưng mọi việc đâu có suôn sẻ như những gì ta đã nghĩ, đã tự đấu tranh để có được khi có một người nào đó cứ khoét sâu vào những điều còn chưa được đứng vững trong lòng người, còn đang chao đảo.
                        3

          Cái công ty xây lắp điện nào có ở xa gì khu tập thể của Hằng, chính vì vậy mà ngoài những người sống ở khu tập thể Mật Sơn công ty vẫn còn có một số đi theo công trình và còn có cả một số sống ở ngay ở trụ sở công ty để tiện công tác, trong đó có Như. Như là một cô gái khoảng hai mươi bẩy tuổi, cô vừa là một công nhân trực tiếp nhưng lại là một cán sự đoàn của công ty xây lắp điện. Cô vẫn thường đến  chơi với một vài người quen ở trong khu tập thể của Hằng. Là một cán sự đoàn nên cô ta có điều kiện được biết rất nhiều việc của những người tuổi trẻ trong công ty. Phần thì do phải trực tiếp xử lý mọi việc của tổ chức này nên cô  được quyền tìm hiểu, phần vì được các cấp lãnh đạo phía trên trao đổi tin tức để có kế hoạch uốn nắn các đoàn viên của mình. Chính vì vậy các việc của Thái thì nhiều người không biết nhưng Như thì lại biết khá rõ.
Cũng không biết do đâu mà Như biết được mối quan hệ giữa Hằng và Thái. Có lẽ do cô nghe được từ những câu chuyện trong số chị em ở công ty bàn tán hàng ngày. Một phần vì Như cũng là một cô gái khá nhiều tuổi trong công ty đang rất cần có một mối lương duyên để xoá đi cái cảnh cô đơn buồn bã nên cô cũng hay để ý tìm hiểu đối với những nhân vật giống như Hằng, nên cô đã biết được câu chuyện quan hệ của hai người. Cô có tốt hay không thì không biết, nhưng có vài lần cô đến chơi với mấy người quen sống bên cạnh, Hằng thấy cô cũng không đến nỗi nào. Nhiều lần gặp nhưng Hằng chả muốn làm quen với Như thế mà rồi Hằng cũng vẫn phải tiếp chuyện với Như.
Không biết thế nào mà mỗi lần Như đến thăm người quen thì luôn gặp lúc người quen của Như đi vắng và chẳng ai có thể ngăn cô đi thẳng vào nhà Hằng để hỏi thăm về những người quen của cô . Lẽ dĩ nhiên là cô có thể ngồi nhờ nhà Hằng để chờ những người quen của mình trở về. Khi đã có những câu hỏi thì sẽ phải có những câu trả lờiK, đó là phép lịch sự tối thiểu trong xã giao và rồi cả những câu hỏi thăm đối với người đối diện cũng được tiếp tục đặt ra. Nhiều lần gặp tất nhiên là phải quen, đã quen thì việc đến ngồi nhờ đã không còn là lý do khó hiểu nữa.
Những câu chuyện trong khi Như ngồi nhờ chờ đợi người quen cứ tiếp tục được kể ra. Đâu là phải quan tâm đến sự phấn đấu của mọi người. Đâu là nếu muốn phấn đấu thì phải tránh xa những người xấu. Trong các ví dụ về người xấu mà Như kể ra có rất nhiều trong đó có cả những người có hoàn cảnh như Thái. Hình như cô ấy muốn nói rằng đây là cái xấu nhất của các cô gái chưa chồng. Sự nhấn mạnh dường như cứ dần dần lộ ra cái chủ ý của cô qua những đoạn đối thoại giữa hai người:
- Em nghe nói anh quen rất thân với Thái ở công ty em phải không?
- Làm gì có chuyện ấy?
- Không những thế em còn biết hai người còn quan hệ ở mức cao hơn nữa kia.
- Không có đâu, bạn nghe nhầm đấy thôi.
- Em hỏi thật anh nhé?
- Cô cứ nói đi.
- Em không biết khi quen với Thái anh có tìm hiểu kỹ không nhưng em cũng tín hiệu cho anh biết Thái có nhiều “phốt” lắm đấy anh ạ.
- Tôi nghĩ ở trên đời ai mà chẳng có khuyết điểm, tuy nhiên từ chỗ quen biết và hiểu sự việc đến giúp đỡ để họ trở thành người tốt thì càng quý chứ sao.
- Không, em nói là có những cái không còn có thể giúp đỡ sửa chữa được nữa kia.
Hằng chợt giật mình khi nghe Như nói như vậy, anh nghĩ chả lẽ cô ấy lại muốn nói cho mình biết cái chuyện tình xưa cũ của Thái chăng? Vì sao Như lại muốn cho mình biết điều ấy nhỉ? Phải chăng hai người có ác cảm với nhau nên cố ý muốn phơi bày những cái xấu của nhau ra nhằm gây hại cho nhau? Hôm nọ Hằng có hỏi Thái về Như, anh thấy Thái nói về Như toàn là những điều tốt cả. Cô ấy nói về công tác đoàn thể của Như và lại còn khen Như nữa. Trong khi đó, nói như Chí “Sở Khanh” thì Như đã quá nhiều lần với cậu ta, mặc dù Chí “Sở Khanh” đã có vợ, có mấy con sờ sờ ra đấy. Biết vậy nên Hằng càng tỏ ra như không hiểu biết gì về sự gợi ý của Như và cuối cùng thì Như đã nói cái chuyện không đáng nói của Thái ra cho cái người đang muốn tìm hiểu Thái biết. Hằng lờ mờ nhận ra cái ý của Như và anh cố ý tỏ ra đã biết để làm cho Như cụt hứng, chừa cái thói thóc mách hại bạn bè:
- Cứ tưởng là có chuyện gì khác, chứ việc ấy… Thái đã nói cho tôi biết rồi.
- Anh nói thật đấy chứ?
- Đúng thế mà.
- Chả lẽ anh cũng chấp nhận?
Hằng suy nghĩ một lúc rồi anh quyết định nói với Như những điều mà Hằng đã nói với Thái. Thực ra Hằng cũng muốn ngoài việc tỏ rõ quan điểm của mình về sự việc ấy và còn muốn nói với cô ấy rằng nếu cô ấy chịu tu sửa mình thì rồi cũng sẽ gặp được những người có thể thông cảm cho mình. Có lẽ cô ấy đã không nhận thức được, hoặc giả có nhận thức được thì cô ấy cũng không có ý muốn tự sửa mình.
Thế rồi không biết bằng cách nào đó Như đã làm cho Thái hiểu nhầm về quan điểm của Hằng và sự tan vỡ bắt đầu như thế. Kết cục chẳng tốt đẹp ấy có phải là tại Như hay không? Có lẽ phần lớn là do cô ấy, nhưng cái chính là Thái không đủ tự tin và cả do Hằng chưa có kinh nghiệm để làm cho người khác tin vào mình với một chủ đề khá nhậy cảm và hóc búa vào bậc nhất trong tình yêu đôi lứa.
Những bức thư với tiêu đề khô khan thay cho những từ “thương yêu” đã nhiều lần xuất hiện trên những trang giấy Pơluya màu hồng trước đó. Cuộc tình ngắn ngủi dễ gặp, dễ tan dù sao cũng làm Hằng phiền muộn, bởi chưa một lần nào Hằng có ý đùa cợt trong tình yêu với những cô gái mà anh đã gặp. Người đời có thể nghi ngờ và không tin rằng lại có một người có sức yêu đầy đặn cho đến cả chục lần như thế, đấy là quyền của họ, nhưng xin đừng lớn tiếng bài bác vì đó là sự thật. Có bao kẻ chỉ biết vì mình và cũng không thiếu những người suốt đời chỉ nghĩ đến người khác cho dù họ luôn gặp tráo trở và phản bội.

                               VÙNG ĐẤT CŨ

                                           1

          Mùa đông năm 1976 đang dần đến, từng cơn gió bấc đã tràn về báo hiệu mùa đông năm nay chắc sẽ lạnh. Hằng vừa xuống thị xã để lấy chiếc áo rét anh mới đặt may hồi đầu tháng. Mấy năm gần đây người ta thường may các loại áo rét theo kiểu Blujông của Đức, kiểu áo này khá gọn và phù hợp với thanh niên. Chiếc áo được may bằng loại vải nhung kẻ màu xanh da trời vừa lịch sự vừa hợp với khổ người của Hằng nên khối cậu con trai cứ tra hỏi xem may ở đâu để cũng may một cái. Một điều quan trọng là loại vải này lại không thu tem phiếu nên số phiếu vải được cung cấp vẫn có cơ hội mua thêm một bộ mới. Số anh em còn đang bàn tán về kiểu cách quần áo ở các thời kỳ khác nhau thì anh Khâu bước vào.
          - Này, có gì mà ầm ĩ thế? Chuẩn bị để thứ hai đi Thọ Xuân đấy nhé.
          - Sao bảo sang tháng mới đi cơ mà anh?
          - Lần này phải làm cải tiến nên đi sớm.
          Mấy cậu tổ van, tổ lò thấy ông Khâu nói về công việc liền từ từ kéo nhau về hết thành ra vừa mới đông đúc là thế mà thoắt cái đã trơ lại có hai anh em. Đến lúc này anh Khâu mới ngồi xuống để phàn nàn về cái quyết định cải tiến gối trục của nhà máy:
          - Tao chẳng hiểu thế nào mà mấy thằng cha ấy lại tán thành cái việc thay lớp lót cao su bằng gỗ.
Thì ra cái bố này vẫn bức xúc về cái chuyện lấy gỗ lim làm lớp lót thay lớp lót cao su của các gối trục trục tua bin thuỷ điện Bàn Thạch. Cứ như anh ấy nói thì lớp gỗ này chỉ cần chưa xoay nổi một vòng đã vỡ toang ra, làm sao mà chịu cho được. Đã biết tính anh Khâu từ hồi sáu sáu, sáu bẩy nên Hằng mặc kệ cho anh ấy nói để cho nguội bớt cơn đi mà không chịu tiếp lời. Nhưng chính vì thế anh ấy lại càng bức xúc mà nói to hơn nữa, nào là dốt nát, phi kỹ thuật, rồi thì thế nọ thế kia, nghĩa là anh không muốn làm để rồi đến khi không thành mang tiếng là ngu dốt cả mẻ vân vân và vân vân...
Đến lúc này thì Hằng phải lên tiếng, tuy nhiên Hằng biết anh Khâu cũng đã có tý men nên Hằng khá dè dặt:
- Dẫu sao mấy ông “cốp” cũng đã quyết rồi nên có nói vẫn cứ phải làm thôi anh ạ.
- Có thế thì mới tức.
- Nhưng em nghĩ người ta cũng đã xem xét qua kinh nghiệm ở nơi nào đó rồi người ta mới quyết chứ anh...
- Tao thì tao mặc kệ, lần này mày cứ căn chỉnh cho tốt để cho bọn nó không dám bảo hỏng là do chất lượng căn chỉnh kém là được.
- Anh yên tâm đi, lần này phải có biên bản kiểm nghiệm từng phần một rồi ký kết để không ai bắt bẻ ta được.
- Mẹ nó, sao rét thế không biết được.
Hằng tủm tỉm cười:
- Cho lắm nước vào bụng làm sao chẳng rét.
- Có mỗi hai chén con tý tẹo, làm gì có nhiều đâu mà uống.
- Theo em thì dùng gỗ có khi được đấy anh ạ.
- Lại mày nữa.
- Em thấy mấy cái ổ trục xe trâu chở đến hàng tấn thế mà chạy mãi cũng có mòn đâu.
Vừa nghe Hằng nói dứt câu anh Khâu đã vùng vằng:
- Đã thế tao cho mày ở ban cải tiến luôn.
Thấy anh Khâu cắu quá Hằng chỉ cười trừ mà không nói thêm gì nữa. Giữ nguyên bộ mặt khó chịu như thế anh Khâu quay ra mà chẳng thèm chào hỏi gì nữa, cho dù Hằng có hỏi với theo:
- Anh về đấy à?...
Đúng như tuyên bố hôm nọ anh Khâu đã đưa danh sách Hằng vào ban cải tiến, mặc dù anh vẫn bắt Hằng phải hoàn thiện phần việc của tổ giao cho như những ngày xưa. Thế là Hằng cứ phải cắm cúi vào mà làm hết mọi việc chẳng còn thời giờ đâu mà đi hỏi thăm mấy cô bạn học ngày xưa nữa. Thực ra thì Hằng cũng không muốn đến thăm bọn con gái ấy vì sợ họ đã có chồng con rồi bây giờ mà đến thì vừa làm mất thì giờ của họ, hơn nữa nhỡ gặp phải anh chồng hay ghen thì rồi gia đình của họ sẽ cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt, như thế thì thăm nom mà làm gì.

