TUỔI THƠ
1
Những ngày
chơi bời lêu lổng của Hằng đã không còn nữa bởi đám bạn cùng tuổi đã phải bắt
đầu với các công việc vặt trong gia đình của chúng. Thế là chỉ còn có một mình
cậu thuộc diện rỗi rãi, tha thẩn hết vào lại ra với vài thứ đồ chơi vặt vãnh
của chính cậu. Gọi là đồ chơi nhưng thực ra cũng chẳng sang trọng gì. Một vài
cái mảnh sành được mài nhẵn để làm con chọi. Mấy hòn đá xanh nhặt ở đường tàu
về để đẽo gọt làm bi.
Ngoài những
lúc ngủ, thời gian còn lại cậu đều dành cả vào các trò nghịch ngợm và chế tác
những đồ chơi ấy. Hai tay và quần áo Hằng lúc nào cũng toàn đất cát, bột đá
trắng, sản phẩm của việc gia công chế tạo các viên bi. Đây cũng chính là công
việc chiếm mất nhiều thời gian nhất của cậu.
Công đoạn
chính của việc chế tạo bi bắt đầu là việc dùng dao rựa cùn để đẽo các viên đá
từ to thành nhỏ rồi mài sơ bộ vào nền gạch cho tròn. Tiếp đó là việc đưa các
viên đá này vào giữa hai vòng tròn của hai cái kẹp đạn rồi lại xoay đi xoay lại
làm cho viên đá trơn và nhẵn. Cái công đoạn này được các cậu bé trong làng gọi
là lùa bi.
Việc làm ra
một viên bi từ khi đẽo đá đến khi lùa cho thật tròn, thật nhẵn cũng phải mất
hàng ngày, hàng buổi chứ không phải nhanh chóng gì đâu. Thế mà khi đem ra đánh
với lũ bạn chỉ cần sơ ý hoặc kém tài một chút là mất vào tay chúng, lúc ấy mới
tiếc làm sao. Tất cả mọi đứa trẻ trai trong làng đều ham làm và ham có nhiều
các viên bi bằng đá nên khi làm ra được một viên bi công phu quá, đẹp quá,
nhẵn quá đến lúc mất, còn tiếc hơn người lớn tiếc khi mất một cục vàng.
Bên cạnh cái
trò bi, đáo ấy lại còn trò chơi khăng, thổi diêm, thổi nịt. Trò nào cũng cuốn
hút, bởi trò nào cũng gắn với những được mất. Cho dù cái được mất ấy chả đáng
bao nhiêu về giá trị vật chất nhưng với lũ trẻ trong làng thì thế cũng đã là to
lắm, vì có khi nào chúng nó có đủ tiền để mua được nổi một bao diêm hay một xâu
nịt đâu. Diêm của chúng đều do lấy cắp bớt trong bao của bố mẹ, còn nịt thì do
chúng nhặt nhạnh trong các gói hàng mà người ta tháo ra lấy hết đồ bỏ rơi lại
đó.
Từ mấy năm nay ở làng vẫn có một lớp
học tổ chức ngay ở cái điếm giữa. Cái lớp học này dạy kèm một chương trình vỡ
lòng với chương trình lớp một. Ai có học hơn từ trước thì cũng tự hạ xuống, còn
ai chưa học thì cũng cố mà theo, thành ra việc học cũng thật khó khăn cho cả
thầy và trò. Ông giáo dạy cái lớp hổ lốn này là ông trưởng bạ, trưởng bạ chỉ là
tên công việc ông thường làm trước đây, còn ông tên là gì thì rất ít người đề
cập đến. Ông trưởng bạ cũng đã dạy học nhiều năm ở các nơi khác nên ông tuy
giống ông đồ nhưng cũng đã có những nét của một ông thầy có sự đào tạo về sư
phạm chính quy. Ông rất dữ đòn và thường xuyên đòi hỏi học trò tôn kính ông
giống như các vị lớn tuổi ngày xưa đi học chữ nho. Ông có một cái roi bằng mây
nhưng lại buộc chập hai cái thành một, mỗi khi có người không thuộc bài là roi
ông lại vút lên giáng vào những cái mông nghe mà phát sợ. Cũng có khi ông dùng
nó quật lên những bàn tay đặt ngửa trên bàn khi có người quên viết tập hoặc
viết chữ quá xấu, quá bẩn. Những người bị đánh vào tay thường đau đến hai ba
ngày mới khỏi, nhiều khi vết đánh đỏ mãi đến cả tuần. Có điều là chỗ nào có lỗi
thì ông đánh đúng vào chỗ đó, nên bàn tay phải chính là nơi ông trừng phạt, khi
bị trừng phạt, bị đau thì lại viết xấu,
viết xấu lại sẽ bị đánh, bị đau. Mỗi con người đều sinh ra hai tay, mỗi tay đều
phải dùng để làm việc, nhưng mà bao giờ cái tay bên phải cũng đều vất vả nhất,
gian nan nhất và cho đến khi gặp ông trưởng bạ thì nó lại còn bị đau nhất. Đáng
lý nó phải được khen khao hoặc giả cũng được quan tâm bằng một hình thức nào đó,
vậy mà trên khắp thế gian này đã có ai phán giúp một đôi điều.
Cậu con trai nhà ông Tân cũng được gửi
vào lớp học của ông trưởng bạ như một học sinh vỡ lòng cùng một quyển vở với
một cây bút. Ông Tân gửi cậu vào đây hy vọng là cậu đọc được cái chữ thì chỉ in
ít mà thôi, còn cái chính là muốn để cho ông giáo rèn cặp cậu, giữ để cho cậu
không bỏ đi chơi lang thang đây đó. Cho nên việc đi học của cậu cũng chỉ là do
có mấy cái tiện thể cùng một lúc mà buộc phải làm. Ngoài việc tập đánh vần, tập
đọc trên lớp, mỗi ngày cậu còn phải tô chì một bài mà thầy đã viết sẵn, sao cho
các nét mực không được trệch ra khỏi nét chì mà thầy đã viết trong vở. Cậu cũng
được thầy ưu ái hơn vì nhà cậu ở ngay lớp học, hàng ngày thầy vẫn thường xuyên
vào chè nước cùng ông bố của cậu nên có sự gì ông giáo cũng nói ngay cho bố cậu
biết mà không cần phải xử phạt. Cũng chính vì thế mà cậu lười học hơn những đứa
khác, kém hơn những đứa khác.
Bài học ông
trưởng bạ dạy cho học trò luôn bám sát với chương trình của nha giáo dục phổ
cập từ khi còn ở chế độ cũ. Ngoài các
chương trình học bằng tiếng Việt, các học trò còn phải học thêm chương trình
tiếng Pháp, những bài tập đọc, tập viết tiếng Pháp luôn làm cho số học sinh mới
vào gặp khó khăn. Những bài học thuộc lòng lại càng khó hơn nữa, đến ngay cả
đọc phát âm còn không nhớ huống hồ còn nói đến chuyện dịch nghĩa, chính vì thế
mà có rất nhiều cô cậu phải đòn, càng phải đòn càng ghét môn tiếng Pháp và rồi
lại càng ghét thêm thực dân Pháp. Nhiều lúc cậu nghĩ sao mà cái thằng Pháp nó
ác thế, bom đạn nó mang sang giết người ác đã đành đến cái chữ của nó mang sang
cũng làm cho người ta điêu đứng, khổ sở.
2
Sang đầu
tháng hai năm 1955 ông Tân về thăm quê, lần này ông mang theo Hằng cùng về.
Việc thăm quê chỉ là phụ, việc chính là ông đưa cậu con của bà hai cùng về rồi để lại trông nom
cháu bé cho chị cả đi làm. Dưới quê hồi này mùa màng thật là bận rộn, anh cả
thì đi vắng, chị cả thì chẳng có ai đỡ đần, hơn nữa khi vào đông vụ chí kỳ ai
ai cũng đều bận, chị cả vướng cháu không ra đồng được nên ông bà Tân đành phải
cho cậu về quê giúp chị một thời gian. Thế là trong lần đi học đầu tiên này cậu
đã phải bỏ học giữa chừng.
Làng Tây Lạc cách tỉnh lỵ có hơn chục
cây số, con đường về làng cũng không được rộng rãi gì, cho dù đây là tuyến
đường chính đi từ tỉnh lỵ xuống biển. Hàng ngày có đến hàng dăm chục chuyến xe
ô tô qua lại, ngoài ra còn có hàng trăm chuyến xe ngựa đi về vừa chở hàng lẫn
chở khách. Quang cảnh bên đường thật là tiêu điều xơ xác, đây đó một vài quán
hàng lẻ tẻ dọc đường bán vài cốc nước chè xanh chủ yếu để phục vụ cho những
người đi bộ hoặc gánh hàng rong giải khát với một chút tiền ít ỏi không làm vơi
đi tý xíu tiền công mà họ vừa kiếm được trong ngày. Cái thứ tiền công chỉ vừa
đủ mua nổi không quá hai đấu gạo, còn số gạo thì lại không đủ cho hai bữa của
một gia đình đông người.
Chị cả chưa có nhà ở riêng mà phải ở
nhờ nhà của người chú ruột, cũng may chú cũng không đông con nên cũng không đến
nỗi quá chật chội. Ngôi nhà ông chú và vợ chồng của người con lớn của chú ở là
một ngôi nhà tranh bốn gian lợp rạ, tường trình bằng đất rất khéo. Bức tường
được trình phẳng đến nỗi nếu không đến tận nơi xem thì chắc sẽ cho là tường
gạch trát vữa, duy có bức tường hậu là có vết nứt hơi lớn đe doạ đến việc đổ
tường. Chị cả và cháu đều ở dưới nhà ngang, ngôi nhà này nối với nhà trên theo
hình thước thợ, đây cũng là căn nhà tre nhưng bé hơn nhà trên một ít, vốn trước
đây nó cũng là nhà ở chính của gia đình ông chú nhưng từ khi dựng được ngôi nhà
trên thì mới không ở nữa. Cũng là mái tranh tường đất nhưng tất cả mọi chỗ từ
trong nhà ra ngoài, sân chỗ nào cũng sạch sẽ. Hàng ngày sau khi làm xong mọi
việc cụ Nhẫm lại quét dọn và sắp xếp nên mọi thứ rất gọn gàng, ngăn nắp. Bên
trong hai căn nhà nối nhau theo hình thước thợ là một cái sân đất khá rộng rãi
được đầm nén phẳng phiu và vuông vắn. Hàng ngày cụ Nhẫm ra vườn đằng sau chặt
vài cây tre mang vào pha ra để đan lát, khi thì là cái rá, cái rổ, lúc lại là
cái giần hay cái sàng để dùng trong nhà. Mỗi lần đan xong một thứ cụ lại mang
vào bếp hơ lên ngọn lửa để đốt các sợi lông tre xổ ra. Đến khi nứt cạp cụ
thường dùng răng cắn vào cạp rồi mới rút sợi mây, thành thế nên trên vòng cạp
của rổ hoặc rá đều có vết răng của cụ. Một lần cụ chợt nhìn thấy Hằng đang nhìn
mình cắn cạp rổ rá, cụ cười và kèm sau đó là lời giải thích:
- Có cắn thế cạp mới chắc! Những người
đi chợ mua rổ rá thường nhìn vào dấu cắn này mà chọn, có thế mới mua được thứ
tốt.
Hằng cũng chỉ cười mà không nói gì,
trong bụng thì cậu nghĩ rằng sau này cậu sẽ không làm nghề đan lát vì nếu cứ
cắn như vậy thì rất ghê răng. Có lẽ cụ Nhẫm trêu cậu thế thôi chứ nếu cái rổ
nào cũng làm thế thì chả mấy chốc mà gẫy hết cả răng.
Hàng ngày Hằng phải dậy rất sớm để
trông cháu cho chị cả đi làm. Cũng vì đồng xa nên chị cả chỉ đi làm có một buổi
sáng, còn buổi chiều thì chị ở nhà trông cháu để cho Hằng đi học cùng với cô A
con của ông Khánh và cô Tý con bà Xước. Thầy dạy học cho bọn trẻ là cụ Mậu, cụ
cũng chỉ là thầy đồ có một chút vốn chữ quốc ngữ vừa đủ để dạy cho bọn trẻ vỡ
lòng, mẫu giáo mà thôi. Lớp học của cụ ở ngay trên nền nhà, bọn trẻ tự mang
theo những cái ghế để vừa kê sách khi viết bài, còn lúc tập đọc thì dùng làm
ghế ngồi. Những bài học hàng ngày vẫn là tập tô, tập viết, tập đọc và học thuộc
lòng. Những bài học thuộc lòng đa phần là những bài ca dao ngắn, những bài hát
ru lục bát nên cũng dễ học, dễ nhớ. Điều quan trọng đối với cụ Mậu là làm thế
nào để cho các học trò nhỏ của mình tỏ ra có tiến bộ, bên cạnh sự hiểu biết của
các học trò là điều mong muốn của người thầy làm thế nào để cho các bậc phụ
huynh dễ nhận ra rằng con cháu của mình cũng đã học được mà tiếp tục gửi con,
gửi cháu đến cho cụ, để rồi họ sẽ đóng góp cho cụ một vài đấu gạo trong lúc đói
kém khó khăn này.
3
Ngoài việc
trông cháu và đi học chú em chồng của chị Thảo chẳng giúp thêm cho chị được gì
nữa, còn chị thì tất bật suốt cả ngày. Cũng có lần chị cả cho cậu đi tập làm
việc cùng với chị khi chị gửi cháu cho cụ Nhẫm. Lần ấy hai chị em ra bờ ao
trước cửa làng lấy bèo cái về cho lợn, cũng không biết chị mượn đâu được đôi
quang gánh ngắn khá vừa so với độ cao của Hằng. Bèo vừa chất lên là cậu gánh
thử ngay, xem ra cậu gánh cũng được nên chị cả cũng không để ý đến nữa, chị cúi
xuống để nhặt bèo vào gánh của mình. Chú em thì hăm hở lắm nhưng chỉ mới đi
được một đoạn đã thấy lấy tay sờ lên vai, có lẽ là cậu bị đòn gánh cọ đi, cọ
lại nên đã bắt đầu đau vai. Đây là lần đầu tiên trong đời cậu tập gánh nên dễ
đau và nhanh đau là phải, thế là cậu nghĩ đến việc đổi vai nọ sang vai kia cho
đỡ đau. Vì là lần đầu tập gánh nên việc đổi vai như thế nào cậu cũng chưa tường
tận lắm. Lúc đầu cậu định dừng lại rồi xoay đòn gánh trên vai, nhưng xoay đến
đâu thì cứ như cái đòn gánh lại cứa vào vai và cổ đến đó, thế là cậu đành hạ cả
gánh xuống rồi chui đầu qua đòn gánh để sang vai bên trái. Vừa sang vai xong
thì thấy chị cả cười ngặt, cười nghẽo, rồi chị tiến lại gần bảo chú em hạ gánh
xuống để xem chị dở vai. Thực ra thì việc dở vai cũng không khó lắm, cái đáng
lưu tâm ở đây là vai của cậu đỏ tía và đã sưng lên rồi nên cậu không muốn để
cho cái đòn gánh nó nhay lên trên đó mà thôi. Thế rồi chị cả làm động tác đổi
vai cho Hằng xem, chị lại định còn bắt cậu dở vai thử để cho chị xem có được
hay không, chị nhấn mạnh việc đổi vai phải xoay về đằng sau mà không được xoay
về đằng trước. Thì ra lúc nãy khi chị ngước lên thì thấy Hằng vừa chui đầu từ
bên này sang bên kia nên chị tưởng là cậu xoay đòn gánh ra đằng trước, có lẽ vì
thế mà chị buồn cười đến mức như vậy. Sau lần tập gánh với bao chuyện buồn cười
lại đến chuyện tập tát nước. Thực ra cũng không còn là chuyện tập nữa mà là tát
nước thật.
Mùa nắng năm
ấy đã kéo dài mấy tháng liền, nên ngay từ khi cấy các thửa ruộng của nhà đã
thiếu nước. Hàng ngày các hộ có ruộng ở vùng ấy đều có ý chia phần cho từng nhà
đến tát nước. Chờ mãi đến năm sáu ngày liền, hôm ấy mới đến phiên chị cả lấy
nước. Dồn tát nước vào ruộng sâu quá thành ra không dùng được gầu sòng mà phải
dùng gầu giai. Chị cả lại chỉ có một mình nên chẳng làm gì được. Chị cũng đã cố
gắng đi mượn người nhưng tất cả những người có thể giúp chị thì đều quá bận,
bất đắc dĩ lắm chị đành phải bảo cậu em chồng đi tát nước cùng chị. Hằng nghe
nói được đi tát nước thì rất vui vẻ vì mình sắp được làm các công việc của
người lớn mà lâu nay cậu chưa bao giờ được sờ đến.
Chị cả cũng
buộc lại sợi dây gầu cho ngắn lại sao cho Hằng có thể kéo được. Sau khi tìm chỗ
đứng cho mình, chị cả lại đi sang chỗ của Hằng để hướng dẫn cho cậu về cách
đứng, rồi cách cầm dây gầu. Mới kéo gầu
nước đầu tiên Hằng đã chúi cả người về phía dồn nước, tý nữa thì ngã nhào xuống
dồn. Chị cả hoảng quá định thu dây gầu lại nhưng chú em không cho, xem ra có lẽ
cậu vẫn muốn tập tát nước cho bằng được. Đến lần thử thứ hai thì cậu có tiến bộ
hơn tuy rằng chị cả chỉ dám múc có lưng gầu một. Hai chị em cố gắng nhũng nhẵng
mãi cũng cũng múc được ướt mặt ruộng. Đến lúc này thì cậu đã quá mệt và đòi
nghỉ. Ngay chị cả cũng muốn nghỉ vì chị cũng mệt. Chị cả mệt không phải vì làm
quá nhiều, chẳng qua chị mệt vì cứ phải lựa theo cậu em. Nếu kéo mạnh thì sợ
cậu ngã thành ra cứ phải kéo nhè nhẹ. Mỗi lần thả gầu chị lại phải cố hạ thấp
xuống cho cân đối rồi đưa dần gầu nước lên như kéo nước từ giếng khơi lên vậy.
Dù sao thì cũng ướt được chân lúa, thế cũng đã là quý lắm rồi, còn muốn kéo
thêm cho đầy thì tối nay sẽ nhờ số chị em trong họ ra giúp thêm cho một lúc.
Với một cái thành quả bé tý như vậy cũng làm cho Hằng vui thích, mà không vui
sao được vì chỉ mới gần chín tuổi cậu đã có thể làm được công việc của người
lớn, cho dù công việc đó chẳng có đáng gì so với nhiều công việc khác của nhà
nông.
4
Ngoài việc
trông cháu, giúp việc cho chị và đi học cậu còn luôn bày ra cho số bạn cùng
tuổi rất nhiều các trò nghịch ngợm, nào là các trò bán hàng bằng lá cây để vui
chơi, trò trốn tìm lẫn nhau trong đêm tối. Riêng trò trốn tìm thì cậu luôn luôn
chiến thắng, tất cả bọn trẻ con từ cái A đến cái Tý, cùng mấy đứa bé tý khác ở
trong xóm. Chúng nó chả làm thế nào tìm ra được cậu. Chỉ riêng mỗi một mình cậu
nếu đã đi trốn thì chỉ khi nào cậu không thích chơi nữa mà tự đi ra thì lũ trẻ
mới bắt được cậu. Cũng có khi Hằng đi trốn vào một cái đống rơm của nhà cụ Đãng
hoặc của nhà cụ Đồ rồi ngủ luôn ở trong đó làm cho chị cả đi tìm trợn cả mắt
lên mà vẫn không thấy. Những lúc như thế chị cả lại sợ cậu giận gì mình mà đi
trốn nên càng lo lắng, nhiều khi bỏ cả cơm nước rồi cuống cuồng lên để đi tìm
em. Cho dù sau đó đã nghe Hằng nói rõ nguyên nhân rồi nhưng chị vẫn bán tín bán
nghi, cho là mình đã làm điều gì đó không phải nên em phật ý giận mình. Những
lúc như vậy chị chỉ mong sao bố sớm về để trả cậu về cho bố mẹ. Ngoài các trò
chơi thông thường của bọn trẻ ra Hằng còn có những trò nghịch tệ hại hơn nữa.
Một trong các trò ấy là trò chơi ăn trầu bằng thân của cây sắn giây mà cậu cắt
được ở trong vườn của cụ Đồ. Một mình cậu đã bày ra một đám cưới của một đứa
trẻ này với một đứa trẻ khác, bất chấp đó là cô cháu hay là anh em cậu chỉ cần
có đám cưới là được, vì chỉ có đám cưới mới có lý do để ăn trầu. Những đứa trẻ
lại cũng chẳng cần gì cả miễn là cứ được nhai các đoạn sắn giây rất ngọt là
được. Cũng phải nói rằng vào thời bấy giờ trẻ con ít được ăn đường mật hoặc các
thức ăn có chất đường nếu như chưa đến các ngày hội hè hoặc tết nhất, vì vậy mà
cái chất ngòn ngọt của cây sắn dây cũng là những thứ mà chúng ao ước được ăn.
Cây sắn giây có vị ngọt nhiều nhất là đoạn thân bánh tẻ nằm gần giữa gốc và
ngọn, cũng chính vì vậy mà mỗi lần cắt được đoạn thân trên thì cây sắn cũng bị
cắt cụt. Chỉ trong có mấy ngày mà hết
vườn nhà cụ Đồ lại đến vườn nhà bà Đãng đều có cây sắn giây bị héo lá. Những
người có vườn cũng chỉ nghĩ rằng có lẽ là cây sắn bị sâu, về sau thấy cây sắn
bị chết nhiều quá đâm nghi thế là họ phát hiện ra cây sắn bị ai đó cắt. Chắc họ
cũng đoán ra thủ phạm nhưng lại không bắt được tận tay nên họ chỉ dám nói bóng,
nói gió mà thôi.Thế rồi chuyện này cũng đến tai chị cả, chị bực lắm nhưng mà
không biết nói vào đâu, chị chỉ hỏi cậu xem cậu có cắt sắn hay không, dĩ nhiên
là cậu phải chối chứ chả lẽ lại đứng ra nhận, mà đứng ra nhận thì chắc chắn là
sẽ bị mắng hoặc có thể còn bị đánh là đằng khác. Đành rằng chị cả là không dám
đánh nhưng mấy đứa cháu của cụ Đồ chắc gì chúng đã tha. Thế rồi cũng tý nữa là
bị lộ nếu như cậu không nhanh trí bế ngay thằng cháu rời khỏi nhà ngay lúc đấy.
Chẳng là mỗi lần cậu muốn chơi lâu thì cậu lại bắc ghế với lên mái nhà là nơi
cậu giấu các đoạn sắn giây để lấy cho thằng cháu một đoạn sắn giây để nó cho
vào mồm nhằn đi, nhằn lại. Lần này không biết thế nào tự nhiên nó lại nghĩ ra
cái trò nhằn cái thân sắn giây thế là nó cứ chỉ lên mái nhà rồi khóc ré lên đòi
chị cả, cũng may là chị cả cũng chẳng hiểu thằng bé đòi gì còn cậu em chồng khi
phát hiện ra đã bế vội nó đi chơi, dĩ nhiên là khi vắng người cậu đã di chuyển
những đoạn sắn giây ấy đi nơi khác.
Sau những ngày hè nóng bỏng với các
trò chơi kéo dài từ ngày này sang ngày khác tưởng như vô tận cũng đã kết thúc.
Những ngày thu đầu tiên đang từ từ đến trong tiết heo may se lạnh, ngoài đồng
cây lúa đã tròn mình. Những ông bà già sớm ngày ra đã có người phải mặc áo sợi
dài tay cùng với cái khăn đen trùm kín trên đầu chống lạnh. Suốt trong những
ngày hè Hằng thường trốn đi cùng mấy đứa trẻ trong xóm để đi bơi lội ở các ao
làng chạy dọc bên đường cái. Người ta đồn rằng trong làng có đến năm mươi tư
cái ao tất cả, trong đó có đến hai phần ba số ao là của nhà lão Quản Ri. Số ao
này bây giờ đã không còn của Quản Ri nữa mà nó đã thuộc về các ông nông dân mà
đội cải cách đã chia cho mọi người. Cũng chính vì cứ lặn hụp trong những cái ao
đó mà cậu bị đau mắt. Trông cậu lúc này thật buồn cười, hai chân đất lúc nào
cũng nhem nhuốc bùn đất. Cái áo sơ mi trắng nhờ giờ nhuộm đầy mực tím cùng với
than gio trông thật bẩn thỉu, cái quần cộc bằng vải chéo go màu đen cứng còng
mà lại rộng tuềnh trông cứ như là đi mượn của ai chứ không phải của mình vậy.