                                                          2

Cũng đã gần một tháng vừa đại tu vừa chuẩn bị cho cải tiến, hôm nay Hằng mới có điều kiện được nghỉ một buổi tối. Cũng chẳng phải mình Hằng bận tối mắt, tối mũi như thế mà tất cả mọi người trong tổ và cả anh Khâu cũng cắm cúi mà làm cho hoàn thành với tiến độ, để kịp cho việc xả nước về làm vụ đông xuân.
Tắm rửa xong Hằng định đi chơi quanh mấy nhà ngày xưa Hằng ở nhờ, vừa có tính chất thăm hỏi để tỏ ra rằng mình vẫn nhớ, vẫn giữ nguyên vẹn tình cảm ngày xưa đồng thời cũng thông báo là mình vẫn còn sống trở về. Chỉ mới mặc xong cái quần thì lại nghe ngoài cửa có khá nhiều tiếng con gái. Hằng vừa thò đầu ra xem có việc gì thì đã thấy sáu bẩy cô gái đứng chắn trước mặt. Thôi thì nạ dòng có, con gái có cứ như ong vỡ tổ tràn vào gian nhà lá mà Hằng được phân xưởng Bàn Thạch bố trí ở trong những ngày sửa chữa. Cô thì chào anh, cô thì chào chú làm cho không gian chợt ồn ã cả lên. Hằng còn chưa nhận ra ai với ai đã thấy ai đó sụt sịt khóc, làm cho Hằng thật sự bối rối. Anh vừa chào hỏi mọi người vừa để tâm xem ai đang sụt sịt ở phía cuối cái giường một của Hằng, Cũng phải một lúc Hằng mới nhận ra đấy là Hương, con gái nhà chủ mà Hằng đã trọ cách đây hơn sáu năm trời. Anh vừa tìm mấy cái chén, vừa lấy cái ấm đựng nước gạo rang lấy từ nhà bếp về để mời mọi người uống nước. Sau khi đã đưa chén nước cho một vài người rồi Hằng mới đi đến bên Hương, anh đặt tay vào hai vai của Hương đang rung lên theo nhịp khóc rấm rứt vừa cười vừa nói:
- Thế là được rồi hà hà...! Cô bé Hương dũng cảm, hay trêu mọi người ngày xưa sao hồi này lại mau nước mắt thế không biết được?
Vừa nói trêu Hương, Hằng vừa định xoay hai vai Hương để cô đối diện với anh, nhưng anh chợt nhận ra cô Hương bây giờ đã không còn là thiếu nhi nữa, thế là anh vội buông tay ra khỏi vai cô gái. Cũng vừa lúc đó Hằng nhận ra Văn, người mà có lần Hương đã làm mối cho anh. Văn vừa ngồi ở chỗ xa nhất lại quàng một chiếc khăn len mỏng chùm kín một nửa mặt nên anh không nhận ra ngay từ đầu.
- Văn phải không?
Văn nhỏ nhẹ:
- Vâng ạ! Anh có khoẻ không?
- Anh mắc mấy trận sốt rét nên cũng không được khoẻ lắm.
Dừng lại một chút Hằng lại nói tiếp:
- Công việc bận quá mãi hôm nay mới được nghỉ, đang định vào trong đó xem sao thì các em ra đây.
Mới vừa nói đến đó thì nghe có ai vừa cất lời với vẻ trách móc:
- Anh là anh tệ lắm đấy nhé!
Thì ra người nói câu ấy là Hương, cô đã thôi không khóc nữa ngay sau khi anh nói chuyện với Văn.
- Tệ làm sao nào?
- Thì lúc anh đi bộ đội anh có nói cho ai biết đâu.
- À...À... hồi đó gấp rút quá...cả đến gia đình anh cũng chẳng kịp báo nữa là.
- Thì viết thư về không được à.
- Kể ra thì thế, nhưng mà các anh có ở chỗ nào yên đâu.
- Chúng em nghe tin anh ở vùng Như Xuân, thế là hai chị em vừa đi vừa hỏi thăm suốt mấy ngày mà không gặp.
Nghe đến đây thì Hằng thấy chột dạ thực sự, anh nghĩ: “Thế mà các cô ấy lại tìm được chỗ mình ở và rồi lại gặp Nghi ở đó thì nguy to”. Thực ra thì câu chuyện của Hằng nói với Hương hồi đó và cả việc đến chơi nhà Văn cũng chỉ là làm sao để sự quan tâm của cô bé ấy không bị dội nước lã vào mà thôi, chứ thực tình anh đâu có biết chỉ dăm ba lần qua chơi mà các cô ấy tưởng anh đã có tình ý thực với họ. Dù sao thì đến lúc này anh cũng chẳng muốn thanh minh làm gì, vì như thế tình anh với họ chả hoá ra bạc bẽo quá sao. Nghĩ vậy anh đành cười trừ cho xong rồi động viên mọi người bằng việc kể các câu chuyện trong thời gian bộ đội cho mọi người cùng nghe. Anh cũng hỏi han tình hình của các cô gái cùng đi với Văn và Hương theo xã giao. Tuy nhiên qua câu chuyện anh biết cả Văn và cô Hương bé tý ngày nào giờ cũng đã có gia đình cả rồi. Văn thì lấy cậu Vinh râu ở bên đường dây chuyển tải, người mà có lần Hằng đã gặp khi vào chơi nhà Văn từ mấy năm trước. Thực ra thì Văn chưa bao giờ yêu Vinh râu vì Vinh râu trông chả có tý hình thức nào, trong khi Hằng thì lại có đủ mọi điều. Tuy nhiên cái chính vẫn là sự kiên trì của cậu ta cùng với sự vắng bặt tăm hơi thậm chí có thể tắt hẳn tăm hơi của người tình trong mộng đã khiến cô gái xiêu lòng. Bây giờ thì Văn cũng đã có một cô bé con khá lớn, có nghĩa là Văn đã lấy Vinh ngay sau khi cùng với Hương đi tìm Hằng mà không gặp. Còn với Hương thì câu chuyện lại còn dài dòng và rắc rối hơn nhiều, đó là câu chuyện tâm sự của Hương khi cô còn một mình ở lại.
Từ lúc năm, sáu các cô gái cùng chui vào căn nhà Hằng đã thấy không hiểu vì sao mà Hương và Văn lại đưa các cô gái mà Hằng không quen đến nhiều làm vậy, mãi khi chia tay Hằng mới nghe Văn nói:
- Mấy đứa vừa rồi đều là các em và các cháu của em cả đấy anh ạ. Em biết là em đã không chờ anh được nên em định sẽ không đến gặp anh, nhưng sau khi em nói chuyện với mấy đứa, thì chúng nó bảo:
- Ngày xưa chị mê anh ấy như thế thì chắc anh ấy phải đẹp trai và ga lăng lắm. Nếu mà thế chưa chừng rồi chúng em cũng mê ấy chứ. Cứ để chúng em đến chơi, nhỡ ra phải duyên, phải số thì cũng là sự đền bù của chị với anh ấy chứ sao.
Nghe Văn nói đến đây thì Hằng buồn cười thực sự, anh vừa nhịn cười vừa bắt chước câu nói khá quen thuộc của người Thanh Hoá vào những năm về trước:
- Tức là bắn súng không nên thì đền đạn chứ gì?
Nói xong cả hai người cùng cười vui vẻ rồi chào nhau chia tay ngay trước hiên nhà.