Bên dưới bộ tóc rễ tre cứng quèo là hai con mắt đỏ hoe hoe lúc nào cũng đầy rử
rạp ở hai đầu khoé mắt.
5
Cũng không
biết ông Tân về quê từ lúc nào vì khi về ông lại về nhà ông Khánh trước chứ
cũng không về chỗ con dâu và cháu. Có lẽ ông cũng e nơi con cháu mình ở chỉ là
nơi ở nhờ, ở cậy mà thôi, dẫu sao thì nhà ông Khánh cũng là nhà anh em gần gận
hơn so với nhà của cụ Nhẫm, chú của con dâu. Sau mấy ngày ở chơi cùng anh em họ
hàng và con cháu, ông Tân đưa cậu cùng lên Hà Nội. Khi chia tay chị em bịn rịn
không muốn rời xa, nhất là thằng cháu thì cứ khóc dãy lên đòi đi với chú. Có lẽ
nó tưởng là chú vẫn cõng nó đi chơi như mọi khi nên nó khóc và đòi đi dữ lắm,
nhất là mấy hôm nay nó lại có một ông nào đó luôn bế ẵm và cho nó ăn quà, đặc
biệt là lại rất thương yêu nó, mãi sau cái Tý phải bế nó đi chơi nơi khác để
cho nó tạm quên đi. Cũng từ hôm bố về chị cả mới ít đi làm hơn, ngoài phần thời
gian chợ búa mua sắm thức ăn để lo tiếp đãi ông bố thì chị luẩn quẩn hơn với
cậu em chồng, chị hỏi kỹ hơn về sở thích ăn uống, rồi cả về các việc chơi bời,
học hành của cậu nữa. Chị dặn đi, dặn lại về các việc gì mà chị làm em không
vui thì đừng nói với thầy để thầy khỏi mắng chị. Cậu em cũng chỉ gật đầu thế
thôi vì cậu chả để ý đến việc gì nữa ngoài việc mừng vui khấp khởi là sắp được
về với mẹ.
Sau quãng đường gần mười lăm cây số đi
bằng xe ngựa từ chợ mới Giao Cù qua chợ Chùa rồi lên đến thành phố Nam Định,
hai bố con ông Tân vào bến xe Nam Định để mua vé lên xe. Mọi việc đều do ông bố
làm, cậu con thì chỉ như cái đuôi bám theo ở đằng sau, vậy mà vẫn còn sợ bị
lạc. Vừa lên xe là cậu đã bắt đầu ngủ, một giấc ngủ kéo dài đến mấy giờ liền
trong lòng ông bố. Ngoài trời se lạnh nên sự ấm nóng trong xe thật hợp với giấc
ngủ của trẻ nhỏ, hơn nữa cái sự rung xóc của xe lại cứ như là ai đó đang đưa
nôi nên bất kỳ ai cũng đều như muốn ngủ chứ không riêng gì bọn trẻ con như cậu.
Khi cậu thức dậy thì xe đã lên đến Hà Nội, ông bố đánh thức cậu dậy rồi lại kéo
cậu đi dọc hai con phố đầy dãy các cửa hàng tạp hoá. Có rất nhiều các loại đồ
chơi mà cậu nhìn thấy, nhưng hình như cậu biết bố cậu cũng không có tiền để mua
nên cậu cũng chỉ nhìn vậy để thèm mà thôi. Sau khi ông bố mua cho cậu một cái
bánh chưng ăn cho đỡ đói rồi hai bố con lại lên xe để về nhà. Bắt đầu lên xe bố
đã dặn người phụ xe là cho ông về đến Bia Đổ. Bia Đổ thực chất không phải là
một địa danh mà đúng theo nghĩa đen của nó là tại đó có một cái bia đá hình khối
vuông rất to nằm đổ kềnh ngay đầu con đường rẽ liên tỉnh đi qua huyện Từ Sơn để
rồi đi sâu hơn nữa vào các thôn xã của tỉnh Bắc Ninh. Con đường này đã là con
đường chính từ nhiều năm trước đó cho mãi đến khi có con đường quốc lộ số một
thì nó mới chịu nhường lại chữ chính để nhận mình thành con đường phụ, tuy
nhiên nếu là đối với người đi bộ thì cái tên chính vẫn còn nguyên giá trị. Thế
là cái bia đổ từ chỉ điểm bằng hình ảnh cụ thể đã thành tên gọi quen miệng của
những anh tài xế và các khách đi đường chờ xe. Quãng đường từ bến xe về đến Bia
Đổ rất ngắn chỉ độ non mười cây số là cùng, tuy nhiên tuyến xe thì còn rất dài.
Từ bến khởi đầu là bến Hàng Vôi ngay đầu cầu Long Biên, xe sẽ đi lên tận Vĩnh
Phúc rồi lên đến cả Lào Cai, Yên Bái và còn có thể xa hơn nữa, tuy nhiên hai bố
con ông Tân lại chỉ đi đến Bia Đổ mà thôi. Ngoài cái bia đổ là đặc điểm của lối
rẽ này người ta còn gọi chỗ ấy bằng một cái tên là Vực Gạo, cái tên này chủ yếu là gọi tên một cái
vực ở ngay bên phải của đường rẽ này. Cũng không ai biết Vực Gạo có tự bao giờ,
mà chỉ biết rằng khi mình đẻ ra thì nó đã có rồi. Vực Gạo rộng độ gần hai hecta
và có bề mặt hơi vuông, cũng không rõ từ bao giờ người ta truyền tụng rằng Vực
Gạo thông đến với sông Đuống và còn có thể thông đến tận sông Hồng. Vực Gạo sâu
lắm, nhiều người có hơi dài đã từng ra đến chỗ sâu nhất để lặn xuống thì họ bảo
rằng họ đã lặn hết cả một hơi vẫn không đến đáy, chính vì vậy mà người ta đồn
rằng vực thông với sông Đuống, Sông Hồng. Nhưng có lẽ là họ muốn doạ những
người yếu bóng vía hoặc họ muốn doạ lũ trẻ con để chúng khỏi đi nghịch nước để
tránh bị chết đuối mà thôi. Từ Vực Gạo vào đến làng Đồng Dầu chỉ độ tám trăm
mét nên hai bố con ông Tân lững thững đi bộ để về nhà. Ông Tân thong thả đi
trước còn Hằng thì phải chạy gằn ở đằng sau, vì chân cậu ngắn nên khi bố bước
một bước thì cậu phải bước đến hai, ba bước mới theo kịp nên trông cậu giống
như đang phải chạy gằn. Cũng vì cậu bị đau mắt nên khi còn ở trên xe ông Tân đã
đưa cho cậu đeo cái kính dâm của ông, lúc ngồi trên xe thì kính không tuột do
cậu ngồi hơi ngửa ra, nhưng đến khi xuống xe đứng thẳng lên, thành ra cái kính
cứ tuột ra, cậu vừa chạy gằn vừa phải giơ tay lên giữ kính nên cậu đi càng chậm,
ông Tân lại cứ vừa đi vừa phải đứng chờ. Quãng đường gần một cây số cũng đã làm
cho cậu mệt xoài, vì lâu nay cậu cũng hay chạy nhảy nhưng cũng không mấy khi đi
cả một quãng đường dài liên tục như vậy bao giờ.
Đi bộ mãi rồi hai bố con ông cũng về
đến nhà, người đầu tiên cậu gặp là bà mẹ của cậu, bà đón cậu bằng cách đứng
nhìn chăm chú và chỉ hơi mỉm cười mà không nói gì. Sau khi đã nhìn kỹ cậu từng
tý một bà đến lấy hộ cho cậu cái kính ra khỏi đầu rồi đem cất lên trên mặt cái
hòm thóc. Mãi cho đến lúc này bà mới cất
tiếng nói vừa như phân bua vừa như xác nhận:
- Trông cũng
đã cao hơn thì phải? Có lẽ thế thì số quần áo cũ cũng đã chật rồi!
Ngay lúc đó
bà đưa cậu ra ngoài bể nước mưa rồi lấy khăn ra rửa mặt cho cậu, vừa rửa bà vừa
ca cẩm về cái sự bẩn thỉu và cả cái sự đău mắt của cậu, bà bảo với cậu:
- Chỉ cần dử
của một bên mắt thì hai con lợn xề ăn no, gớm sao mà chị em nhà mày lại chẳng
biết chữa chạy gì xất cả cơ chứ.
6
Bà xuống bếp
đơm cho cậu một bát cơm nguội chan với canh cua mà nhà ăn từ trưa còn lại, cũng
chả biết nhà nấu thế nào mà mới độ hơn tiếng đồng hồ mà đám canh cua nấu với
rau lang đã xanh biêng biếc đến kỳ lạ, trông bát cơm thấy cứ như là cơm bị
nhuộm phẩm xanh, tuy thế nhưng khi ăn vào lại thấy rất ngon, nhất là trong lúc
này cậu đang rất đói, cậu ăn thêm gần hai nưng nữa rồi mới thôi.
Sau khi cơm nước xong cậu mới để ý
thấy nhà mình vắng vẻ quá, quanh đi cũng chỉ có bố, quanh lại cũng chỉ có mẹ
với hai cô em bé tý, xung quanh làng nước đều ở xa cả.Từ ngày chia quả thực bố
không chịu nhận ngôi nhà của ông lý Long vì bố không muốn lấy không của người
khác bất cứ một cái gì, rồi đội cải cách cứ nhất thiết yêu cầu cả nhà ra khỏi
cái điếm để đội lấy làm trụ sở thì nhà đã dọn ra chùa thay chân cho nhà cụ Vá
đã bỏ về quê. Ngôi chùa của làng Đồng Dầu khá rộng và có cách bố trí khá đẹp cả
về kiến trúc nhà lẫn khuôn viên bên ngoài, chùa được thiết kế có kết cấu theo
hình chữ đinh quay về hướng tây, phía trước chùa là một khoảnh sân gạch rộng
gần một sào, tiếp theo là một dẻo vườn chạy dọc theo sân chùa, đây là khoảng
chuyển tiếp để đến một cái ao rộng gần hai sào bắc bộ, ngăn cách giữa ao và
vườn là một bờ tre khá dày ngả ngọn xuống ao trông thật hữu tình. Hai bên chùa
là khu ruộng đến hơn năm sào Bắc Bộ, đây là ruộng riêng của chùa, vẫn gọi là
ruộng nội tự. Phía sau chùa cũng là một khoảnh vườn rộng cũng phải đến hơn mười
thước Bắc Bộ trồng cây ăn quả. Toàn bộ khuôn viên trên được bao phủ bằng một
luỹ tre dằy dặn mà bên ngoài muốn vào cũng không vào được.