                                                             3

Chờ cho mấy chị em, cô cháu của Văn đi khuất Hằng mới bước chân vào nhà, đang định sắp xếp lại bộ ấm chén bày bừa ra lúc nãy thì thấy Hương vẫn còn ở đó. Cô úp hết số chén cuối cùng xuống cái khay men xong thì vừa lúc Hằng quay trở lại. Cô cứ đứng trân trân như thế để nhìn anh không chớp mắt, bất chợt cô lao đến ôm chặt lấy anh và lại rấm rứt khóc, cô nói trong nước mắt:
- Thư thì không viết...về thì lại muộn...!
Hằng chỉ kịp nghe loáng thoáng câu nói đứt đoạn  của Hương rồi vội vàng gỡ tay Hương ra, còn Hương thì quyết không chịu buông.
- Em buông anh ra, kẻo có ai nhìn thấy thì rồi sẽ rắc rối cho em đấy.
Vẫn cái giọng hờn trách và bất cần như xưa:
- Mặc kệ em! Hắn lỳ lợm, dai như đỉa làm hỏng mọi việc của em. Nếu anh về trước đó vài tháng thì hắn chả là gì cả.
Thì ra Hương không được thoả mãn về mối lương duyên với chồng của cô, vì thế khi nghe tin Hằng còn sống quay về cô càng thất vọng, cô lấy cớ về thăm nhà để gặp lại anh. Trong lương tâm anh đã có ý định sẽ khuyên giải để Hương thu xếp ổn thoả với hoàn cảnh của mình. Dẫu sao thì cái sự lạnh nhạt cũng chỉ do một mình Hương gây ra mà thôi. Điều Hằng không hiểu là vì sao Hương luôn trách anh, cho anh là một trong những nguyên nhân khiến cô có hoàn cảnh hiện nay. Phải chăng cô có gì đó bất ổn về tinh thần nên đã biến thành bệnh, nghĩ vậy nên Hằng buột miệng:
- Nhưng dẫu sao thì em cũng lấy người ta rồi.
- Kệ! Em phải trả thù hắn...hắn lừa đảo em, hắn bảo thằng anh con ông bác hắn biết anh và bảo cho nó biết là anh đã hy sinh, nên em mới đồng ý cưới.
Hằng không ngờ câu chuyện lại xoay hướng ra như thế này, anh vừa nói vừa lựa một lúc lâu mới gỡ được tay Hương ra. Anh đặt hai tay lên vai Hương nhẹ ấn cô ngồi xuống, sau khi cô đã ngồi yên trên mép giường, anh tiếp tục thuyết phục Hương một lần nữa:
- Bây giờ mọi việc đã thế, với lại anh nghĩ hoàn cảnh của anh chưa chắc đã cho em có được cuộc sống hạnh phúc. Em nên về nhà, không cậu ấy đi tìm mà gặp thì rồi mọi việc sẽ phức tạp ra thêm.
- Em đang tức với hắn, em bảo về mấy hôm nên hắn đâu biết em ở đây, sớm mai em về sớm, hắn chẳng mừng quýnh lên ấy chứ.
Hằng cố gắng ngó sang các phòng khác xem có ai không để tìm cớ đưa Hương về nhà, những chẳng có ai cả vì số anh em ở khu này đều gần nhà nên họ tranh thủ về nhà hết sau mấy tuần tối tăm bận rộn. Anh nghĩ thế là gay go to rồi, tuy vậy anh vẫn cố gắng tìm cách thuyết phục. Thời gian trôi đi thật là nhanh, cái đài công cộng đã tắt từ lâu lắm mà Hương vẫn chưa có ý định ra về. Từng đoạn hồi ức đang trở lại trong cô như dòng suối cứ tuôn chảy, tuôn chảy mãi không ngừng:
- Anh có biết em yêu anh từ bao giờ không?
- Em không nói làm sao anh biết được.
- Em yêu ngay từ ngày đầu tiên anh đến nhà em.
- Lúc ấy em còn bé tý thế này mà.
Hằng vừa nói vừa có ý pha trò, anh xoè lòng bàn tay ra rồi lật úp xuống, hết nâng lên lại hạ xuống xuống gần sát mặt giường.
- Làm gì có chuyện ấy, lúc đó em cao gần bằng anh rồi.
- Nhưng mà em vẫn là thiếu niên...
- Nhưng có ai cấm thiếu niên yêu đâu.
- Thế sao em lại giới thiệu anh với chị Văn.
- Đó chính là điều em giận em nhất! Bực nhất là khi chị ấy đi lấy cái lão Vinh, làm em giận không sao mà nói ra được. Giận quá em bảo chị ấy: “Sao chị không nói trước với em...! Chị có biết em đã phải đau lòng thế nào khi phải giới thiệu người mình yêu cho người khác hay không! Thế rồi chị ấy cũng ngạc nhiên: Mày yêu anh ấy...? Chứ sao nữa, chỉ tiếc là em còn ít tuổi quá anh ấy không để ý đến nên đành chịu mà thôi”.
Đến lúc này Hằng mới biết thì ra cái cô bé Hương ngày ấy luôn im lặng khi nhìn anh nhưng lại hay nổi đoá với lũ em thật ra là vì cô ấy yêu người mà không được người yêu trở lại. Nghĩ đến đây trong lòng Hằng chợt bâng khuâng tiếc nuối, anh thấy hình như mình vừa đánh mất vật gì đó thiêng liêng và quý báu.
Cô bé Hương vẫn ngồi đó, đôi mắt và cả cơ thể thanh xuân của cô như đang rực lên thiêu đốt Hằng cháy thành than. Thêm một lần nữa Hằng lại phải dàn xếp với chính mình để bảo vệ hạnh phúc cho người khác. Anh có thể dàn xếp được không khi anh đang cảm thấy khoảng cách giữa anh và Hương đang gần lại. Cái giường một, nơi họ đang ngồi dường như cũng co rúm lại bởi bão giông có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Trong những phút giây ấy Hằng mong có ai đó trở thành cứu cánh giúp họ bình tĩnh trở lại. Thế mới biết rằng những điều cao đẹp bao người đã làm được ví như sự quên mình cho nhân loại có lẽ cũng phải có điều gì đó hoặc ai đó luôn đứng ra nhắc nhở khuyên can và cả bức bách nữa thì rồi những con người ấy mới đi đến cái quang vinh mà nhân loại đã và đang còn ca ngợi cho đến khi nào trái đất tan vào vũ trụ mới thôi.
Một phút chốc ngắn ngủi lan man trong những suy nghĩ không đầu, không cuối đó đã làm cho Hằng quên đi Hương đang ở ngay bên cạnh, chỉ đến lúc cả tấm thân mềm mại bất chợt choàng lên người, Hằng mới giật mình trở lại thực tại. Anh phân vân không biết có nên dùng sức của mình gỡ Hương ra một cách thô bạo hay không. Cô ấy đâu có phải kẻ thù, cô ấy đẹp và đầy sức sống, cô ấy chỉ si  mê và yêu mình, chứ đâu có phải giết mình, hãy nhẹ nhàng với cô ấy để rồi lựa dần vậy thôi.
Không biết đã bao nhiêu thời gian trôi qua, khuôn ngực nở nang luôn có tiếng gõ nhẹ của trái tim trong đó. Vành môi nóng ấm trượt qua, trượt lại trên mặt và trên môi của Hằng. Vòng tay ôm ngang lưng và truyền hơi nóng vào chính cái phần da thịt mà nó chặn lên. Những cơ quan nhạy cảm nhất đã có xu hướng bắt đầu khởi động ở mức cao nhất. Có lẽ những gào thét của xác thịt sẽ rất nhanh buộc họ phải chung đụng với nhau. Cuộc vật lộn bằng tư tưởng đã hoàn toàn thất bại, hai người đã thay đổi tư thế cho nhau để bắt đầu trong những tiếng đếm cuối cùng cho cuộc chạy việt dã và thật bất ngờ, ngay đâu đó rất gần có tiếng gà gáy gọi sáng rất to vừa được cất lên.
Tiếng gà cất lên thật vừa lúc, tiếng gà đã thức tỉnh hai con người đang say mê đến cùng cực quay trở lại với bản ngã của mình. Chàng trai giúp cô gái gài lại những gì vừa mới bung ra, còn cô gái thì sau vài phút bần thần cô nói trong nước mắt:
- Dù thế nào em cũng không thể mất anh được!
Câu nói mỗi lúc một nhỏ dần theo bởi khoảng cách của cô ngày một xa gian nhà lá, bên trong đó có một chàng trai đang đứng nhìn theo cô trong lờ mờ sương sớm.

                                                      4

Sớm nay tất cả các bộ phận đã thu xếp đồ đạc để nếu chạy thử thành công là sẽ chuyển về Hàm Rồng để tiếp tục sửa chữa máy ở dưới đó. Việc chạy máy nghiệm thu ở Bàn Thạch thường rất nhanh chóng vì khi máy đã ổn định thì hoà đồng bộ chỉ trong vài phút là xong. Việc nâng điện thế, nâng tần số chỉ đơn giản là vặn khoá điều khiển như vặn quả đấm khoá cửa để mở thêm nước vào là xong. Nhưng lần này thì khác vì bộ gối trục tua bin đã được thay lớp lót bằng gỗ lim mà nhóm thợ cơ khí làm suốt mấy tuần qua. Chính vì vậy nên mọi người đều rất hồi hộp, lo lắng không biết việc cải tiến có thành công hay không. Có một người chẳng cần để ý đến việc này vì anh tin rằng chẳng bao giờ có thể lấy gỗ thay cho cao su được.
Cuộc chạy máy nghiệm thu đã được bắt đầu theo quyết định của quản đốc nhà máy Bàn Thạch và cán bộ phòng kỹ thuật của nhà máy. Mọi người ai vào việc nấy chỉ có bọn sửa chữa như Hằng là lởn vởn ở vòng ngoài chờ đợi khắc phục những chỗ khiếm khuyết. Sau một vài câu trao đổi ngắn nhân viên vận hành đã tiến hành lần lượt các thao tác theo đúng với quy trình. Thế nhưng khi mở nước vào máy thì máy cứ ì ra không chịu nhúc nhích một tý nào. Anh Khâu được thể cứ lắc đầu quầy quậy:
- Tao đã bảo mà, có mà bò cũng không nổi chứ chạy với chả chạy cái con khỉ. Chỉ khổ mấy thằng sửa chữa lại phải bò lê, bò càng ra ôm lấy cái cổ trục chết dẫm này thôi.
Cuộc thử nghiệm đã bị thất bại hoàn toàn và người phải tổ chức tháo gỡ cái trò cải tiến này không ai khác lại là nhóm công tác của Hằng.
Lắp vào đã khó nhưng đến khi tháo ra lại càng khó bởi vì cả cái gối trục đã ôm cứng lấy trục, muốn tháo tách gối trục ra thành hai nửa thì phải kéo cả gối lên cao gần ba chục phân, mới có chỗ đưa dụng cụ vào để tháo các bu lông bắt hai bên thành của gối trục, thật là một cuộc vật lộn thật sự chứ chẳng phải dễ dàng gì.
Nhóm công tác của Hằng hết bắt quai sắt và đòn gánh vào rồi vặn các bu lông kích cũng chẳng ăn thua. Cũng đã thay đến mấy lần bu lông kích mà ren vẫn cháy hết. Ngay từ đầu nhiều người cũng muốn đứng lại chờ tháo ra để tìm hiểu xem nó vướng cái gì mà không chạy được nhưng rồi thấy lâu quá nên cũng chuồn dần hết về khu tập thể. Sau khi kích kéo mãi không được Hằng cũng thấy nản nhưng rồi anh vẫn cố tìm các cách khác xem sao. Đâu là vam đòn vào vỏ gối để quay xem có nhúc nhích hay không, nhưng hình như cái lớp gỗ lim đã dính liền với trục thì phải. Hằng đành cho cả nhóm lên tầng nghỉ giải lao một chút để lấy sức làm tiếp các “đỏ” sau. Còn lại một mình ngồi trên cái phễu côn đó với điếu thuốc trên tay Hằng nghĩ có lẽ cái giống gỗ này khi có nước là nó nở ra nên có khi phải làm khô đi thì mới tháo ra được. Hút xong điếu thuốc Hằng lại tiếp tục công việc, nhưng lần này anh không tìm cách mở bu lông gối trục mà tìm cách tháo số nước chứa sẵn trong hộp gối trục. Cũng may bên dưới đáy hộp chỉ là lớp chèn bằng cao su nên anh dùng cái lá căn dày vừa phải uốn cong ấn vào khe hở nhỏ tý teo đó là số nước ở đó cạn dần, việc còn lại là làm thế nào cho gối trục chóng khô là được. Vừa lúc ấy số anh em trong nhóm cũng đã đi xuống để tiếp tục làm việc. Mấy cậu thợ mới gọi xuống hỏi:
- Đã tiến triển tý nào chưa anh ơi?
- Cậu nào lên mượn anh Hậu hộ tớ cái đèn khò, với lại lấy cho tớ một tấm gioăng Amiăng nhé.
Một lúc sau các thứ đã được mang xuống, tuy nhiên các cậu này cũng có vẻ không tin tưởng lắm nên  uể oải ra mặt. Biết thế nên Hằng cũng chẳng bảo các cậu ấy làm gì mà tự mình làm lấy các công việc còn lại. Buộc xong tấm gioăng Hằng lấy môt miếng vải thấm nước bọc thêm vào cổ trục để cho trục khỏi bị nóng trong quá trình hơ nóng gối trục. Anh bật lửa đốt đèn khò rồi hơ quanh gối trục từng lớp một. Ngọn lửa đèn khò phun ra xanh lét kêu phè phè làm cho mấy ông già ở tầng trên cũng xuống xem, anh Dưa người Miền Nam trêu:
- Chui cha, thằng này đốt máy chúng mày ơi.
Hằng ngẩng đầu lên cười với anh Dưa:
- Đốt cho nó đỏ lấy vận may anh ạ.
Có lẽ Hằng cũng đã hơ đến hơn nửa giờ đồng hồ rồi còn gì. Anh vặn nhỏ đèn xuống rồi sờ thử vào gối trục:
- Nóng thế này có khi là được đây.
Vừa lẩm bẩm một mình, Hằng vừa nắm tay vào cái đòn quay vẫn gắn vào gối trục quay thật mạnh.
- Ái chà! Thật không ngờ nó lại trơn đến thế làm mình tý nữa thì nhào theo nó.
          Vừa nghe thế, mấy cậu thợ phụ đang định đi ra phía phòng điều khiển lại vội quay lại. Xem ra các cậu có vẻ phấn khởi phục lăn ông anh nhóm trưởng và cũng chẳng cần ai bảo các cậu ấy lao ngay xuống phễu côn để thay cho Hằng lên nghỉ. Hằng mang các thứ vừa tháo ra lên sàn máy rồi mang đèn khò lên giả anh Hậu. Việc tháo gỡ và thay mới cũng chỉ tròn hai tiếng là xong, nhưng các bộ phận chạy máy đã giải tán, số anh em trong nhóm của Hằng đành phải ở lại chờ chạy máy rồi về vào hôm sau vậy.
          Tuy gặp trở ngại trong lần đầu tiên nhưng xem ra cấp trên vẫn quyết tâm để thử nghiệm và thế là Hằng và Độ phải ở lại với anh Uyển ở phòng kỹ thuật để tiếp tục chương trình. Sau mấy lần bàn bạc Hằng đã đưa ra ý kiến là phải khử độ nở khi gặp nước của lớp lót bằng gỗ. Anh cho rằng cần phải tiện sơ bộ rồi ngâm khúc gỗ vào trong nước để gỗ nở hết cỡ, ngay cả khi gia công trong ngày chưa xong cũng phải tháo chúng đem ngâm vào nước. Thậm chí còn phải ngâm liên tục trong nước sau khi đã tiện hoàn chỉnh.
          Có một điều quan trọng là mỗi khi tháo ra cặp vào có định tâm đúng như cũ được hay không. Phải nói rằng nhóm thử nghiệm mới, tập trung hầu hết là những người khá sáng tạo. Vấn đề chế tạo một bộ gá để sử dụng trong suốt quá trình đã được anh Đà vừa là tổ trưởng sửa chữa ca của Bàn Thạch, vừa là thợ tiện đề xuất giải quyết, tuy nhiên lại cần một chiếc mâm cặp bốn vấu mới đủ độ lớn để kẹp và điều chỉnh bộ gá và thế là Độ lại phải trở về tổ cơ khí mượn mâm cặp bốn vấu.
          Trong lúc Độ về Hàm Rồng lấy mâm cặp, anh Đà phải tiện sơ bộ các khúc gỗ để đem ngâm, còn Hằng thì phải vào nhờ xí nghiệp Công nông rèn mấy cái đục vũm để làm rãnh nước bôi trơn. Sau hơn một tuần ngâm nước các khúc gỗ hầu như đã ngấm no nước vì mấy lần Hằng mang lên đo thấy không biến đổi kích thước nữa. Thế là nhóm thử nghiệm quyết định hoàn thiện phôi đầu tiên sau một ngày chủ nhật chơi bời thoải mái.
          Tất cả các loại gối trục đều có lớp lót gắn vào vỏ gối, kể cả loại lớp lót bằng hợp kim ba bít, bằng đồng,   bằng gang cho các thiết bị ở trong điều kiện khô ráo có chế độ bôi trơn bằng dầu. còn các loại gối trục có vòng quay thấp và ở môi trường nước lã thì thường được làm bằng cao su dán chắc vào vỏ sắt, sau đó cả tấm lót này lại được lắp vào gối trục bằng gang pha thép. Như vậy thì lớp gỗ cũng phải được dán chặt với vỏ thép mới được, tuy nhiên nếu nước nhà có thể mua được loại keo dán này thì đem cao su mà dán cần gì phải dùng gỗ, vì vậy nên gỗ phải gắn vào vỏ bằng cả một hệ thống vít chìm dầy chi chít phân đều trên bề mặt cung tròn của tấm lót.
          Bề mặt lắp ghép với lớp vỏ đã được tiện đúng với kích thước, việc còn lại là Độ và Hằng phải khoan cả vỏ sắt và lớp lót gỗ hàng loạt các lỗ Phi 5 mm, sau đó lại mở rộng phần miệng lỗ trên lớp lót để vừa với các đầu vít nhưng phải để độ dầy theo đúng quy định để sau này khi tiện bề mặt lớp lót tiếp xúc với cổ trục mà đầu vít không lòi ra va chạm vào cổ trục, nhưng cũng không thể để lớp gỗ còn lại quá mỏng làm cho tấm lót bị nứt vỡ vì gỗ thường rất dễ nứt theo chiều dọc thân. Các lỗ trên vỏ phải được tarô các lỗ ren M6 để vặn vít vào kẹp chặt lớp lót bằng gỗ vào với vỏ sắt.
          Cuối cùng thì chiếc gối trục đầu tiên đã hoàn thành, tuy nhiên việc bóc lớp gỗ bên trong đã phải làm rất nhiều lần sau đó lại ngâm nước xem có biến dạng hay không. Việc ngâm nước dưới sâu thì quá dễ dàng, tuy nhiên vị trí làm việc của gối trục lại chỉ có chút ít nước nên lại phải thực nghiệm bằng cách ngâm trong môi trường tương tự. Một điều khả quan là độ giãn nở của gối hầu như đã ổn định. Vấn đề còn lại chỉ là thử nghiệm nữa mà thôi, còn vấn đề quy trình chế tạo gia công đã được hoàn thiện triệt để.
          Gần hai tuần qua trong lo lắng tính toán từng đường đi, nước bước đã kết thúc. Gối trục bằng gỗ lim đã được lắp vào đúng vị trí, các khe hở giữa lớp lót với cổ trục vẫn được theo dõi chặt chẽ hàng ngày, thậm chí mỗi ngày còn dùng Pa lăng kéo trục lên quay thử, trục vẫn trơn cho dù mấy ngày ngâm trong ổ trục.
          Các bộ phận chạy máy lại triển khai đầy đủ như mọi khi. Anh Uyển tuy không thể làm trực tiếp nhưng anh thường xuyên ghi chép, nhắc nhở về quy trình gia công. Chắc anh ấy cũng lo lắng lắm nên mặt thì rộc rạc đi, răng thì nhô ra trông thật đáng ngại. Dù sao thì anh cũng là người chịu trách nhiệm chính của công trình nên lo lắng gầy người đi là phải.
          Tám giờ ba mươi phút sáng công việc giao ca mới xong, mọi vị trí đã thống nhất các mệnh lệnh để tiến hành thử nghiệm. Tay vặn mở máy đã được xoay đến chỉ số định mức, bánh vít quay chầm chậm làm cho cần dẫn động thụt sâu vào ống dẫn hướng. Cánh tay đòn chuyển động để xoay các cánh tĩnh mở nước chảy vào buồng máy. Trục máy quay nhẹ êm như không có gì khác với những kỳ chạy máy trước đây. Tất cả mọi người trong ca và tổ thử nghiệm hoàn toàn im lặng trong suốt quá trình chạy thử giờ đây mới hết lo lắng, ai cũng muốn được nói một vài câu làm cho không khí như vỡ oà ra trong gian máy chật hẹp.
Ba ngày sau máy dừng để kiểm tra lớp lót và cổ trục. Tất cả hầu như vẫn chưa có gì thay đổi trừ một vài vết bóng trên lớp lót biểu hiện việc đã có một vật tựa vào nó mà quay thế thôi. Gối trục được lắp trở lại và máy tiếp tục vận hành lâu dài chờ kỳ kiểm tra sau ba tháng.
Sau ba tháng, sáu tháng, và hơn một năm sau tấm lót gỗ vẫn đảm bảo vận hành ổn định. Tuy nhiên việc kiểm tra và định kỳ thay thế sẽ phải dầy lượt hơn vì ai biết khi nào thì lớp gỗ bị mủn ra và khi nào thì có một cái ốc giữ vỏ bị mòn vết tán trên vỏ để rồi lỏng dần ra cọ vào cổ trục. Dù sao thì ta cũng đã giải quyết được những khó khăn tưởng như không thể nào khắc phục được.
Còn đến bây giờ đây loại keo dán cao su ta đã có rồi, công nghệ làm gối trục cao su đã đơn giản vô cùng. Nghĩ lại cái thời đó, ta không khỏi không trạnh lòng khi Phan Trọng Hiệp báo cáo về chế tạo cao su chịu dầu và chế phẩm cách điện tại hội nghị sáng kiến toàn Công ty điện lực ở sở hai Hải Phòng giống như là một phát mình vĩ đại vậy. 

                                                           5

Sáng nay Hằng lắp tiếp đoạn ống xả hơi chèn kín trục cho phần cao áp của tua bin, đây là phần việc cuối cùng trong đợt đại tu thiết bị của phân xưởng Trung tâm. Công việc này cũng không phức tạp lắm nên Hằng làm thoáng cái là xong. Vừa hoàn thành Hằng liền sang bên gian lò để hỏi thời gian chạy máy và tán dóc với mấy cậu bạn ở tổ lò. Chẳng biết mấy cậu này đang bàn nhau cái gì mà khi thấy Hằng đến thì liền im cả, có vẻ như muốn giấu Hằng. Biết vậy, Hằng cũng giả tảng như mình không biết gì và không nghe thấy gì cất giọng hỏi một cách vô tư:
- Mấy bố này có vụ việc gì mà có vẻ bí mật thế?
Người thì trả lời thế này, người thì trả lời thế nọ, xem ra các câu trả lời chẳng ăn nhập với nhau. Vừa lúc đó thì bác tổ trưởng từ đuôi lò vòng lại: 
- Làm gì có gì mà bí với chả mật! chẳng qua là mấy cậu ấy đang tính cái chuyện vợ con cho cậu nhưng chưa xong nên chưa muốn cho cậu biết đấy thôi. Với lại cậu cũng nên chủ động kẻo lại cha già con cọc như chúng tớ thì vất lắm.
- Lại cái chuyện vợ con ấy à? Xem ra cháu vẫn chưa đứng đầu đứng số thì phải. Cứ động đến vụ nào là vụ đó lại cứ chuội ra, thế mới tức chứ.
Một cậu bạn cùng lớp cũng phụ hoạ:
- Chẳng qua là cậu hơi kén chọn quá mà thôi, cứ vớ vẩn mãi rồi đến lúc cả            mấy con mẹ nạ dòng nó cũng ngán ngẩm chẳng chịu tiếp cậu đâu.
- Chả lẽ mình lại vô duyên đến thế?
- Thì đấy có mấy con bé nó mới về thực tập đấy cậu thử tán để chúng tớ xem nào.
- Tán để lấy chứ tán để cho các cậu xem thì có mà...xin kiếu.
- Được, lần này chúng tớ phải cột chặt cậu vào một con bé nào đó mới được.
Đối thoại với mấy ông bạn một lúc thì rồi cũng chả đi đến đâu, thế là Hằng lại bỏ mấy ông bạn nhọ than này để lên khu nhà gianh của tổ điện ở trên đồi. Kể ra mà nói thì Hằng cũng đã biết việc phân xưởng tiếp nhận một đoàn học sinh trường điện của tỉnh về thực tập, nhưng cậu chưa gặp vì mấy cô cậu này thường hay ra muộn và lại về sớm nên khi Hằng rời chỗ làm ra về thì tất cả đã vắng ngắt. Đón cậu chỉ còn mấy chị lớn tuổi là người của phân xưởng mà thôi. Thành thực mà nói từ khi rời nhà đi học nghề rồi lại qua mấy năm quân ngũ nhưng hầu như ở đâu Hằng cũng được mọi người rất quý. Từ những người thợ già khó tính nhất đến cả lũ trẻ con còn chưa biết gọi mẹ cũng đều thân thiện với anh. Còn với mấy chị thợ điện này thì còn phải nói vì có nhiều hôm chủ nhật Hằng không đi đâu, mấy chị lại mang con đến nhờ Hằng trông giúp để giặt giũ chăn màn quần áo. Lũ trẻ vì gặp mặt luôn nên cũng chẳng sợ hãi gì chú Hằng. Với lại chỉ sau mươi phút nghe chú Hằng ca cẩm vài câu là chúng đều ngủ khá say sưa. Lẽ dĩ nhiên với các chị có con mọn thì chú Hằng là nhất, làm gì mà các chị ấy chả mong giúp cho cậu em đã từng bị mất mát, thiệt thòi so với mọi người.
Còn cách tổ điện một khoảng xa Hằng đã nghe các chị tổ điện tranh nhau phát thoại. Người lạ mới đến tưởng là các chị đang cãi vã lẫn nhau. Cho dù Hằng đã vào đến cửa mà cuộc cãi vã vẫn cứ tiếp tục. Cuộc tranh luận dường như quyết liệt hơn chỉ vì một chị cho cô Chân nào đó xinh hơn, còn người kia lại cho cô Thanh nào đó xinh hơn. Thế rồi cô này có vẻ hiền lành, cô kia có vẻ chanh chua, cô nọ ở gần, cô kia lại ở quá xa...Thôi thì nâng lên, đặt xuống bắc đồng cân, đồng lạng tựa như đang mua, đang bán vậy. Nghe một lúc thì Hằng cũng nhận ra cuộc cãi vã này nhằm vào việc giới thiệu bạn gái cho Hằng. Đến lúc này thì Hằng nhận thấy hình như mọi người trong đơn vị đều thật sự yêu mến Hằng. Họ muốn Hằng cũng có cuộc sống hạnh phúc, có gia đình như họ bởi anh là người cuối cùng trong đơn vị đã ba mươi tuổi mà vẫn còn cô độc.
Buổi chiều nay tưởng sẽ chạy máy nhưng rồi lại bị hoãn vì số đông các đồng chí lãnh đạo về kỹ thuật đều bận họp. Hằng cùng với mấy bác già đi soát xét lại từng chỗ một lần nữa để tránh xảy ra những thiếu sót. Cùng lúc ấy có bốn năm cô con gái trẻ theo bác tổ trưởng tổ điện lên xem thiết bị. Bác tổ trưởng có tiếng là nhẹ lời đã lần lượt nói về thiết bị điện mỗi khi đi qua từng chỗ một. Hằng đoán đây là mấy cô bé về thực tập nên cậu cũng cố nhìn xem có cô nào giống như mấy chị sửa chữa điện mô tả hay không. Kể ra thì các cô cũng khá gọn ghẽ và rất trẻ trung, cái sự trẻ trung làm bộc lộ cái duyên dáng ưa nhìn. Vừa lúc đó có mấy cô mạnh dạn tiến lại gần Hằng, các cô chào hỏi xong thì tỏ vẻ muốn nhờ anh chỉ dẫn một vài thiết bị trông khá hoành tráng mà cụ tổ trưởng tổ điện đã quên không giới thiệu vì nó không phải là phần thiết bị của nghề sửa chữa điện. Thấy các cô gái có vẻ dạn dĩ nên Hằng cũng không ngại cùng trò chuyện với mọi người. Thực ra thì sự mạnh dạn của mấy cô gái về thực tập làm cho Hằng hơi bất ngờ vì đến ngay cả anh nếu cần tiếp xúc làm quen với một người lạ anh cũng thấy ngại, nhất lại là một cô gái thì càng ngại hơn. Trong tâm thức của mỗi người ta đều có cái sự ngần ngại cố hữu là sợ người khác đánh giá mình là người quá xuồng sã, quá dễ dãi và cả trơ tráo nữa, nghĩa là cần phải từ tốn và kín đáo và đừng có tỏ ra săn đón quá. Mới hôm qua đây thôi anh chàng Quơi mới về tổ hồi tháng trước, trong lúc tâm sự với Hằng đã trút sang cho Hằng một loạt những quan điểm về cách tìm bạn gái, cậu ta cứ xơi xơi những là: “Cậu bây giờ khá tuổi rồi phải áp dụng lối nhất bạo nhì dai, chứ cái thứ tam tài, tứ đức thì lâu quá không dùng được”. Ngày bấy giờ mấy anh bạn của Hằng vẫn hay truyền tụng câu nói cửa miệng giống như là lời tổng kết về cách tìm hiểu bạn gái của các đấng nam nhi mà hôm qua Quơi đã bật ra. Câu nói nghe ra có vẻ rất vần nhưng khi đọc lên cứ thấy có cái gì đó gờn gợn trong lòng vậy.
Thực ra thì Hằng cũng đã để ý đến một vài cô trong cái đám con gái hàng ngày vẫn cứ léo nhéo ở trên mấy gian nhà của tổ điện. Cũng chẳng có cô nào “sắc nước hương trời” đến mức đáng để phải theo đuổi. Cô thì mặt gẫy lại có bộ ngực đồ sộ đến mức chưa nhìn thấy người đã nhìn thấy ngực, cô thì lùn tịt như một chị vịt bầu, có cô cao thì lại cao quá. Thực ra thì đó chỉ là những nét điển hình vậy thôi, điều này cũng dễ xuê xoa bởi vì đa số các cô mới chỉ độ mười tám đôi mươi, cái duyên của sự trẻ trung, tươi tắn vẫn tạo ra những nét ưa nhìn. Sau một loạt những lần yêu không có kết quả Hằng cũng đâm nản, anh cũng muốn làm sao đó nhanh kết thúc những ngày này để sớm có một gia đình. Có một điều anh lo hơn cả đó là chuyện mẹ anh vừa trải qua một cơn ốm nặng thập tử nhất sinh, tưởng không qua được. Sau đợt ốm cụ già đi đến hơn mười tuổi, trông cụ xuy xụp quá, anh sợ nếu anh không cưới vợ nhanh thì chưa chắc cụ có còn được biết mặt cô con dâu của cụ hay không.
Sáng nay công việc cũng chưa có gì mới, cả tổ chỉ làm vệ sinh thiết bị dự phòng. Anh Khâu kêu Hằng lên kho lấy thêm ít dụng cụ bổ sung để sắp tới lại đi Hoằng Xuân đại tu Điedel tại đó. Không biết ông Thuỵ thủ kho đi đâu mà Hằng tìm mãi không thấy. Còn đang ngơ ngáo nhìn ngược, nhìn xuôi thì chị Dung gọi vào hỏi:
- Này thế chuyện hôm nọ chị bảo thế nào rồi?
- Chỉ bảo chuyện gì cơ ạ?
- Thì cái chuyện con Thơ ấy.
- ...
- Tao trông nó cũng được đấy! Nó lại là con nhà nghèo nên chịu thương chịu khó, nhưng cái chính là nó không kênh kiệu khi gặp cảnh nhà chồng nghèo.
- Em cảm thấy không hợp với cô ấy. Người gì mà tiếng cứ lanh lảnh, nghe đến khiếp chị ạ.
- Hay là cái Chân? nó thì ngay bên cầu đây thôi?
- Cô ấy trẻ quá chị nhỉ?
- Thế nhưng nó lại rất thích chú đấy.
- Sao chị biết?
- Hôm trước cái Hoa nói chuyện về cậu, chị thấy cô ta nghe rất chăm chú, không những thế khi nói đến việc tìm cho chú một đứa thì nó cứ hỏi lên, hỏi xuống xem chú ưng đứa nào. Sau đó mấy đứa tổ chị cứ thu vén cho cái Thanh thế là cô ta xị mặt ỉu xìu ra ngồi một xó.
- Thật thế hả chị?
- Thật quá đi chứ lại.
- ... Hôm kia cô ấy mời em sang nhà chơi chị ạ.
- Thì đấy, tao đã bảo mà.
Câu chuyện có lẽ còn dài nữa nếu như anh Thuỵ không từ đường cái đi vào.
Câu chuyện tìm người yêu của Hằng xem ra đã loang rộng ra khắp phân xưởng. Khối người muốn giới thiệu làm cho Hằng không còn biết đâu mà nhận lời. Thôi thì ế ẩm, tồn kho, nhỡ lứa, thậm chí có cả mấy cô vợ liệt sĩ chưa con cũng được lôi ra. Đâu là em, là cháu, là bạn thời chăn trâu cắt cỏ, chỗ nào cũng chỉ thấy cái hay trong ý nghĩ của những ông, bà mối một mùa. Mấy tháng trước nhóm bạn cùng quê miền ngoài sau một thời gian áp đặt thấy không kết quả đã nới lỏng cho Hằng tự tìm hiểu, đến giờ này thấy tình hình có vẻ nan giải và phức tạp nên cậu Vy bàn với cả nhóm liền quyết định vào cuộc lần thứ hai. Đúng ra thì Hằng chẳng có ý định gấp rút trong chuyện này, anh vẫn muốn chờ Phương dàn xếp với gia đình, nhưng xem ra cô ấy có vẻ hơi nhút nhát nên hầu như cô ấy chả dám làm gì. Còn với Hằng thì anh cũng không còn có thể chần chừ hơn được nữa, mẹ anh có thể nằm xuống bất kể lúc nào. Còn cái nguồn mà anh hướng tới có lẽ không có chỗ nào hơn là đám học sinh thực tập kia. Tuy vậy sau mấy lần qua lại chỗ mấy cô gái Hằng thấy anh cũng có nhiều đối thủ chứ không phải đơn giản gì đâu. Số bạn cùng lớp của các cô cũng có khối cậu “cao to, béo mượt” ra dáng lắm, dễ gì các cậu ấy lại chẳng có ý tứ.
Cũng chẳng biết do vô tình hay hữu ý mà chiều hôm thứ năm tuần trước anh đang đi thì nhận ra có một cô gái phía trước nom có vẻ khá quen. Hình như cô ấy có ý như muốn đi chậm lại để chờ anh nên dù anh vẫn đi bình thường nhưng khoảng cách hai người hình như càng ngày càng gần lại. Đến khi chạm mặt thì anh nhận ra đấy chính là Thơ. Họ buộc phải dừng lại một lát để mà chào nhau theo kiểu xã giao. Quãng đường không dài nhưng họ cũng đã hỏi thăm được đôi chút về hoàn cảnh của nhau. Cuối cùng thì anh hiểu rằng Thơ cố ý về sau để đợi gặp anh nhờ viết mấy chữ vào cuốn sổ tay của cô. Tất nhiên là anh nhận lời vì tối ấy có đến ba cô gái cùng mời anh xuống nhà chơi.