Chùa chính có năm gian, gian đầu tiên
bên trái là nơi thờ Đức Ông, tượng của ngài to gần bằng người thật ngồi ngay
ngắn trên ngai, mình ngài mặc áo thụng có nhiều hoạ tiết hoa lá, đầu đội mũ
cánh chuồn màu đen, chân đi hài thêu hoa rực rỡ. Khuôn mặt của ngài mang sắc đỏ
thẫm rất đặc trưng. Toàn bộ khuôn hình của ngài toát ra sự oai phong và trang
nghiêm đến dễ sợ. Gian tiếp theo là nơi đặt bệ thờ tượng vị hộ pháp cao lớn
ngồi trên mình sư tử, đầu chạm mái chùa. Ngài có khuôn mặt trắng và rất hiền,
khuôn mặt của ngài có các nét của người phụ nữ. Một tay ngài giơ lên ngang đầu
và hướng ra phía trước như muốn phô ra một vật gì đó, theo mọi người nói thì
hình như đó là một viên ngọc thì phải. Gian đầu tiên bên phải là tượng một vị
thánh có khuôn mặt màu chì hơi xanh bên dưới khuôn miệng là một bộ râu quai
nón. Tiếp theo về bên trái là tượng Đức Thánh Hiền, ngài cũng có khuôn hình to
gần bằng người thật, ngài có khuôn mặt mang sắc trắng, mình mặc áo thụng vàng
ống rộng, trên đầu đội mũ tỳ lư có đến tám tấm thẻ hình hoa ghép lại, mỗi tấm
trông giống như là một cánh hoa sen, trên đó vẽ nhiều các vân hoa và đường viền
rất đẹp. Toàn bộ khuôn hình của ngài toát ra một nét hiền lành chân thật giống
như một người mẹ. Gian kế bên là nơi đặt tượng vị hộ pháp có khuôn mặt đỏ hồng
râu và lông mày khá rậm cũng cao lớn chạm nóc chùa, cũng ngồi trên mình sư tử, tay ôm một thanh long đao to lớn đang
giơ lên như sắp giáng xuống mình những kẻ nào dám xâm phạm đến mọi thứ trong
chùa. Gian giữa được nới rộng gấp đôi so với các gian khác và được phát triển
về phía sau thành cái chuôi vồ để làm tam bảo. Tam bảo được chia thành ba khuôn
chạy dọc về phía sau, hai bên hẹp độ non một thước đặt tổ hợp tượng nói về tích
Quan Âm Thị Kính ở về bên trái, còn bên phải cũng là một tổ hợp tượng trong đó
có một pho mang dáng hình của nữ nhân. Khoảng giữa được xây giật bậc từ thấp đến
cao, bề mặt của mỗi bậc rộng hẹp tuỳ theo diện tích đáy của các tượng đặt trên
đó. Bậc đầu tiên cao hơn mặt nền gần một mét, trên đó có giàn Cửu Long gồm
tượng của đức phật Thích Ca Mầu Ni để trần mặc xà rông đứng chân trước, chân
sau có vẻ như hơi kiễng chân, người hơi khom về phía trước, tay bắt quyết giơ
lên cao. Cả bức tượng nhỏ như một quả bí xanh con được chế bằng đồng đen nên
mỗi khi đánh sáng ra mầu đỏ rồi lại tự đen ngay sau đó vài phút. Giàn Cửu Long
uốn theo hình cầu vồng, bên trên đó có đến hơn một chục tượng La Hán, có lẽ
cũng làm bằng đồng đen. Bậc tiếp theo là tượng các vị Phán Quan, trên nữa là
Phật Bà Quan Âm nghìn mắt, nghìn tay, hai bên là Thiện Tài Đồng Tử. Trên nữa là
Phật Tổ Như Lai, hai bên Phật Tổ là Anan và Cadiếp. Trên cùng là toà Tam Thế
cùng với các bức tượng, tượng trưng ba kiếp là quá khứ, hiện tại và vị lai. Đa
số các chùa đều có cấu trúc nhà cửa cùng với các tượng na ná giống nhau. Nhưng
có lẽ là tượng chùa Đồng Dầu có nhiều nét thanh tú rất gần với đời thường nên
nhìn rất đẹp. Sát góc ngoài hồi phải có một quả chuông lớn đúc rất đẹp treo
trên quá giang. Trên thành chuông có rất nhiều văn bản bằng chữ nho khắc chìm
trên bốn mặt. Các vú chuông có hình viền bằng các hạt tròn luôn sáng loáng do
thường xuyên dùng vồ để gõ vào. Bên dưới quả chuông là một cỗ ngựa bạch được
đặt trên một giá có bánh xe để tiện cho di chuyển.
Đằng sau chùa là ngôi nhà tổ năm gian
lợp ngói mũi, đây cũng là một ngôi nhà khá lớn so với rất nhiều ngôi nhà dân có
ở trong vùng. Gian giữa là nơi đặt điện thờ thánh mẫu, trên ban có ba pho tượng
mẫu cỡ lớn được che phủ bằng những vuông khăn nhiễu đỏ, ngoài ra còn có rất
nhiều các đồ thờ cúng khác. Bên dưới ban thờ mẫu là nơi thờ công đồng tứ phủ
cùng với tranh ngũ hổ sơn son thếp vàng trên gỗ. Trên quá giang của gian giữa
là đôi thanh xà, bạch xà cuốn quanh mình gỗ. Gian cạnh về bên phải là nơi đặt
các bát hương của con hương đệ tử gửi bán và thờ cúng tại chùa. Gian cạnh bên
trái là nơi thờ tổ, trên ban có tượng của vị tổ trụ trì đầu tiên ở chùa. Hai
đầu hồi nhà là hai gian buồng, buồng bên trái là nơi chứa các loại xoong nồi,
bát đũa, phục vụ cho những khi mở cỗ bàn, tiệc tùng trong các kỳ đại lễ. Còn
gian buồng bên phải được lấy làm nơi ở cho cả gia đình, đó là cái tổ ấm
của bố mẹ và cả ba anh em của Hằng. Giáp
với hồi bên phải là ngôi nhà ngang bốn gian bằng gỗ lợp ngói nối với nhà tổ
thành hình thước thợ, nơi này dùng làm nơi sắp cỗ cho khách thập phương hoặc
con hương, đệ tử ở xa về. Đầu hồi bên
trái có một cái bể nước mưa chứa được
gần mười khối nước dùng làm nước ăn quanh năm. Lùi xuống thêm một chút nữa là
một cái bếp tường đất lợp rạ. Ngoài hai gian dành cho nấu nướng, bếp còn để ra
một gian làm chuồng trâu và chuồng lợn.
Với toàn bộ các kết cấu nói trên làm
cho ta cứ liên tưởng đến một khu trang trại, tuy nhiên đây lại chỉ là nơi cư
trú tạm thời của gia đình Hằng. Tóm lại là gia đình cậu vẫn là gia đình không
có nhà, vẫn phải làm người đi ở nhờ, vô gia cư, cho dù nơi ở hiện nay là một
nơi ở rất tốt đẹp và lý tưởng. Đến một ngày nào đó gia đình cậu sẽ lại phải ra
đường khi mà những người trong làng không còn muốn để cho họ ở đây nữa.Việc từ
chối tất cả những quả thực của đội cải cách chia cho có phải là quyết định đúng
đắn của ông Tân hay không sẽ còn cần phải xem lại về sau này, nhất là quyết
định này đã đi ngược lại với tất cả mọi người lúc bấy giờ.
7
Vào ngày mồng
năm tháng chín dương lịch năm ấy là ngày khai trường cho tất cả các cấp học ở
trên khắp miền Bắc Việt Nam. Ngày khai trường giống như một ngày hội cho tất cả
mọi người. Không riêng gì các em lớn tuổi, các em nhỏ cũng được các bậc cha mẹ
đưa đến trường. Hằng cũng như những đứa trẻ khác được bố đưa đến trường đi học.
Ông Tân cũng không biết con mình học ở mức nào nên ông đưa cậu đến học lớp vỡ
lòng của ông giáo Nguyễn Văn Thiện. Nơi lớp học ông Thiện dạy lại ở ngay ngôi
điếm giữa làng, nơi mà gia đình cậu đã bị đội cải cách đuổi ra hồi cải cách
ruộng đất.
Ngay trong ngày đầu tiên cậu đã bị
thầy Thiện gọi lên sát hạch. Nói là sát hạch cho đúng từ ngữ hồi đó thôi chứ
thực ra chỉ là cuộc thăm dò sức học của học sinh mà thôi. Bài giảng của thầy
Thiện hôm đó nhằm giúp cho học sinh biết cách phân chia vần, cách ghép vần và
cách đánh vần. Bài có vần ia và vần ua, cả bài gồm mấy từ (IA- Chia rẽ mỉa mai - UA) .Tất nhiên là cậu
có thể đọc ngay cả câu một cách ngon lành mà không phải đánh vần như thầy yêu
cầu. Thấy cậu học trò có vẻ khá, thầy Thiện lại muốn khai thác thêm bằng cách
yêu cầu cậu giải nghĩa xem từ đó nói lên cái gì. Đến lúc này thì cậu có vẻ bí, vì cả câu chả nói lên điều gì cả.
Cậu đứng hơi lâu mà vẫn chưa nghĩ ra được cái gì, thế rồi cậu cũng nói bừa đi
cho xong:
- Thưa thầy
đây nói về không đoàn kết ạ!
Thầy ồ lên phấn khởi rồi giải thích
thêm cho học sinh nghe. Thầy nói về ý nghĩa của việc đoàn kết, thầy nói cả việc
toàn dân đoàn kết đánh giặc Pháp thắng lợi bằng các câu chuyện rất là hay, đến
nỗi tất cả học sinh đang mất trật tự là thế mà cũng im phăng phắc để nghe. Vậy
mà không ai ngờ được thầy lại là một nhân viên phòng nhì trong bộ máy của chính
quyền thực dân Pháp. Điều này cho mãi đến năm 1962, nghĩa là sau đó gần sáu năm
thì chính phủ mới cho người đánh xe ô tô về tận sân đình làng đọc lệnh bắt đưa
đi làm mọi người không gì còn ngạc nhiên hơn thế.
Trong thời gian học thầy Thiện, cậu chả
phải lo gì đến việc học vì tất cả chương trình học chỉ nhằm cho học sinh đọc
thông, viết thạo, thì cái việc đó cậu đã qua từ lâu rồi. Lẽ dĩ nhiên là cậu
được thầy hết sức yêu quý vì dẫu sao cậu cũng là con mồi để thầy sử dụng khi cả
lớp gặp bế tắc. Nhiều khi lớp gặp những bài khó đọc, thầy đã gọi đến ba bốn em
mà vẫn chưa có em nào đọc tốt thì đến lúc đó cậu sẽ được gọi lên đọc làm mẫu để
cho không khí lớp học đỡ căng thẳng đồng thời cũng kích thích các học sinh khác
sẽ cố gắng chăm học hơn. Sau một năm học cậu cũng đã lên lớp một với sự đánh
giá tốt của thầy giáo Thiện.
Lên lớp một Hằng vẫn học ở lớp cũ
nhưng là học buổi chiều, thầy giáo mới của lớp một là thầy Nguyễn Huy Chuyên,
thầy là người ở ngay Tiền Thôn, nhà thầy cách lớp học có độ một cây số, hàng
ngày thầy đi bộ tắt qua cánh đồng để xuống lớp học. Thầy Chuyên rất dữ đòn,
thầy dữ đòn không khác cụ trưởng bạ ngày xưa là mấy. Cũng đã có nhiều bậc phụ
huynh phản ảnh với nhà trường về việc này nhưng hầu như thầy cũng không chịu
thay đổi. Hàng ngày thầy không dùng roi
mây nhưng lại dùng một cái thước gỗ bằng lim khá dài vừa để làm cây chỉ vào các
chữ cho học sinh đọc bài, vừa để gõ xuống bàn làm hiệu lệnh yêu cầu học sinh
trật tự, đến khi phạt học sinh thì cây thước trở thành một cái roi rất lợi hại.
Thầy Chuyên cũng khá thân với cha mẹ
cậu nên ông cũng không mấy khi động đến cậuT, nhưng cái chính là cậu cũng ít
khi mắc lỗi, bài học thì không còn phải nói gì hơn vì mọi nội dung trên lớp cậu
đều hoàn tất và vẫn giữ được phong độ như khi còn học ở lớp vỡ lòng. Thời gian
học ở lớp một cũng qua đi nhanh chóng và sang đến năm 1958 thì cậu đã lên học lớp hai. Mỗi ngày đi dạy học thầy
Chuyên thường đi sớm hơn bình thường để vào nói chuyện với ông Tân trước khi
đến lớp. Câu chuyện của hai người mỗi ngày cũng chỉ xoay quanh về thơ phú chữ
Hán và vài ba câu chuyện về làng xóm cùng một vài quan niệm về văn phong, lễ
giáo v v... Hình như hai ông có hẹn nhau từ trước nên khi thầy Chuyên xuống đến
nơi thì ông Tân đã đun sẵn nước và pha xong ấm trà hiệu Chính Thái ướp hoa sói,
đến khi uống tàn ấm trà thì cũng vừa lúc thầy đi đến lớp giảng bài. Cũng có
nhiều hôm do mải đàm đạo mà thầy cũng đến hơi muộn, nhiều bạn xôn xao định bỏ
về nhưng Hằng đã tiết lộ là thầy đã đến rồi nên các bạn ở lại chờ. Sang đầu năm
học lớp hai cậu học kém hẳn đi vì hồi này cha cậu ốm khá nặng, nhiều hôm cậu
phải nghỉ học để ở nhà để giúp bố một số việc sinh hoạt hàng ngày. Thầy Chuyên
hồi này cũng ít qua lại uống trà vì thầy cũng bận nhiều việc, nhất là từ khi
thầy lấy người vợ thứ hai này về lo quán xuyến việc nhà thay cho bà cả mất đã
lâu.