Buổi tối hôm ấy qua đi thật là nhanh chóng, nhưng xem ra cũng từ hôm ấy họ có vẻ thân mật với nhau hơn. Thơ cũng đã cùng các bạn đến chơi tận phòng ở của Hằng một vài lượt và còn nhờ anh viết giúp một vài thứ vào các quyển sách học kỹ thuật của cô. Trong ánh mắt, lời nói đã có dấu hiệu của sự gần gũi đồng cảm.
Những ngày tháng buồn bã cứ tiếp tục qua đi cùng với sự chờ đợi đến nao lòng, vậy mà sao Phương cũng chẳng có tín hiệu nào khả quan hơn. Những đối tượng mới thì lại cứ tiến gần hơn cả về cự ly và cường độ. Chiều nay mấy cô gái lại hẹn Hằng đến khu trọ của họ chơi, anh phân vân một lúc rồi cũng nhận lời. Một khoảng thời gian không dài nhưng số các cô gái trẻ hầu như đã thất bại trong chiến lược tình cảm của mình. Sự phân hoá bởi chiến lược của mấy cô nhiều tuổi hầu như đã thắng trong việc chinh phục chàng trai chưa vợ gần như duy nhất ở cái đơn vị công nghiệp mà các cô đã về đó trong bước đầu tập làm thợ của mình. Các cô gái trẻ thất bại còn bởi mấy bà chị khôn khéo hơn đã tranh thủ mấy chị công nhân lớn tuổi trong cái tổ điện lắm điều nhiều lời kia. Nhưng có lẽ đây là số phận họ không có duyên với nhau nên mọi việc cứ tự nhiên mà rời rạc ra vậy thôi chứ nếu không thì làm sao cái anh chàng cô độc nọ lại cứ gần gũi hơn mấy cô gái già kia. Nói như thế cứ tưởng mỗi nhóm các cô chắc là đông lắm nhưng thực tế đã không phải như thế. Nhóm các cô gái trẻ thì có bốn, còn nhóm các cô gái già thì chỉ có ba cô mà thôi. Một cô có dáng đàn chị hơn thì có khuôn mặt gẫy đến khắc khổ, cái hấp dẫn của cô là nước da rất trắng và bộ ngực đồ sộ cứ ưỡn ra phía trước. Cô lại đã qua trường đời khá phong phú ở một đội Thanh niên xung phong nào đó. Nhìn cô người ta thấy toát ra sự từng trải và cả sự thông thuộc trong tình trường của cô và sự thực thì hình như cô cũng đang yêu, có chấp nhận sự quen biết người khác có lẽ là có ý muốn lựa chọn xem có thể có người khác khá hơn người mình đang gắn bó. Cô thứ hai thì có dáng người hơi cũ kỹ và quắt queo đến khó hiểu, cô còn lại chính là Thơ mà ta đã nói đến ở trên. Thơ là con cả trong một gia đình có đến sáu người con, bốn trai hai gái. Ông bố là cán bộ đang công tác ở một đơn vị an dưỡng của công an võ trang. Có lẽ cô cũng đã qua một vài lần yêu đương gì đó với vài cậu bạn cùng quê hoặc vài chàng bộ đội ngày còn chiến tranh vẫn hành quân qua làng của cô để rồi đi ra mặt trận. Cho đến lúc này, cô có còn người yêu nào nữa hay không thì có trời mới biết được. Cô có khuôn mặt bình thường nhưng dễ nhớ bởi hai bên lưỡng quyền nhô cao, tướng mặt này nếu nói như mấy ông thầy tướng thì khá là cao số. Cũng may cô cũng có nước da khá trắng và thân hình khá uyển chuyển cùng với duyên con gái nên chợt nhìn cũng dễ chấp nhận.
          Cũng không biết sao mà buổi tối hôm nay khi Hằng đến chơi như mọi lần nhưng cả nhóm con gái tiếp đón hơi khác mọi khi. Anh cứ phân vân trong bụng và tự mình nghĩ lại tất cả mọi việc xem mình có nói gì hay làm gì để họ phật ý hay không, nhưng anh chẳng thấy gì cả. Thế rồi mọi việc cũng qua đi nhanh chóng khi cả mấy cô nháo nhào đi tìm nước và mượn cốc chén của mấy anh chị công nhân ở trong khu tập thể. Độ mươi phút sau có ai đó bá vai Thơ lôi về phòng thì người tiếp Hằng đã chuyển giao sang tất cả cho Thơ. Ngay cả khi Hằng chào mọi người ra về thì sau cả loạt câu chào lại, người tiễn anh vẫn chỉ có một mình Thơ. Suốt chặng đường về Hằng cứ tự vấn về chuyện mấy hôm trước các cô vô tư là thế mà sao hôm nay cô nào cô ấy cũng dè dặt giữ ý sao đó không biết, có lẽ họ ngầm thu vén cho Hằng và Thơ thì phải.
Gần nửa tháng qua Hằng khật khừ mỏi mệt khác hẳn mọi khi, lúc đầu anh tưởng anh đi làm thêm giờ và thức đêm nhiều nên mỏi mệt. Cho đến hôm nay thì anh đã nhận ra sự việc không phải vậy mà chính là căn bệnh sốt rét tưởng đã dứt điểm ở khu an dưỡng nay lại tái phát. Những cơn rét run ập đến chẳng khác nào phong ba bão táp, mấy anh bạn cùng khóa đã mang đến ba cái chăn bông chồng lên mà Hằng vẫn cứ run lên bần bật. Những người chưa gặp sốt rét lần nào thì phát hoảng cả lên lo đưa đi cấp cứu, bộ phận y tế của phân xưởng thì cũng bế tắc vì trong cơ số thuốc thông thường của họ không có loại thuốc này. Cũng may cho Hằng là khi rời đoàn an dưỡng anh có xin thêm được mấy viên phòng số ba màu nâu vẫn để trong cái hộp nhựa đựng thuốc cất ở trong rương. Mặc dù Hằng đã mang thuốc ra uống rồi nhưng cũng phải có thời gian nhất định thuốc mới công hiệu. Nghe Hằng bị sốt quá cao lại run bần bật nên nhiều các anh chị trong phân xưởng đều ghé vào thăm làm cho cả căn phòng gần như đầy chặt cả người. Ông y tá già của phân xưởng hò hét mãi rằng phải để cho bệnh nhân thở họ mới chịu ra bớt. Cuối cùng thì căn phòng cũng vắng vẻ vì đã đến giờ ra nhà máy làm việc, trong nhà chỉ còn vài người có trách nhiệm trông coi Hằng ở lại.
Lại một cơn rét run nữa đang kéo tới, lần này có vẻ còn ghê gớm hơn mấy đợt trước đó. Hằng đang kêu mấy anh bạn trong tổ đắp thêm cho mấy cái chăn nữa thì Thơ vào. Cô đi có một mình từ nhà máy về rồi vào thẳng nhà Hằng trong bộ áo bảo hộ xanh chéo thường ngày. Nhìn cô dở muốn đến bên giường của Hằng, dở không dám đến vì sợ mấy anh bạn trong tổ của Hằng phát hiện ra tình ý của cô nên cô thật lóng ngóng. Một lúc lâu sau chắc là đã cố gắng trấn tĩnh được nên cô đến ngồi cạnh giường của Hằng vừa dém lại những cái chăn đang chồng lên đống lên người Hằng vừa lí nhí hỏi han Hằng về bệnh tật. Cuộc thăm hỏi của Thơ chỉ kết thúc khi chuẩn bị hết giờ làm việc. Có lẽ cô sợ mấy cô cậu cùng khoá phát hiện ra việc này rồi trêu cợt nên sau câu chào là cô vội vã rời phòng ở của Hằng...
Một cuộc hẹn gặp như bao nhiêu cuộc hẹn trong một buổi tối mùa thu êm ả đã xảy ra sau nhiều lần lỡ hẹn. Hằng đón Thơ ở cổng cơ quan rồi hai người đi dọc con đường xuôi về phía thị xã Thanh Hoá. Cái thị xã miền Trung này ngày xưa có tiếng là đẹp và rộng rãi chạy dọc theo con đường quốc lộ số một từ Bắc vào Nam. Cái thị xã một thời là địa danh oanh liệt nhất trên miền Bắc về chiến đấu và chiến thắng trong cuộc chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, giờ đây đang hối hả trong thời kỳ xây dựng lại. Về ban đêm chỉ có đôi chỗ ở trước các cơ quan công quyền trong thị xã có vài ba cột đèn đường thắp chiếu lệ tạo ra những vầng sáng mờ nhạt. Các địa hình còn lại thì tối om, tối óp chẳng nhìn thấy gì mỗi khi màn đêm buông xuống.
Bóng tối chẳng giúp gì cho ai ngoài việc làm cho người ta dễ ngủ để tái tạo lại sức khoẻ sau một ngày lao động cật lực. Cũng có thể còn nhiều cái lợi nữa nhưng mà cũng chẳng nên kể nhiều ra thế để làm gì ngoài việc kể ra một tác dụng khá hấp dẫn là nó giúp cho những người, những việc không muốn bộc lộ, không muốn công khai ví như giúp cho bọn du thủ, du thực, bọn trộm cắp dễ hoành hành và cho những anh chị muốn qua lại tình tự với nhau được tự nhiên hơn.
Đã có điều kiện tối trời rồi nhưng người ta còn muốn vắng vẻ nữa thì mới thật sự tiện lợi. Cũng chính vì thế nên cặp đôi Hằng và Thơ đã rẽ ngay đầu cầu Hạc đi vào con đê cụt bên trái con đường quốc lộ. Hình như họ chưa quen thuộc nhau lắm nên suốt dọc đường họ chỉ nói với nhau rất ít, còn thì cứ đi và đi bên cạnh nhau như vậy. Những câu hỏi thường là của người con trai, còn người con gái thì trả lời, đa số các câu hỏi tập trung về hoàn cảnh gia đình là chính. Cũng có lúc người ta chỉ nghe thấy tiếng cô gái mà không thấy tiếng của chàng trai, đấy là lúc cô kể chuyện về gia đình cô và kể về bản thân cô. Tất nhiên là chỉ với những nội dung giản đơn thôi chứ có những điều thuộc về bí mật của cô như đã yêu ai hoặc đã gần gũi với ai thì chắc là cô chẳng bao giờ nói.
Mỗi người sinh ra, lớn lên thường phải tiếp xúc với nhiều người, ngoài những người là ruột thịt họ còn phải tiếp xúc với những người ngoài, phần vì công việc xã hội có liên quan, phần vì cùng ở chung một chỗ, làm chung trong một công việc. Những quan hệ qua lại hoặc cùng đi đâu đó trong đồng giới thì chả nói làm gì, thế những với người khác giới thì tất phải có lý do nào đó. Nói thế để hiểu rằng Hằng và Thơ cũng đã có chút gì đó cần phải gặp gỡ, cần phải tìm để biết về nhau và điều giải thích sau cùng là họ đã muốn có nhau.
          Con đường đê này không dài lắm nên họ đi chả mấy chốc đã gặp đoạn cuối cùng và lẽ dĩ nhiên là họ phải quay trở lại. Câu chuyện của họ cần biết về nhau vẫn chưa nhiều nên họ vẫn chưa muốn ra về và thế là họ đành phải ngồi xuống bên vệ đường để tiếp tục câu chuyện. Sương đêm đã bắt đầu làm ẩm lớp áo ngoài và cái lạnh đêm thu đã khiến họ xích gần lại với nhau hơn. Tuy nhiên họ chưa thể có gì gần gũi hơn được vì từ phía cô gái cái việc quá chủ động là điều không nên xảy ra, còn phía chàng trai thì cũng luôn phân vân chán chường vì bao nhiêu lần yêu mà không thành tựu. Họ ngồi như vậy khá lâu rồi cùng đứng lên tiếp tục đi vì từ phía đầu con đê có hai bóng người cũng đang đi nhanh về phía họ. Cô gái chia tay với chàng trai cùng với lời hẹn mời chàng trai về thăm quê và gia đình trong một ngày chủ nhật của tuần sau đó. Cuộc hẹn không thành vì chàng trai bận đi công tác đột xuất đến gần một tháng. Khi trở lại cơ quan thì số học sinh thực tập đã kết thúc, số học sinh này hình như đã tốt nghiệp và được bổ sung về các đơn vị công nghiệp trong tỉnh. Thơ cũng ra đi như các bạn của cô kết thúc những gì đã xảy ra trong những ngày thực tập.

                              GIA ĐÌNH

                                       1

          Câu chuyện quan hệ của Hằng và Thơ đã lắng xuống và gần như bị quên hẳn nếu như sau đó mấy tháng một người bạn không mang về cho Hằng một bức thư dán kín trong một chiếc phong bì tự làm bằng giấy thếp. Bức thư ghi rõ tên họ người nhận nhưng địa chỉ thì chỉ ghi là gửi về nhà máy. Cũng may mà anh bạn Hằng nhìn thấy tên họ chứ không thì thư không biết sẽ đi về đâu vì trong nhà máy có đến hàng chục người cùng tên Hằng, biết của Hằng nào mà chuyển đến.
          Bức thư người bạn mang về cho Hằng nét chữ không quen lắm, nhưng có một điều chắc chắn đây là thư của con gái, nét chữ khá nắn nót cho thấy người viết thư rất cẩn thận đồng thời có ý muốn người đọc thư hiểu được tình cảm hết sức trang trọng của người viết. Khó có thể đoán được đây là thư của ai khi chưa mở thư ra, trong khi đó thì mấy cậu bạn cứ hỏi quáng lên và còn muốn giằng lấy để bóc ra ngay, làm cho Hằng cũng sốt ruột. Tuy vậy anh vẫn giấu kỹ được vào trong người rồi đi về phòng của mình.
          Cũng chẳng cần dao kéo làm gì cho phiền phức Hằng dùng móng tay lựa theo mép bì thư để xé ra cho đỡ rách các tờ bên trong. Đến khi hai tờ thư được lôi ra thì Hằng mới biết đây là thư của Thơ. Anh lặng lẽ đọc những dòng mực màu xanh trên nền giấy trắng. Sau khi đọc xong lá thư Hằng đọc tiếp sang tờ thứ hai, mới đầu anh chẳng hiểu cô ấy nói gì, mãi đến khi đọc được gần một nửa anh mới nhận ra đây là một bài thơ, đương nhiên có thể gọi là thơ vì nhiều câu có vần điệu tuy không phải là hay về mặt nghệ thuật nhưng có thể nói rằng bài thơ là chứng tích của sự xúc cảm, tựa như có một lúc nào đấy niềm vui tràn ngập ta tự thốt ra lời.
          Lá thư của Thơ dường như một tiếng nói nhẹ nhàng gợi lại một thời gian đã qua, nó như tiếng ngân của chiếc đồng hồ báo thức, đánh động cho Hằng nhớ về một người mà anh đã từng có sự tiếp xúc và từng quen biết, không phải là vô cớ. Lá thư cũng như là một tờ thông điệp báo tin về cô ấy cùng với những công việc và nơi cô ấy đang ở. Những tin tức đó đâu phải là ngẫu nhiên mà nó chính là cái ý muốn nói rằng tôi đang ở đó và anh có thể đến với tôi.
          Đọc thư xong Hằng còn đang hồi tưởng lại những lần gặp gỡ với Thơ trước đó thì nhóm bạn đã ăn cơm chiều xong đang ồn ào kéo tới. Tất nhiên là trong lúc ăn cơm đám bạn này đã đoán già đoán non nhiều về tác giả lá thư nhưng chưa ai cầm chắc cho nhận định của mình nên đến tận cửa phòng vẫn có cậu cố cãi chưa chịu nhau. Vi vẫn là người nhạy cảm nhất trong bọn đã phán xanh rờn rằng đấy nhất định là thư của mấy cô thực tập rồi, nhưng là ai thì cậu ấy còn lưỡng lự giữa hai cô gái mà cậu ấy đang lấy ý tứ của mình ra mà chọn. Tất nhiên đến lúc này thì Vi cũng chẳng cần dự đoán làm gì vì dứt khoát Hằng phải báo cáo tình hình rồi.
          Thế rồi cũng chẳng cần Hằng có đồng ý hay không lá thư đã được đọc cho cả hội đồng nghe. Cùng với giọng đọc khá hài hước là những nhận xét khá lý thú về cuộc dự đoán lúc trước của cả đám bạn. Lá thư vừa mới đọc đến chỗ Thơ nói về nơi làm việc của cô ấy thì Chinh đã reo lên:
          - Rồi, rồi...cứ về với tớ là đâu vào đấy tất.
          - Về với cậu là thế nào?
          - Chỗ ấy gần nhà tớ mà, chỉ một đoạn là tới.
          Đến giờ mọi người mới hiểu ra những điều Chinh vừa nói. Thì ra là Chinh bảo nếu có đến thăm Thơ thì đi với cậu ấy vì nơi Thơ đóng quân là hội trường huyện Hoằng Hoá ở thị trấn Bút Sơn ngay quê của Chinh.
          Thế là một cuộc bàn kế hoạch để cho Hằng đến thăm Thơ lại được nhóm bạn đặt ra. Tất nhiên là nhiều ý kiến nhưng cuối cùng thì các bạn cũng tán thành cho Hằng đi thăm Thơ vào chiều thứ bấy tuần tới. Xe thì lấy của Đại, rồi đi cùng với Chinh về Bút Sơn, chỉ tiếp xúc với đối tượng ở cơ quan còn tối thì về nhà Chinh ngủ, sáng thứ hai lại đi cùng với Chinh về đơn vị...
          Cuối cùng thì Hằng cũng phải chấp hành “nghị quyết” của bạn bè đi gặp Thơ để “triển khai” tiếp mối quan hệ đã gián đoạn từ mấy tháng trước. Quãng đường từ Hàm Rồng xuống Bút Sơn cũng không xa lắm nên chỉ độ ba mươi phút là Hằng đã tìm đến hội trường uỷ ban huyện Hoằng Hoá. Đêm ấy Hằng ở lại với những người công nhân trong đội xây lắp điện của Thơ. Cũng không ít người trong đội đã có chồng, có vợ nên họ cũng mừng cho Thơ và cố tạo điều kiện cho hai người có thời gian tâm sự. Hằng chia tay Thơ vào cuối ngày chủ nhật cùng với lời hẹn sẽ về thăm nhà Thơ thay cho lần lỡ hẹn mấy tháng trước đó.