8
Việc học tập
của Hằng đang có những tiến bộ thì lại không thể tiếp tục vì ông Tân ốm ngày
càng nặng thêm lên, thế là Hằng phải nghỉ học để ở nhà trông nom bố cho mẹ ra
đồng. Đến gần tết âm lịch năm 1960 thì ông cụ yếu đi nhiều, nhưng sau một thời
gian chạy chữa thuốc men cùng nơi, khắp chốn ông cụ có khoẻ trở lại nhưng lại
bị mất tiếng. Hàng ngày ông lại mở giấy bút ra để làm giấy sớ cho các con hương,
đệ tử chuẩn bị cho kỳ khai xuân vào ngày mồng chín tháng giêng năm mới. Rất
nhiều công việc cần sai phái nhưng cô con gái bé quá lại mải chơi nên ông Tân
không gọi được chính vì vậy nên rất cần có người ở liền ngay bên cạnh để có thể
ghé tai sát gần miệng nghe ông sai bảo.Thế là cậu lại phải bỏ học lần thứ ba
trong quãng đời học sinh ngắn ngủi của mình để ở nhà giúp bố, có lẽ số phận đã
xui khiến như vậy.
Tết canh tý
năm 1960 chầm chậm qua đi trong không khí nặng nề và buồn. Ngay từ những ngày
trước tết cậu đã không được đi chơi đâu xa vì còn phải ở nhà giúp bố các công
việc dọn dẹp, bài trí tất cả các nơi thờ cúng trong chùa. Từ việc quét dọn toàn
bộ khuôn viên cả chùa đến việc lau chùi các ban bệ, bao sái các pho tượng và
các đồ thờ cả từ trên tam bảo đến phủ
mẫu cũng hết mấy ngày. Thế rồi thay chân hương, thay nước, thay hoa ở khắp mọi
nơi, mọi chỗ cũng mất khá là thời gian.Từ chiều ba mươi đến hết ngày mồng ba
tết, tất cả những người đi lễ chùa đều đến nhận sớ rồi tự mang lên tam bảo dâng
lễ rồi lại tự mang sớ ra sân chùa để hoá.
Ngày
mồng chín tháng giêng đến rồi mà ông Tân vẫn bị mất tiếng chắc chắn là ông
không có thể hoàn thành khoá lễ đầu năm được, trong lúc không thể tìm đâu ra
người thay thế ông đành cố vận động con mạnh dạn đứng ra làm lễ thay mình.
Trong mấy năm qua cậu có đọc thông viết thạo nhưng chỉ là đối với loại chữ quốc
ngữ thôi chứ còn với loại chữ nho thì cậu chả biết một tý gì. Ông Tân liền đưa
cho cậu một quyển kinh bằng chữ quốc ngữ và bảo cậu đọc thử, cậu đọc rất nhanh
nhưng nó dõng dạc quá và chẳng ra thế nào cả. Ông Tân vẫn bắt cậu tập đi tập
lại đến mấy lần, mỗi lần ông bắt cậu đọc lại nét mặt ông nghiêm đến lạnh lùng
làm cho Hằng cũng hoảng. Cậu nghĩ có lẽ lần này nếu cậu không làm được chắc ông
cụ sẽ cho mấy gậy chứ chẳng chơi, mặc dù từ khi bé đến lúc đó cậu chưa hề bị
ông đánh lần nào. Cũng có lẽ chưa bao giờ bị đánh đòn nên cậu rất giát đòn, mặc
dù cái sự miễn cưỡng đến khổ sở cậu vẫn đành phải có tập, cuối cùng thì cậu
cũng đã đọc tương đối giống ông bố của cậu.
Thế rồi ngày
mở khoá lễ khai xuân cũng đã đến, cả hai bố con ông Tân cùng ngồi trên sàn lễ,
ông Tân thì gõ mõ còn Hằng thì đọc kinh thay cho ông trong một quyển sách in
bằng chữ quốc ngữ. Nhiều người khi nghe cậu đọc kinh thì cứ tấm tắc khen có
giọng đọc nghe thật êm dịu, duy chỉ mỗi việc là cậu không đọc được các bản sớ
bằng chữ nho nên các con hương đệ tử
chưa được vừa ý lắm. Lần đầu tiên ngồi trên sàn lễ lại ngay trước mặt
rất nhiều các cụ cao tuổi cậu run lắm, nhiều lúc tưởng như bị hụt hơi không đọc
được nữa. Do cậu cũng chưa quen với việc kéo dài giọng ở những từ cuối và các
đoạn nghỉ lấy hơi không được đúng chỗ thành ra nhiều cụm từ cũng bị cắt rời ra
không còn liền mạch. Cũng may những câu kinh viết theo từ Hán nên khi đọc lên
người nghe chỉ thấy âm thanh đều đều như nhau, còn về ý nghĩa thì cả người đọc
lẫn người nghe cũng chẳng hiểu gì, có lẽ vì thế nên chả có cụ nào có phản ứng
cả. Sau khi đọc tên các lá sớ của từng gia đình xong thì cậu được rút lui khỏi
sàn lễ, thật là một phen hú vía. Những ngày sau đó ông Tân vẫn tiếp tục bắt
cậu lên làm lễ vào các buổi chiều. Mỗi
buổi cậu lại phải đọc một bản kinh vẫn bằng cái giọng kéo dài nghe chẳng rõ
tiếng nào vào với tiếng nào. Những hôm ông Tân mệt mỏi không giám sát là Hằng chỉ thắp hương nhanh
nhanh, chóng chóng cho xong rồi lẩn ra phía cổng để vào trong làng chơi với lũ
bạn cùng tuổi.
Từ sau những
ngày tết sức khoẻ ông Tân ngày càng giảm sút, sự đi lại cũng chỉ loanh quanh
trong nhà mà không ra khỏi cổng chùa. Nhiều việc sinh hoạt cá nhân đã thấy cần
phải có người giúp đỡ mới hoàn thành, thế là cậu lại phải nghỉ học ở nhà giúp
bố. Ban đầu tưởng cũng chỉ mươi ngày là cụ Tân sẽ khỏi không ai ngờ được cũng
từ ngày đó cụ cứ suy yếu dần cho đến khi cụ mất.
Phải nghỉ học
để ở nhà trông bố ốm là việc rất cần phải làm, không những thế còn cần phải tự
nguyện một cách hết mình mới thể hiện là một người con có hiếu, giống như lời
răn dạy của các thầy giáo thường ngày trên lớp. Cho dù là vậy nhưng đó là đối
với những người đã lớn, còn đối với các cô cậu nhóc con thì dù có nói thế nào
thì cái sự ham chơi, ham tụ tập cùng với chúng bạn vẫn luôn lôi kéo và cuốn hút
không gì cưỡng lại được. Ngoài cái sự chơi bời còn cái sự học của cậu cũng đang
có nhiều điều tốt đẹp, trong khi cậu rất vui vì được thầy yêu, bạn mến vì cậu
học khá mà lại hay giúp đỡ bạn bè nên cái việc phải bỏ học làm cho cậu buồn hơn
cả việc không được đi chơi. Thế là lại một lần nữa Hằng lại phải bỏ học khi
chưa qua hết học kỳ một của lớp hai trường phổ thông.
Sau ngày bố
mất, nhà còn không biết bao nhiêu là chuyện sảy ra đang cần phải giải quyết.
Nào là chuyện nợ nần chồng chất của mẹ trong khi vay mượn để thuốc men cho bố
trong suốt hai năm vừa qua. Mãi sau này mẹ kể lại cậu mới biết số nợ lúc đó
phải trả trong suốt bẩy năm mới hết, cậu không ngờ số nợ lại lớn đến như vậy.
Sau việc nợ lại đến việc làng muốn nhà cậu phải rời đi để làng đón sư về trông
coi chùa cho làng, chả là vì việc cúng lễ mẹ cậu không làm bao giờ còn cậu thì
bé quá, cậu không thể đảm đương được. Thật là những việc tày trời cả, những
việc không thể đừng được nữa, những việc dường như quá lớn đối với một gia đình
của một người đàn bà goá cùng với những đứa trẻ hết sức ngây thơ. Có lẽ những
con người nhỏ bé kia sẽ không vượt qua được mất nếu như họ không gặp được những
điều may mắn mà số phận đã giành cho.
Ngày làng đón
nhà sư nữ Đàm Thuỷ về chùa thì mẹ con Hằng vẫn chưa tìm được nơi cư trú. Sau
mấy ngày đi vắng vào mãi tận Quan Đình, Quan Độ để thăm hỏi, tìm kiếm vẫn chưa
có kết quả, bà mẹ Hằng đành quay trở nhà
để tìm cách khác. Khi về đến nhà thì bà mới biết nhà sư mới làng đón đã về chùa
rồi. Sau một hồi gặp gỡ, bà cũng nói qua cho nhà sư biết về hoàn cảnh của mình,
rồi bà hứa sẽ cố gắng chuyển đi trong thời gian ngắn nhất. Có lẽ lúc ấy bà cũng
cứ nói phóng vậy thôi chứ kỳ thực bà cũng chưa biết tính thế nào. Mãi đến chiều
hôm đó thì nhà sư mới gọi bà ra để nói về quyết định của sư về việc đồng ý cho
gia đình bà cùng ở lại chùa cho đỡ vắng vẻ. Chỉ có điều là số ruộng trong khu
nội tự được tính vào số ruộng mà đội cải cách chia cho thì gia đình phải nhượng
lại một phần cho sư canh tác để lấy lương thực và giành một phần cho sắm sửa
hương đèn. Đang lúc khó khăn về nơi ở mà lại có được điều này thì đó là sự đáng
mừng không còn gì hơn được. Sau chuyện nhà ở là đến chuyện nợ nần, chuyện này
còn nan giải hơn nữa vì nhà cậu đã ở vào trạng thái nghèo túng đến mức chẳng có
gì có thể bán được lấy dăm chục bạc. Không biết sẽ giải quyết việc này ra sao
nếu như bà Thơ Bẩy có ý đòi các khoản nợ mà mẹ cậu vay mượn trong suốt thời
gian vừa qua.
Nói về bà Thơ
Bẩy trước hết phải kể về mối quan hệ của bố Hằng với ông Thơ Bẩy cách đó mười
mấy năm về trước. Ngày ấy Hà Nội và một phần của tỉnh Bắc Ninh vẫn nằm trong
vùng tạm chiếm của quân Pháp, chính quyền của làng xã vẫn theo cách sắp đặt của
chính quyền phong kiến, nghĩa là việc quản lý làng xã vẫn do lý trưởng cùng với
các ông chánh phó hội cùng với các chức dịch đảm trách. Bên cạnh đó là các bộ
phận chuyên môn như trưởng bạ, thơ ký làm các công việc về giấy tờ văn tự, khế
ước vv… Các công việc giấy tờ này ông Thơ Bẩy vẫn thường nhờ ông Tân phụ giúp
mỗi khi cần phải trình lên bề trên vào các dịp cuối năm hoặc cuối các kỳ phu
phen thuế khoá. Ngoài các công việc về tính toán, ghi chép sổ sách, ông Tân lại
khá thông thuộc các thuật dự đoán về vận mệnh thông qua tứ trụ và bốc quẻ dịch
nên khi xong công việc hai ông thường ngồi bàn nhau về lẽ thuận nghịch của trời
đất, số mệnh của xã hội cũng như của bản
thân mỗi người. Trước đó ông Tân đã dự đoán về đứa con sắp sửa chào đời của ông
là trai, đến khi bà vợ của ông đã sinh ra một cậu con trai vừa trắng trẻo vừa
bụ bẫm thì ông càng tin tưởng. Cũng từ đấy mối quan hệ của hai ông càng thân
mật hơn và lẽ đương nhiên là có sự quan hệ gần gũi hơn của hai bà vợ, sau khi
ông Thơ Bẩy mất đi, mối quan hệ có thưa đi một chút nhưng cũng không phải là
hoàn toàn mất hẳn.
Trong những
năm giảm tô, cải cách nhà bà Mỹ, vợ ông Thơ Bẩy bị đội cải cách quy thành địa
chủ. cũng từ đó gia đình bà luôn bị giám sát và bị cách ly ra khỏi cộng đồng,
mọi người trong gia đình bà luôn sống cô đơn trong sự ghẻ lạnh của tất cả mọi
người trong họ, ngoài làng. Kể ra mà nói thì chưa hẳn mọi người đã muốn xa lánh
gia đình nhà bà, mà chủ yếu là sợ đội ghép cho tội thông đồng với địa chủ để
rồi chuyển thành tội phạm phản dân, hại nước nên chẳng dám gần. Biết đâu họ chả
lại vu cho là địch để rồi đem đi bắn thì khốn. Cả làng lúc ấy chỉ còn ông bà
Tân là dám đi lại với bà Mỹ bởi vì ông bà Tân là những người quá bần cùng trong
suốt cả một thời gian dài, cái sự bần cùng đã có lúc làm cho ông bà Tân không
còn cảm nhận ra sống tốt hơn hay là chết tốt hơn nữa, cũng chính vì vậy mà ông
bà không còn biết sợ đội là gì nữa, nhất
là sau khi đội không cho ông Tân vào Nông hội, khi ông không nghe theo lời đội
tố ông Tổng Tường là một địa chủ ở ngay gần nhà ông.
Chính từ mối
giao cảm ấy mà sau này bà Mỹ đã đối tốt trở lại với bà Sâm và giúp bà một cách
vô tư đến thế. Ngoài bà Mỹ ra bà Sâm còn nhờ cậy được rất nhiều người khác
trong làng nữa nên số nợ bà vay khi ông Tân ốm đã được hoãn, trả, vay rồi lại
hoãn, trả, vay cho đến khi trả hết kéo dài đến gần bẩy năm liền mà chẳng ai có
điều tiếng gì.
9
Mặc dù nhà
chùa đã có lời như vậy nhưng hai mẹ con cậu vẫn muốn tìm cách để sớm có điều
kiện mua được ngôi nhà cho mình, trả lại gian buồng bấy lâu nhà chùa vẫn cho ở
nhờ. Trong một lần toàn xã có chủ trương cấp đất ở cho một số hộ đông con, Hằng
đã cùng với mẹ lên gặp ban lãnh đạo của thôn để xin đất làm nhà. Kỳ họp năm ấy
ban lãnh đạo của xã kết hợp với thôn đã chia đất cho rất nhiều người, mẹ con bà
Sâm cũng được chia mười thước đất để làm nhà ở. Có đất cũng đã là rất đáng mừng,
nhưng mà còn lấy cái gì để mà dựng thành nhà mới là khó.
Trong những
năm đầu ra ở chùa ông Tân đã cùng các con trồng một lứa xoan có dễ đến hai chục
cây nhằm để sau này đốn xuống đem ngâm để làm nhà. Đến khi có đất bà Sâm định
cho đốn xuống đem ngâm thì ban lãnh đạo của làng ra giữ lại. Sau khi nghe mẹ
con bà Sâm trình bày về dự định trồng xoan và cố chứng minh về việc trồng xoan
là do gia đình của bà thực hiện cùng những chứng thực của nhiều người nhưng
những người lãnh đạo vẫn kiên quyết không chấp thuận. Họ ngang nhiên thừa nhận
rằng họ có biết số xoan này là của ông bà trồng nhưng là trồng trên đất của
làng nên bà không được lấy. Trước những phán quyết hết sức cứng rắn của các
ngài chức sắc thời mới của làng, mẹ con bà Sâm đành ngậm bồ hòn làm ngọt. Thế
là kế hoạch làm nhà của gia đình Hằng đã hoàn toàn phá sản. Cái sự vui mừng bao
nhiêu khi được cấp đất đã được thay bằng nỗi tuyệt vọng bấy nhiêu khi triển
khai kế hoạch làm nhà.
Tuy rằng
không làm được nhà nhưng việc phải rời chùa luôn canh cánh trong lòng Hằng.
Nhiều lần Hằng cằn nhằn với mẹ khi thấy bà cụ hình như không đả động gì đến
việc rời chùa. Ngày ấy có một đôi vợ chồng người con cả của ông lý Xương tên là
Long vừa mới xây lại nhà nhưng chưa ở được bao lâu thì anh Long lăn ra chết.
Người vợ bồng bế hai con về quê mẹ đẻ bỏ lại cho người em chồng ngôi nhà vừa
mới xây xong còn chưa sạch mùi vôi. Người em ấy không ai khác lại chính là anh Phượng,
người mà một thời bà Sâm đã từng làm vú nuôi trông nom anh khi bà đến làm vú
cho nhà ông lý Xương. Tuy làm vú nuôi nhưng bà Sâm coi anh Phượng như con của
mình nên ngay cả khi anh Phượng đã lớn tuổi rồi anh vẫn luôn quý mến bà cụ như
người ruột thịt, đến khi bà Sâm ngỏ ý đến ở nhờ là anh đồng ý ngay. Ngày hôm
sau anh Phượng dọn sang nhà của người anh để ở, gian nhà cũ của anh cũng kề bên
cạnh anh nhường lại để bà Sâm dọn vào. Cũng từ ngày ấy gia đình Hằng không còn
ở chùa nữa, tuy nhiên gia đình Hằng vẫn là người chưa có nhà, một gia đình có
hoàn cảnh đặc biệt ở nông thôn lúc bấy giờ...
ĐI HỌC
1
Sau ngày ông
Tân mất một thời gian thì cũng đã gần hết năm học đối với các trường phổ thông,
thế là Hằng đành phải bỏ dở hơn nửa năm học, chả biết rồi khi sang năm mới cậu
sẽ đi học như thế nào. Ngày ấy anh cả vừa mới từ bộ đội chuyển ngành về Công ty
xây dựng của Bộ nội thương, đơn vị của anh đóng ở khu Sở Dầu thành phố Hải
Phòng khu này rất gần khu ga Thượng Lý. Công việc hàng ngày của anh là cùng với
các công nhân khác vào sở dầu để xây lắp các bồn dầu bằng thép.
Suốt trong
mấy ngày về nhà lo việc tang lễ xong anh cả lại về đơn vị công tác. Gần hai
tuần sau đó anh mới lại lên bàn với mẹ kế về việc đưa cậu em xuống ở với anh
một thời gian. Việc cho cậu xuống với anh có nhẽ là để cho cậu đỡ buồn và cũng
để hai anh em có dịp gần gũi nhauS, để rồi cùng bàn kế hoạch ổn định đời sống
gia đình trong thời gian tới. Thế rồi Hằng đi cùng với anh cả xuống Hải Phòng
gần ba tháng trời rong chơi khắp nơi trên thành phố cảng. Khi Hằng rời Hải
Phòng về đến nhà cũng vừa dịp bước vào năm học mới nhưng cậu không thể đi học
cùng các bạn cùng lớp cũ vì cậu đã bỏ học thời gian quá dài, chắc gì cậu đã
theo được, nhưng điều quan trọng hơn cả là không ai có quyền cho cậu học tắt.
Thấy cậu con trai hình như có ý không chịu đi học nữa bà Sâm đành vào gặp thầy
giáo Chuyên để nhờ thầy động viên cậu đi học tiếp. Thầy Chuyên vốn có mối quan
hệ tốt với gia đình cậu từ trước nên ông đã ra tận nhà động viên cậu tiếp tục
đi học. Ông hứa sẽ nói với nhà trường về hoàn cảnh cùng với học lực của cậu để nhà trường xem
xét chấp nhận cho cậu cùng lên học ở lớp ba như các bạn khác. Ông nói lớp ba
của cậu sẽ học là do ông Bàng trực tiếp dạy, ông Bàng lại là ông chú của thầy
nên thầy sẽ nói để ông nhận cậu vào. Sáng hôm sau cậu cũng chuẩn bị sách vở đến
lớp như các bạn khác nhưng trong bụng thì luôn lo lắng không biết đến lúc vào
lớp thì sự việc sẽ diễn ra làm sao.
Lớp ba mà
Hằng sẽ theo học được bố trí tại góc bên trái của đình làng Tiền Thôn như lời
của thầy Chuyên nói nhưng không phải do thầy Bàng dạy mà lại do một thầy giáo
mới chuyển từ nơi khác về từ mấy ngày trước đó. Tất cả các bạn đã tập trung đến
lớp sớm hơn mọi khi, trong đó có cả Hằng. Mọi người lại tổ chức các trò chơi
như mọi ngày kể cả khi ở làng cũng như khi đến lớp của năm học trước, chỉ có
mình Hằng thì rất lo, nhất là khi thấy thầy giáo dạy lớp này không phải là thầy
Bàng. Cậu cứ nghĩ không biết thầy Chuyên có biết điều này không, ngộ nhỡ thầy
giáo mới hỏi đến thì mình sẽ nói ra sao nhỉ. Càng nghĩ cậu càng lo lắng, lo
lắng đến nỗi bồn chồn đứng ngồi không yên, lo lắng đến ngao ngán cả người. Có
lẽ linh tính của cậu đã đúng về sự việc mà cậu vừa nghĩ tới và rồi sự việc ấy
đã sảy ra. Sau khi thầy giáo vẫy tay gọi các học sinh về để tập trung, thầy đọc
lần lượt danh sách học sinh của lớp, thầy đọc qua gần hết số học sinh có tên
với các chữ cái ở vần Đ rồi sang các vần khác, Hằng nghĩ có lẽ sắp tới sẽ có
tên mình. Thế rồi thầy chuyển qua hết vần có tên của Hằng mà cũng không thấy,
Hằng lại nghĩ có lẽ việc mình nghĩ đến vừa rồi chả lẽ lại đúng như thế chăng,
hay là tên mình sẽ ở cuối cùng vì đây là trường hợp đặc biệt được bổ sung vào
sau. Hằng đang nghĩ ngợi lan man thì thầy Hiệu đã đọc đến tên học sinh cuối
cùng của lớp. Khi thầy rời mắt khỏi quyển sổ điểm ngước lên thì thầy nhận ra
vẫn còn một học sinh nữa chưa vào chỗ ngồi, thầy hơi bối rối, có lẽ thầy cho là mình đọc sót tên một ai đó,
thầy xin lỗi sau đó thầy hỏi:
- Em tên là
gì?
Hằng lý nhí
trong miệng nói tên của mình raH, thầy lại cúi mặt vào sổ điểm để tìm tên của
cậu, thầy tìm đi, tìm lại nhưng vẫn không thấy, trông rõ là thầy rất băn khoăn
chưa biết là sẽ sử lý trường hợp này ra sao. Kể từ khi Hằng biết mình không có
tên trong sổ điểm Hằng đã nghĩ đến việc thầy Chuyên có khi đã quên không nói
việc này với thầy Bàng, hoặc giả thầy Bàng chuyển giao lớp cho thầy Hiệu lại
quên không nói về trường hợp của mình nên đến bây giờ sự thể đã sảy ra như vậy,
tuy nhiên lúc ấy Hằng đâu có nghĩ được mạch lạc như thế. Phần thì lo lắng, phần
thì xấu hổ với bạn bè, mặt thì đỏ gay, đỏ gắt, tay chân thì luống cuống không
biết để vào đâu, cậu gần như phát khóc lên được khi chỉ còn có một mình đứng ở
ngoài hàng. Có lẽ phải đến ba, bốn phút sau cậu mới trấn tĩnh lại được, lúc này
cậu lo nhất là thầy sẽ cho là mình là người gian trá, còn việc có học hay không
đã không còn là chuyện quan trọng nữa vì dù sao cậu đã quyết định nghỉ học rồi,
chẳng qua việc cậu lên nhập học hôm nay là do thầy Chuyên bàn ra và bảo cậu làm
chứ cậu có tự nhiên để lên đây rồi lại chịu xấu hổ như thế này đâu. Sau khi tự
tìm cho mình một lý do mà cậu cho là chính đáng thì cậu mạnh dạn hẳn lên và cậu
quyết định nói hết tất cả cho thầy Hiệu về sự việc mà thầy thấy lạ như vừa rồi.
Sau khi nghe Hằng nói một thôi những câu đứt quãng thì thầy Hiệu cũng vỡ lẽ được
phần nào, thế rồi thầy Hiệu nhanh chóng quyết định nhận Hằng vào Lớp. Thầy
chuyển một bạn ở bàn đầu xuống cuối lớp để xếp cho Hằng ngồi ngay vào chỗ đó.
Vừa xếp vị trí cho Hằng thầy vừa nói với Hằng và dường như thầy cũng nói với cả
lớp:
- Trước hết em
cứ học buổi hôm nay, ngày mai tôi sẽ trao đổi lại với các thầy rồi sẽ sắp đặt
lại sau.
Sau khi phát
biểu với học sinh về việc thầy vừa chuyển về dạy ở trường và nói thêm về lý do
tại sao thầy Bàng sẽ không dạy ở lớp này như sự mong muốn của các phụ huynh đề
nghị hồi cuối năm ngoái vì thầy Bàng còn phải đi chữa bệnh mất một thời gian.
Tiếp theo sau các phát biểu của thầy là một chương trình ôn tập kiến thức năm
cũ, thầy nhắc lại một số nội dung đã học năm ngoái sau đó thầy kiểm tra. Người
được thầy gọi lên bảng đầu tiên là Hằng, thầy ra một đề toán đố sau đó bảo Hằng
giải, thầy còn yêu cầu viết cả phép tính lẫn lời giải. Lúc nãy mất bình tĩnh
bao nhiêu thì giờ đây cậu lại bình tĩnh bấy nhiêu, các phép tính và lời giải
được Hằng viết ra một cách nắn nót trông đến đẹp làm thầy Hiệu rất hài lòng,
thầy cất giọng hỏi:
- Tất cả các
em đều có đáp số như thế chứ?
Cả lớp đồng
thanh cất tiếng (có) âm vang khắp cả một góc đình. Thầy tiếp tục kiểm tra một
số bạn khác, cũng có bạn không làm được nhưng rồi lại có bạn xung phong lên làm
thay cuối cùng đều giải xong các bài tập thầy ra. Buổi học qua đi nhanh chóng
và chẳng để lại điều gì vướng bận, chỉ có mỗi mình Hằng lại phải lo nghĩ trên
suốt chặng đường về. Ngay chiều hôm ấy Hằng nói với mẹ về ý định nghỉ học của
mình với sự quyết đoán đến không ngờ. Nhìn sắc mặt con bà mẹ không khỏi lo lắng,
không biết có việc gì đã làm cho nó bất mãn đến vậy. Có lẽ câu chuyện buổi sớm
nay đã làm cậu tổn thương quá lớn về lòng tự trọng của mình nên sau khi nói
xong với mẹ là cậu bỏ đi chơi ngay mà không có vẻ muốn giải thích gì thêm. Biết
tính con bà từ khi còn nhỏ nên bà không khỏi băn khoăn, bà đoán mãi mà vẫn
không biết lý do ra làm sao, bà nghĩ có lẽ phải hỏi lũ bạn nó thì mới tìm ra
được nguyên nhân của việc này. Thế rồi bà cũng tìm ra nguyên nhân của sự việc,
bà liền vào gặp thầy Chuyên để hỏi xem có cách gì giải quyết được không. Cũng
may là hồi này thầy Chuyên dạy vào buổi chiều nên bà vào gặp được ngay. Sau khi
nghe bà nói lại sự việc thầy Chuyên mới giật mình nhớ ra, thầy dặn buổi chiều
thầy sẽ rẽ qua chỗ hội đồng nhà trường để nói lại với thầy hiệu trưởng, ông còn
dặn bà về bảo ngày mai nó cứ đến lớp kẻo các thầy phiền lòng. Ông còn bảo với
bà rằng ông đã nói với thầy hiệu trưởng và thầy đã đồng ý rồi chắc vì thay giáo
viên nên mới xảy ra việc vừa rồi bà bảo nó cứ yên tâm mà đi học. Chiều tối về
nhà cậu nghe mẹ nói vậy cũng vẫn bán tín bán nghi, tuy nhiên cậu vẫn làm hết
các bài tập để ngày mai đến lớp.
Vừa bắt đầu
vào lớp thầy Hiệu liền điểm danh, khi đọc đến tên của Hằng ở dòng cuối của sổ
điểm thầy thông báo với cả lớp về sự việc của Hằng hôm qua, thầy nói:
- Trong lớp
ta có thêm bạn Hằng nữa là có tất cả sáu mươi học sinh. Bạn Hằng không có học
bạ nên danh sách các thầy chưa kịp đưa vào, lớp có hơi đông các em cố gắng tập
trung nghe giảng hôm sau nhà trường sẽ sắp xếp lại.
Ngay sau
thông báo cho cả lớp thầy Hiệu quay sang nói với Hằng:
-Tối qua thầy
Trường hiệu trưởng đã trao đổi với thầy về việc này, Hằng cứ đi học bình thường
cùng các bạn, trường hợp không theo được thì sẽ chuyển lớp sau.
Buổi học thứ
hai bắt đầu bằng việc kiểm tra vở bài tập ở nhà của một số các bạn, người phải
mang vở lên đầu tiên vẫn là Hằng. Thầy xem vở của Hằng khá kỹ, sau đó mới xem
đến vở của các bạn khác, xem xong thầy bảo với cả lớp:
- Số bài tập
thầy cho các em về nhà làm không khó mà lại nằm ở ngay trong sách giáo khoa vậy
mà các em làm sai cả. Trong bốn em chỉ có Hằng làm hết và làm đúng cả số bài ra,
còn lại hầu như các em làm thiếu và lại sai hết cả.
Sau khi thầy
ghi chép vào các quyển vở của các bạn xong thầy ngửng đầu lên và cất tiềng gọi:
- Em Hằng lên
bảng, em giải bài số hai cho cả lớp tham khảo, các em nhớ ghi lại bài này, số
bài còn lại hôm sau thầy sẽ chữa.
Hằng lại lên
bảng để chữa bài tập như hôm trước, cậu viết nắn nót hơn và trình bầy rất gọn
gàng cả vế làm tính lẫn vế lời giải. sau khi viết xong bài giải lên bảng thầy
vẫy Hằng lại đưa cho số vở thầy vừa thu để kiểm tra lúc đầu giờ, thầy bảo:
- Em trả lại
sách cho các bạn chép bài.
Về đến chỗ
ngồi Hằng mới giở vở ra xem, một hàng chữ viết bên lề vở cứ đỏ rực lên – (Làm
bài tốt, cần cố gắng hơn) Trên mỗi đáp số thầy viết một chữ (Đ) trông như những
trái đào đỏ bao trùm lên trên những con số viết bằng mực tím. Cũng ở bên lề
trái của cuốn vở, chỗ bài tập số hai thầy viết con số mười rõ to, dưới con số
là một cái gạch dài kéo gần hết một phần tư chiều rộng cuốn vở.
Hằng vui lắm
với con số mười đầu tiên của năm học và cũng là con số mười đầu tiên của cả
lớp. Từ đấy trở đi hình như Hằng đã quên đi cái sự đã làm cậu buồn bã suốt hai
ngày qua, cậu lại vui chơi ồn ào cùng các bạn như những ngày nào. Từ sau ngày
phải nghỉ học ở nhà trông nom bố trong hơn sáu tháng qua hình như đây là lần
đầu tiên cậu bỏ được khuôn mặt rầu rĩ để trở lại khuôn mặt rạng rỡ thông minh
vốn có.
2
Những năm học
lớp ba cũng qua đi nhanh chóng, trong lòng của Hằng không để lại một chút ấn
tượng nào về sự việc diễn ra hồi đầu năm học. Kết quả của chín tháng học với
bẩy lần lên bảng danh dự đã làm cho các thầy có liên quan đến câu chuyện đặc biệt
của Hằng thở phào nhẹ nhõm. Trong kỳ phát phần thưởng cuối năm học Hằng thật
vui khi lên nhận những quyển vở bìa đỏ mới tinh thơm mùi giấy mà thầy hiệu
trưởng trao cho. Cũng trong năm học ấy Hằng được các anh phụ trách thiếu niên
kết nạp vào Đội TNTP của trường. Ngoài việc sinh hoạt ở Đội TNTP của trường
Hằng còn sinh hoạt ở Đội TNTP ở làng và cũng được các anh phụ trách rất yêu mến
và giao cho rất nhiều công tác. Hàng ngày sau các buổi học về Hằng lại đi chăn
bò cùng các bạn, buổi tối thì tham gia sinh hoạt văn nghệ của Đội thiếu niên ở
trong thôn. Anh Thỏ phụ trách thiếu niên là người rất yêu văn nghệ, anh có chân
trong đội tuồng cổ của làng, anh thường đóng các vai kép nhỏ trong các vở. Hình
như máu nghệ sĩ trong anh đã cuốn hút rất mạnh bọn trẻ trong Đội thiếu niên,
nhất là những cậu bé cũng ham thích ca hát như Hằng. Suốt cả mùa hè năm ấy Hằng
ít khi ở nhà bởi những cuộc vui trang lứa và các cuộc văn nghệ liên miên không
khi nào dứt. Hầu như các đêm khuya sau khi sinh hoạt xong Hằng ngủ ở nhà bạn mà
không về nhà. Sau mấy lần thấy Hằng đi vắng mẹ cũng đi tìm, đến khi thấy Hằng
ngủ ở nhà bạn mà không có chuyện gì sảy ra thì bà cũng yên tâm mặc cho Hằng
muốn ở đâu thì ở. Có lẽ phải đến hơn một năm Hằng chuyên ngủ ở nhà Bộ, về sau
Hằng còn ngủ ở nhà Quỳnh và nhà Đĩnh, đấy là nói chuyện của những năm sau này.
Bạn bè của Hằng không chỉ có những đứa cùng học một lớp mà còn cả những đứa ở
làng lớn hơn một chút như Quỳnh và cả những đứa cùng tuổi nhưng không cùng học
một trường như Bộ, ngoài ra còn cả bọn ít tuổi hơn vài tuổi cũng bị cuốn hút
vào cái guồng máy mê chơi và nghịch ngợm. Nói là mê chơi và nghịch ngợm vậy
thôi chứ thực ra tất cả các đứa trẻ đều rất dễ thương và đáng mến bởi những trò
chơi của chúng chẳng làm hại cho ai. Mỗi ngày chúng vẫn hoàn thành công việc
của mình như chăn bò, cắt cỏ, rồi cả các việc như bắt cua, bắt cá, lấy rau lợn
và còn biết bao nhiêu việc khác nữa trong các việc vặt của gia đình.
Ngày ấy các
sinh hoạt văn hoá hết sức hiếm hoi, ngoại trừ những ngày làng vào đám thì mới
có một vài tối biểu diễn văn nghệ. Những làng có đội văn nghệ thì tự đứng ra
biểu diễn lấy, còn những làng không có đội văn nghệ thì đi thuê ở các làng bên
cạnh. Mỗi tháng cả xã mới được đội chiếu bóng lưu động về xã chiếu cho hai buổi,
hoặc giả các làng lân cận không biết bằng cách nào đó thuê được các đội cải
lương Chuông vàng Thủ đô, đội cải lương Kim Phụng về diễn một vài tối thì vui
không thể nào kể xiết. Những buổi như thế người đi xem thường rất đông, nên cả
trẻ con lẫn người lớn đều cố gắng nấu cơm ăn sớm để đi đến mua vé vào xem.
Nhiều khi mua vé vào sân từ lúc chưa lặn mặt trời, rồi chờ đợi hơn ba tiếng
đồng hồ buổi diễn mới bắt đầu thế mà rồi cũng chả thấy ai ca thán điều gì.
Riêng lũ trẻ con thì không thể chủ động về việc cơm nước được vì bố mẹ chúng có
cần gì mà phải nấu cơm vào lúc nửa chừng nửa vời như vậy, vì thế mà chúng
thường nhịn đói để đi xem. Lúc chờ đợi và lúc xem thì chúng không thấy đói, chỉ
đến lúc về thì chúng mới lả người ra, nhưng lúc ấy chúng cũng đành phải chịu
vậy không biết kêu ai, mà kêu ai cho được, mình làm mình chịu thế thôi. Đấy là
nói những đứa có tiền, lại còn những đứa không có tiền thì chỉ còn cách trốn
chui rào để mà vào. Đa số các đội chiếu bóng cũng như các đội biểu diễn văn
nghệ hay thuê các vị trong ban công an của địa phương hoặc các tổ dân quân du
kích canh gác và họ làm rất chặt nên nhiều khi các cậu nhí không thể có cách
nào chui trốn được. Lẽ dĩ nhiên đành phải đứng ngoài chờ tháo khoán mới được
vào xem vớt vát được vài cảnh, vài màn cuối.
Không biết có phải do cách giáo dục ngày ấy nghiêm cẩn hơn thời bây giờ
hay sao mà đa số các đứa trẻ không tiền thì cũng tự chịu vậy thôi chứ chả có
đứa nào dám ăn cắp đồ của cha mẹ đi bán lấy tiền đi xem bao giờ.
Ngày ấy lũ
trẻ cũng có rất nhiều các trò chơi và chúng thường tổ chức chơi một cách nhanh
chóng. Những trò chơi đơn thuần mang tính ăn thua như đánh bi, đánh đáo, thổi
diêm, thổi nịt, thậm chí cả các trò đánh rải ranh, đánh cóc, chơi ô ăn quan, là
những trò rất dễ tổ chức. Ngoài ra còn các trò chơi như đánh bi chọi, đánh khăng;
những trò chơi mà những kẻ thắng có quyền bắt kẻ thua phải cõng, phải kiệu,
phải hầu hạ kẻ thắng một việc gì đó ví thử như dắt trâu, gánh cỏ vv…Cũng có trò
chơi cho phép kẻ thắng bôi lên mặt kẻ thua một vệt nhọ nồi đen kít trông đến
ngộ. Trò này rất thịnh với các ván bài Tam cúc hoặc Tu lơ khơ giữa ba bốn đứa
quây tròn cùng đánh trong những chiều đông rét mướt.
3
Năm nay các
học trò lớp bốn phải lên học nhờ ở một cái đình của làng Thạc Quả. Mấy đứa ở
Tiền Thôn, mấy đứa ở Hậu Thôn đi học gần hơn nên chúng thường đến rất sớm. Hôm
nào cũng vậy, khi Hằng và bọn học trò của làng Đồng Dầu vừa đến là lớp vào học
ngay nên không đứa nào kịp giở sách ra xào qua bài cũ nên khi thầy kiểm tra hầu
như các cậu không trả lời được. Nhất là những hôm trong xã có văn nghệ hoặc có
chiếu phim thì càng tệ hơn vì bọn trẻ càng không kịp học bài cũ, không kịp làm
bài tập và lẽ dĩ nhiên là thường bị thầy phạt bắt ra khỏi lớp đứng ở ngoài đó
mà nghe giảng cho đến hết tiết học mới được vào. Trong số học sinh ở Tiền Thôn luôn
bị mắng, bị phạt là cậu Lực, cậu Thu. Thật ra là các cậu này bận việc nhà quá
nhiều nên không có thời gian mà học nữa. Tuy nhiên khi đã là học sinh thì cho
dù thế nào thì việc học cũng không được trễ nải, cho dù thế nào thì thầy cũng
không chấp nhận cho những học sinh như vậy. Tuy học hơi kém nhưng mà Lực lại
rất khéo tay, Lực làm những bộ râu giả bằng sợi hệt như các bộ râu của phường
tuồng, ngoài ra Lực còn làm những cái gậy nhọn đầu buộc những sợi tơ xanh đỏ
cũng giống như các đạo cụ của phường tuồng trông đến là đẹp. Mỗi hôm đến lớp
sớm là Lực đeo râu, mang gầy ra rồi nhảy từ bàn này sang bàn khác múa hát như
một kép hát. Lực đóng đủ các vai mà Lực biết, khi thì là vai Trương Phi, có khi
lại là vai vua, mà cũng không biết vua của triều đại nào vì vua Đường thì cũng
như vua Tống, cũng chỉ có bấy nhiêu câu hát như vậy mà thôi.
Thế rồi chín
tháng học của lớp bốn cũng đã qua đi một cách nhanh chóng. Đây là năm học cuối
cùng của chương trình học cấp một. Rất nhiều học phần khá cao đã được đưa vào
chương trình để làm cơ sở kiến thức cho bậc học cấp hai sắp tới. Những cô bé,
cậu bé không dễ gì có thể tiếp nhận được nếu không chịu khó học bài và làm các
bài tập một cách đầy đủ. Sang năm nay Hằng học tốt hơn so với năm ngoái. Thầy Vũ
Kim Đàm luôn để ý khá đặc biệt đến cậu trong suốt cả năm học về mọi mặt làm cho
cậu lúc nào cũng như bị căng ra. Không biết có phải vì câu chuyện vào lớp theo
kiểu nhảy cóc của cậu hồi năm trước hay không mà hầu như hiếm có buổi học nào
thầy bỏ quên kiểm tra đến cậu. Có lẽ chính vì thế mà kết quả học của cậu khá
tốt so với nhiều bạn cùng lớp. Ngoài những phần thưởng cậu được nhà trường khen
cậu còn được thầy đã ghi vào học bạ những điều thật tốt đẹp. Thầy còn mạnh dạn
ghi vào đó nhận định của thầy về triển vọng văn học của cậu. Những điều thầy
ghi vào học bạ nói trên cũng mãi sau này cậu mới biết do cậu được nhận lại được
quyển học bạ do cô giáo chủ nhiệm lớp 5c của cậu đưa cho.
Khi ngồi viết
những dòng này trên trang sách cậu không khỏi trạnh lòng khi nghĩ về những dòng
nhận xét của thầy giáo Đàm. Những dòng nhận xét vừa có ý khen ngợi nâng đỡ, vừa
mang tính khuyến khích dường như thầy bảo hãy cố gắng hơn lên. Thế mà cậu đã
không làm được gì, thật không xứng đáng với niềm mong mỏi của một người thầy.
Kể ra thì quyển học bạ cũng đã bị cháy mất cùng với hàng đống sách vở tài liệu
mà cậu đã gửi anh Hiệp trưởng kho vật tư của nhà máy điện Thanh Hoá trước khi
cậu đi bộ đội. Không biết thế nào mà khi cả đống sách vở của cậu cùng với hàng
đống các sổ sách cùng với phiếu xuất kho bùng cháy không sao cứu được thì quyển
học bạ lại vẫn còn. Sau khi cậu rời bộ đội phục viên về đơn vị nghe tin kho bị
cháy, trong đó có cả số sách vở tài liệu của cậu thì cậu cũng chẳng còn muốn
đến hỏi anh Hiệp làm gì nữa. Thế mà đến gần hai năm trời sau anh Hiệp lại đưa
cho cậu quyển học bạ rách bìa này, thành ra mỗi khi cầm đến nó cậu lại tự dằn
vặt về những lời thầy đã ghi trong đó.
4
Từ sau ngày
hoà bình lập lại Đảng và Chính phủ cũng đã tập trung nhiều cho công tác giáo
dục, tuy nhiên mọi sự cố gắng cũng chỉ giúp cho xã Dục Tú có cơ ngơi cho một
cấp học mà thôi. Cả huyện Đông Anh lúc đó mới có ba bốn ngôi trường cấp hai, nên
việc đi học cấp hai buộc các học sinh phải rời trường của xã để đi học nhờ xã
khác. Cũng có một số học sinh sang trường cấp hai Tiền Phong ở thị trấn Yên
Viên thuộc huyện Gia Lâm học nhờ. Mãi đến năm 1962 huyện Đông Anh mới mở thêm
một số trường cấp hai trong đó có một trường cấp hai được mở ở xã Quyết Tâm (bây
giờ gọi là xã Cổ Loa) thì số học sinh lên cấp hai của xã Dục Tú mới chuyển về
học ở Cổ Loa. Lúc ấy trường thường mang tên của các xã, nên trường có tên là
trường cấp hai Quyết Tâm. Tên trường thì có đấy nhưng phòng học của trường thì
lại chẳng có cái nào. Khi ấy các lớp học được gửi ở các ngôi chùa, ngôi đền,
thậm chí còn gửi nhờ ở các nhà dân. Lớp 5c của Hằng được gửi ở đình làng Cổ Loa;
nơi ấy tập trung rất nhiều các di tích lịch sử xây dựng từ xưa. Đầu tiên phải
kể đến là cây đa cổ thụ có trên một ngàn tuổi. Cây đa này có thân mình đồ sộ
đến mức người ta đã xây bên trong thân nó một khuôn cửa tò vò có bề ngang đến
một mét rưỡi, chiều cao đến hơn một đầu một với, nghĩa là chiều cao đến hơn hai
mét. Xung quanh khu vực gốc đa quy vuông đến gần ba trăm mét vuông có đến mười
mấy cái rễ từ các cành đa rủ xuống cắm sâu vào lòng đất, cái lớn nhất cũng phải
vừa hết một vòng ôm của người lớn, cái nhỏ cũng có đường kính trên hai mươi
nhăm phân tây. Còn các cành của nó thì che kín gần hết phân nửa sân đình. Một
di tích khá đặc biệt là am thờ Công chúa Mỵ Châu. Am thờ bé đến nỗi chỉ vừa đủ
diện tích để đặt pho tượng đá cụt đầu, nên mỗi khi vào trong am đi quanh pho
tượng cảm thấy rất chật chội. Pho tượng đá này tương truyền là hiện thân của
Công chúa Mỵ Châu được các bậc tiền nhân khiêng từ nơi khác đem về, sau nhiều
lần những người già cả trong làng được Công chúa báo mộng. Pho tượng đá khá to
lớn, có lẽ cũng gấp ba bốn người thường. Tượng đã bị quân Pháp phá vỡ tạo ra
các vết nứt và cũng đã được trám vá bằng chất liệu xi măng. Vào những mùa hè
tượng bị hấp hơi nước ướt rườn rượt, khi sờ vào mát lạnh cả tay. Không xa bao
nhiêu về phía Bắc là cả một quần thể của
cả khu vực đền thờ An Dương Vương cùng với dấu vết của tường thành ốc xưa còn
lại. Lũ trẻ hàng ngày đến Cổ Loa đi học chưa có nhiều kiến thức lịch sử về nơi
mình vẫn đang sinh sống, nhất là lại thường quá quen thuộc với những hình ảnh,
đồ vật, quang cảnh mà họ bắt gặp thường ngày nên đôi khi còn rất coi thường.
Nhưng dù sao thì mỗi ngày qua họ được các thầy, các cô giảng giải nên không
biết từ lúc nào trong lòng mỗi người cũng có sự ngấm nghía để rồi mai ngày lớn
lên trong họ có cái hình, cái bóng của quê hương cùng với những gì tốt đẹp được
nhân lên trong mỗi bước đường mà họ sẽ đi trong cuộc đời đầy sóng gió và cũng
đầy vinh quang rực rỡ trong những năm lao động và chiến đấu sau này.
Trường cấp
hai Quyết Tâm về cơ cấu sẽ có ba khối học, mỗi khối có ba lớp, tuy nhiên trong
năm đầu tiên này thì mới chỉ có một khối đó là khối các lớp 5. Hằng và cả số
học sinh của làng Đồng Dầu được đưa vào lớp 5c do cô Lê Thị Yến vừa làm chủ
nhiệm vừa làm giáo viên giảng môn toán học. Môn văn thì do thầy Trần Ngọc Kim
giảng dạy. Hai môn sử địa đều là của thầy Vũ Tú Nguyên, còn môn sinh vật là của cô Kim Bảo.
Những ngày
đầu tiên bước vào cấp hai thật là vui, riêng Hằng còn vui hơn khi cậu được bầu
vào ban cán sự lớp. Cho dù chẳng hiểu là mình sẽ phải làm gì trong cái chức
trách cán sự nhưng Hằng cũng thấy rất khoái chí. Hằng đâu có ngờ rằng sau này
cậu lại bị liên luỵ quá nhiều bởi cái chức trách hữu danh vô thực này. Hàng
ngày cứ đến mỗi giờ học các thầy, các cô đều nhằm đích vào Hằng. Nào là cả lớp
có làm bài tập hay không, cả lớp đã đóng học phí chưa. Khổ sở hơn nữa là cậu cứ
phải đầy đủ bài vở vì cứ mỗi khi các thày, các cô kiểm tra các bạn mà có độ ba,
bốn người không thuộc là các thầy, các cô sẽ gọi đến Hằng. Đành rằng đi học là
phải học bài, làm bài đầy đủ, nhưng đôi khi các học trò cũng tự cho mình được
quên học bài, quên làm bài tập để vào bãi chiếu phim một đôi lần trong một tháng, bởi vì có phải
dễ gì có được một buổi chiếu phim ở nơi thôn quê đồng ruộng. Tất nhiên là không
thể bỏ học, bỏ làm bài tập để xem phim mà chỉ là ngầm khất chương trình hôm đó
đến hôm sau mà thôi. Nhưng Hằng thì đâu có được làm như thế bởi cái chức trách
lớ ngớ vừa nói ở trên.
Được cái Hằng
học khá thông minh nên kết quả năm học cậu đạt khá cao. Hầu như tất cả các bài
kiểm tra của các môn Hằng đều được điểm 5. Hằng đã đạt học sinh xuất sắc toàn
diện ở mức A1. Các bạn, các thầy chia vui với Hằng. Cái tiếng học giỏi của Hằng
bay về tận làng Đồng Dầu, bay về tận trường Dục Tú làm vui lòng biết bao những
người thân yêu của Hằng, làm thoả lòng biết bao các thầy cô đã dạy dỗ Hằng. Có
một người thầy luôn luôn nhìn Hằng bằng một bên mắt nheo lại như bảo cậu rằng
chớ có tự vừa lòng để