                     2


Đường về nhà Thơ cũng không xa lắm và hầu hết đều là đường ô tô nên cũng thuận tiện. Qua cầu Quán Nam ở cuối thị xã chỉ một đoạn ngắn là đã đến đường rẽ về Nông Cống. Đoạn đường tiếp theo chính là con đường đá được mở rộng từ thời chiến tranh trước đó. Những chuyến xe tải trọng mươi mười lăm tấn vận tải lâm sản từ các vùng rừng núi về đã làm cho lớp đã bong lên và nằm lổn nhổn trên đường. Người đi bộ, đi xe đạp chỉ có thể dựa vào lối mòn hai bên để mà đi. Lúc một lại có những chuyến xe ô tô đi qua cuốn  theo cả một quầng bụi kéo dài đến hàng nửa cây số làm cho người đi đường phải nhắm mắt, nhắm mũi để tránh bụi. Nếu không có những trận mưa thỉnh thoảng xuất hiện thì có lẽ những mái nhà, cành cây hai bên đường phủ đầy đất đỏ. Chiếc xe đạp như con ngựa vía láng đi, láng lại để tránh những hòn đá mồ côi thỉnh thoảng mọc lên ở giữa lối mòn cũng không làm cho cặp trai gái nọ khó chịu. Công việc của họ cần chính là việc phải vượt qua con đường ấy mới có thể về được đến nhà. Mặc dù mệt nhoài cả người trên quãng đường đầy bụi, đầy đá Hằng vẫn không quên dự tính cho mình những tình huống khi gặp người nhà của Thơ. Anh nghĩ ra khá nhiều phương án để đối phó với những tình huống có thể xảy ra khi gặp người nhà của Thơ, ví dụ anh sẽ chào thế nào với bố mẹ, ông bà của Thơ. Biết đâu lúc đó có thể gặp một vài người khá tinh quái họ có thể sẽ hỏi về quan hệ cụ thể của anh và Thơ và cùng với nhiều câu hỏi khác hóc búa hơn nữa, mà anh không thể không trả lời vì người đó lạ là cô gì chú bác của Thơ. Tuy nhiên anh cũng tự tin vào mình vì anh cũng đã trải qua khá nhiều tình huống của giao tiếp hàng ngày cùng với sự giao tiếp của anh trong những lần gặp gỡ người nhà của những người bạn mà anh đã quan hệ trước đó.
Còn đang suy nghĩ lung tung mọi việc thì anh nghe Thơ bảo đã đến đường rẽ vào làng. Ngõ nhà Thơ là một đoạn đường đất không rộng lắm, có lẽ chỉ vừa cho hai người tránh nhau. Hai bên đường trồng toàn những cây ô rô, cây ruối làm hàng rào ngăn nhà với đường. Làng quê của Thơ cũng giống như bao làng quê khác mà anh đã từng gặp, từng qua trong những năm còn trong quân ngũ. Còn đang lúng túng với chiếc xe đạp bị kẹt phanh thì Hằng chợt nhìn thấy ngay đầu ngõ trước mặt có một người đàn ông khá trẻ mặc quần đùi áo cộc đang tập trung vào việc dọn dẹp rơm rác, cây que ngay trước cổng. Hằng đoán đây là những người có nhà ở cùng ngõ của nhà Thơ. Anh nghĩ đã là hàng xóm của gia đình nhà Thơ thì mình cũng nên có sự chào hỏi thân thiện để nhận được sự cảm mến ban đầu. Anh nghĩ ở độ tuổi này cũng không còn trẻ nhưng cũng chưa già, mình nên chào là anh cho thân mật. Vừa định cất tiếng chào thì đã nghe Thơ cất tiếng chào trước:
- Bố về hôm qua ạ!
Hằng thật sự giật mình tự nghĩ trong bụng “thật là may cho mình, là cô ấy đã chào trước.” khi nghe Thơ chào người đó là bố, Hằng cũng chuyển ngay sang câu chào khác:
- Cháu chào chú!
Ông bố của Thơ vừa bị đánh động bằng câu chào của con gái chợt ngẩng đầu lên và ông cũng ngạc nhiên không kém khi nhận ra đi cùng con gái mình còn có một chàng trai lạ mặt. Ông đứng im mất một lúc rồi mới mời chàng trai vào nhà.
Những câu chuyện thân mật giữa Hằng với mọi người trong gia đình của Thơ ngay sau đó cứ  kéo dài hết đề tài này sang đề tài khác. Hỏi han nhiều hơn cả về gia đình của Hằng vẫn là ông nội của Thơ. Hằng cũng đã thoáng thấy có nhiều những đôi mắt của những người làng từ một góc khuất nào đó nhìn vào anh. Có lẽ họ muốn xem cái chàng trai mà Thơ mang về có khá hơn bọn trai làng hay không, hoặc khả dĩ họ có thể tìm ra một vài đặc điểm nào đó để cân lên đặt xuống về sự lựa chọn bạn của Thơ khi cô rời nhà đi thoát ly ra ngoài làng, ngoài xóm. Cho đến lúc hai người xin phép rời gia đình để về đơn vị thì chiều đã muộn.
Hằng và Thơ ra đến Hàm Rồng thì trời đã tối đã khá lâu, cho dù có muốn đi ngay về Bút Sơn thì Thơ cũng không làm sao có thể đi được nữa, hai người đành về khu tập thể của Hằng tìm chỗ cho Thơ nghỉ lại. Số phòng ở tập thể hầu hết đều khóa kín cả vì số anh em quê Thanh Hoá đều về nhà chưa lên. Hai phòng còn lại thì chỉ có phòng của Hằng và Đại là có hai người, phòng đầu cùng thì lại là phòng đặc biệt giành cho y tế của phân xưởng vừa ở vừa cất giữ thuốc men. Cuối cùng thì Đại phải sơ tán sang phòng đầu nằm chung với y tế để Hằng và Thơ ngủ lại phòng của hai người.
Đi lại cả ngày như thế chắc hẳn ai cũng mỏi mệt dễ chừng họ sẽ ngủ ngay nhưng Hằng và Thơ hình như chẳng biết mỏi mệt là gì, họ đang bận nói chuyện về buổi thăm quê Thơ sáng nay. Có lẽ còn có những chuyện gì quan trọng nữa nên thoảng hoặc họ vẫn còn nghe thấy từng đoạn đối thoại ngắn của hai người. Có lẽ phải đến hơn hai giờ sau phòng của họ cũng đã tắt đèn. Đêm trôi đi nhè nhẹ như mọi khi cùng với tiếng côn trùng rỉ rả bốn xung quanh ngôi nhà tập thể. Không gian có lẽ sẽ hoàn toàn yên tĩnh nếu như từ đồi cây phía sau nhà không thỉnh thoảng cất lên những tiếng lục khục do các cành va vào nhau khi gặp gió.

                        3

Cũng chỉ còn hai tháng nữa là đến tết âm lịch, thế mà mẹ Hằng vẫn phải nằm viện. Cụ già đi và gày guộc trông thật đáng ngại. Những điều cụ thường xuyên nói với Hằng vẫn là giục cậu xây dựng gia đình để nếu cụ có mệnh hệ nào thì cũng đã biết mặt con dâu của cụ. Hằng không vội sao được khi thấy mẹ mình nói đã đến điều. Nghĩ đến việc này anh lại sốt ruột vì đã gần hai tuần qua vẫn không nhận được tin tức gì của Phương. Tín hiệu gần nhất mà anh nhận được qua một người bạn thì hầu như tình hình quan hệ của Hằng và Phương vẫn bế tắc và vô hy vọng.Việc anh sẽ phải làm gì trong hoàn cảnh hiện nay thật khó có thể rành rẽ được. Tình cảnh của Phương, sự nhiệt thành của Thơ? Đành rằng anh vẫn chưa một lần nói với Thơ về tình cảm của anh, nhưng anh nghĩ dẫu sao anh cũng đã gieo vào lòng cô gái này sự hy vọng nào đó. Anh vừa có ý lên án mình vì đã có sự quyết tâm nhưng lại không thật mãnh liệt lắm trong việc thuyết phục Phương theo anh vào Thanh Hoá, thậm chí anh còn có ý nghĩ tìm cô gái khác để thay Phương. Cái giận từ gia đình Mận, gia đình Phương đã làm anh không còn tỉnh táo được hơn. Bao lời đàm tiếu của những người trong xóm, ngoài làng khiến anh buồn và đã có lúc nghĩ đến việc trả thù đời. Điều này cũng không thể đổ hết cho anh được khi anh cũng chỉ là một cá nhân nhỏ bé trong cái xã hội loài người, anh đâu có là vĩ nhân, là thần thánh. Sau khi đã nghĩ đi, nghĩ lại không biết bao nhiêu lần về việc này, anh đã quyết định xuống Bút Sơn để gặp Thơ.
Hằng xuống Bút Sơn rồi hỏi thăm vào đến hội trường Uỷ ban huyện Hoằng Hoá vào khoảng gần chín giờ sáng. Hội trường vắng vẻ quá làm anh chột dạ, anh nghĩ nhóm thợ của xí nghiệp lắp điện có lẽ đã di chuyển, tuy vậy anh vẫn cứ vào xem thế nào. Thật may mắn là nhóm thợ vẫn còn ở đấy nhưng Thơ thì lại đi dự đám cưới vắng nhà. Sau khi nói chuyện với mấy người phụ nữ cùng làm với Thơ một lúc thì anh đứng dậy ra về. Giữ anh ở lại mãi không được, hai người phụ nữ đành bảo anh nên đi về theo con đường lớn hướng nam để may ra có thể gặp cô ấy trên đường về.
Hằng cũng chẳng tin lắm vào lời của hai cô phụ nữ ấy nhưng anh cũng đi về theo con đường mà họ đã dặn. Vừa đi anh vừa nghĩ có lẽ số phận vẫn chưa muốn cho anh có gia đình, thôi thì đành vậy. Có lẽ anh sẽ không yêu ai nữa trong vòng mấy năm tới để tập trung vào việc tiếp tục học văn hoá. Cũng đành mắc lỗi với người mẹ già nua hết một đời gian nan vất vả vì chồng, vì con, vì cháu, vì mình. Từ lâu anh đã hiểu về cuộc đời của mẹ gian nan thế nào, cực khổ thế nào từ  tấm bé cho đến lúc về già qua những câu chuyện bà kể cho mấy chị em nghe trong những đêm đông giá rét. Chỉ còn một đoạn ngắn nữa là đã đến con đường rẽ, anh sẽ quay về Hàm Rồng và quyết thực hiện những điều anh đã tâm niệm. Có lẽ anh cũng không có duyên với Thơ như lâu nay anh vẫn nghĩ.
Anh vòng tay lái theo đường rẽ và nhìn lần cuối về hướng con đường đi từ Sầm Sơn về Hoằng Hoá. Từ phía xa lắc xa lơ Hằng chợt như thấy có một người đang đi lại phía mình. Anh dừng lại như có ý chờ đợi nhưng cũng không hy vọng lắm về sự ngẫu nhiên của anh và Thơ. Gần mười phút trôi qua, bóng người ngày càng rõ ràng hơn, Hằng đã nhận ra người đi đó là một cô gái khá trẻ, mặc một cái áo vét ka ki màu đất tay xách một cái túi nhỏ. Hằng thất vọng đang chuẩn bị đạp xe đi thì cô gái ngước mắt nhìn lên. Hằng thật là bất ngờ vì khuôn mặt quá quen thuộc, người ấy lại chính là Thơ. Hai người chào hỏi nhau xong liền quay lại uỷ ban huyện. Mấy người bạn dường như cũng ngỡ ngàng và mừng cho hai người vì đã gặp được nhau.
Suốt dọc đoạn đường quay trở lại Hằng cứ luẩn quẩn trong đầu về sự gặp gỡ ngẫu nhiên vừa xảy ra. Anh tự hỏi không biết có phải đây là số phận hay không mà sao cái hy vọng mỏng manh như vậy vẫn đến. Cuối cùng thì anh cũng quyết định sẽ tiếp tục với cái kế hoạch mà anh đã trù tính mấy hôm nay. Cũng chẳng màu mè gì nhiều, anh bình tĩnh nói với Thơ về dự định của mình bằng những lời chẳng lấy gì làm văn hoa cho lắm. Cũng chẳng phải chờ đợi lâu la gì anh đã nhận được sự đồng ý của Thơ ngay trong lúc hai người trên đường quay lại hội trường uỷ ban huyện Hoằng Hoá...
Sáng nay Hằng và Thơ đưa nhau về Côn Sơn để hỏi ý kiến gia đình của Thơ về việc xin tổ chức cưới. Hằng cũng lo lắng rất nhiều chuyện nhưng rồi mọi sự cũng qua đi nhanh chóng. Cũng không hiểu sao hôm nay Hằng lại bình tĩnh đến thế. Những nội dung đề xuất của anh đã được nói ra thật rành rẽ. Từ việc gia đình neo đơn không có người lớn vào gặp đến hỏi ý kiến về các thủ tục cưới hỏi. Ông nội của Thơ vẫn là người tiếp chuyện anh, lần gặp này dễ dãi và thân tình hơn rất nhiều. Cụ băn khoăn lắm mới nói ra được yêu cầu của nhà gái:
- Công việc này cháu cứ yên tâm, ông đã đồng ý thì bố nó cũng tán thành, có điều các cháu vẫn phải xuống chỗ bố nó công tác để nói cho bố nó biết.
Hằng cũng sẵn sàng tiếp nhận yêu cầu một cách vui vẻ:
- Chúng cháu sẽ xuống ngay chiều nay ạ!
- Các cháu cứ xuống sớm cho bố nó mừng, còn việc tổ chức thì cũng phải chu đáo để cho làng họ khỏi chê. Lâu nay mình cũng đã ăn của người ta khá nhiều rồi, cái Thơ lại là con đầu cháu sớm nên không thể sơ sài được.
- Ông cứ cho cháu biết cụ thể để cháu chuẩn bị.
- Thế này cháu ạ! Mày cứ cho tao một tút thuốc lá, với một ngàn cau là được, còn trầu, chè thì tao bảo mẹ nó sang chợ mua mấy nón là xong.
Chưa nghe dứt chữ xong Hằng đã phát hoảng lên vì những yêu cầu của ông nội Thơ. Một tút thuốc lá thì chả có khó gì nhưng một ngàn cau thì anh sao có thể lo nổi. Mấy hôm trước anh nghe ai nói cau năm nay mất mùa, mỗi quả cau gần bằng bao thuốc lá chứ có rẻ đâu. Vừa thầm tính toán anh vừa nghĩ: có lẽ mình phải hoãn lại vì không thể lo nổi số lượng cau khủng khiếp kia. Nghĩ sao nói vậy, anh vừa định cất lời thì ông cụ lại nói tiếp:
- Ông thấy ngoài cửa hàng tổng hợp họ có cau của miền Nam đấy. Cũng chỉ độ một cân là đủ cháu ạ!
Lúc nãy Hằng phát hoảng bao nhiêu thì bây giờ anh mừng bấy nhiêu. Anh không ngờ, quê Thơ lại có tục chia quà cưới bằng cau khô. Thế là hai người ra cửa hàng mua hẳn hai cân cau khô và một tút thuốc lá Lạch Trường mang về cho ông cụ.
Hằng và Thơ xuống đến khu an dưỡng của bộ công an ở Sầm Sơn có lẽ cũng vào khoảng hơn một giờ chiều. Đây chính là nơi ông bố của Thơ làm việc, ông là một trong bốn vị lãnh đạo của đoàn an dưỡng. Hằng vừa đánh tiếng hỏi thăm một đồng chí chiến sĩ của đoàn thì anh ta đã chạy ngay đi để báo tin.
Hằng đang tính trong đầu xem mình nên mở đầu câu chuyện ra sao thì ông cụ đã đến ngay sau lưng. Vừa nghe Thơ cất tiếng chào bố anh liền giật mình quay lại thì đã nghe ông cụ hỏi:
- Các con chưa ăn cơm phải không? Để tao bảo mấy cậu cảnh vệ lấy cơm xuống ăn cho đỡ đói.
Vừa dứt lời xong thì ông cũng nhón chân quay đi chẳng cần nghe Hằng có chào hỏi hay không. Đang còn lúng túng không biết chào hỏi nói năng ra sao thì ông cụ lại đã đi ngay làm cho Hằng gần như mở cờ trong bụng vì có thêm thời gian để mà chuẩn bị. Có một điều thật sự may mắn là ông cụ đã nhanh chóng đánh tiếng trước, hơn nữa trong câu nói của ông không biết vô tình hay cố ý đưa vào cặp từ “các con” làm cho không khí dường như đã rất thân tình, tựa như là ông đã nói cho Hằng biết ông đã thừa nhận sự quan hệ của anh với con gái ông ngoài ra ông còn có ý muốn bảo rằng: “chàng trai ơi, cậu đừng ngại gì cả, hãy nói chuyện với tôi theo mối quan hệ như cậu đang nghĩ là được”. Đó là Hằng tự suy luận ra thế chứ thực tế có phải là thế hay không thì anh cũng chẳng biết được. Biết đâu ông cụ cũng có phần lúng túng khi mình chưa đến năm mươi đã có một người sắp xưng là con, gọi mình là bố khi anh ta cũng chỉ kém mình mười lăm, mười bảy tuổi là cùng. Thôi thì dù thế nào thì bằng sự mở đầu như vậy cũng đã tạo ra những thuận lợi cho cả hai người. Đang còn suy nghĩ lan man quanh chủ đề ấy thì mấy anh cảnh vệ đã mang cơm và thức ăn đến mời Hằng và Thơ vào ăn cơm. Hằng và Thơ cảm ơn mấy anh cảnh vệ rồi cầm đũa ăn cơm ngay tại phòng ăn của đoàn an dưỡng
Hình như các đồng chí trong đơn vị của ông cụ cũng không muốn làm hai người mất tự nhiên nên họ cũng ít qua lại thành ra Hằng và Thơ ăn uống tự nhiên hơn. Hằng và Thơ ăn xong đang xếp bát đũa lại thì một anh trong đơn vị đã đến giúp mang đi. Đến lúc này thì một số anh khác mới đến hỏi chuyện hai người. Vốn dĩ Hằng là người đã tiếp xúc với khá nhiều người trong xã hội, lại quen với công tác tập thể nên anh nhanh chóng bình tĩnh trở lại. Anh thẳng thắn nói chuyện với những người lính trong đơn vị một cách thật tự nhiên. Anh cũng không giấu giếm mục đích của mình khi xuống đây để gặp ông bố của Thơ. Có một chú khá nhiều tuổi hỏi thăm về công tác của Hằng, anh cũng không ngại gì khi nói mình vốn cũng đã là lính chiến ở chiến trường ra.
Câu chuyện nhanh chóng kết thúc khi ông bố của Thơ từ trên nhà khách đi xuống để gặp hai người. Ông tự mình kéo một chiếc ghế ở bàn bên để ngồi cạnh hai người rồi từ tốn nói chuyện:
- Hôm nay đơn vị liên hoan tổng kết năm nên cỗ bàn khá chu đáo, đơn vị cũng vừa mới ăn xong lúc các con đến. Bố bận chào khách mất một lúc nữa, nên bây giờ mới xuống được!
Đến lúc này thì Hằng đã thật sự bình tĩnh, anh nhẹ nhàng nói chuyện cùng ông cụ:
- Chúng con vừa vào trong quê xin ý kiến bố mẹ và ông bà cho phép chúng con được tổ chức đám cưới trong thời gian tới. Ông bảo chúng con xuống đơn vị gặp bố để bố hướng dẫn mọi việc.
- Ông bảo làm thế nào thì các con cứ làm như thế là được. Chỉ nên tổ chức theo đời sống mới, chứ cũng không nên bày vẽ làm gì để đoàn thể người ta phê bình...
Dừng một lúc dường như để suy nghĩ tiếp điều gì đó rồi ông lại nói tiếp:
- Các con nên tổ chức ở đơn vị. Bố sẽ nhờ một ông bác ra đại diện gia đình là xong. Nhà mình hoàn cảnh khó khăn, bố cũng không cho đơn vị biết để tránh chuyện mừng mọt, ăn uống tốn kém.
Hằng lặng lẽ nghe ông cụ nói rồi vâng nhẹ sau mỗi lần ông cụ dứt câu, cuối cùng thì anh chẳng nói được gì thêm sau câu mở đầu lúc nãy. Hằng không ngờ anh lại có ông bố vợ thật là dễ tính. Tác phong của ông thật giản dị và thân tình. Ông gặp gỡ nhanh, nói chuyện nhanh và kết thúc cũng thật nhanh bằng sự giục giã:
- Mọi việc cứ như thế là được, đã có ông bà và mẹ các con ở nhà lo lắng, bố bận ra Hà Nội họp chắc không về được đâu, thôi các con về nhanh kẻo tối...
Chiều hai mươi tháng giêng Hằng và Thơ đem giấy tờ về quê của Thơ để làm thủ tục kết hôn. Cán bộ uỷ ban xã lại có họ với gia đình của Thơ nên ông ấy đưa cả tờ khai và giấy đăng ký kết hôn cho hai người mà chẳng cần đợi một tuần như quy định lúc bấy giờ. Khi cầm tờ giấy kết hôn trên tay cả Hằng và Thơ đều cảm thấy rất ngỡ ngàng, họ ngỡ ngàng vì một điều hết sức mới mẻ đó là giờ đây họ đã là một gia đình, họ đã thành chồng thành vợ một cách nhanh chóng đến không ngờ được. 


Không có nhận xét nào: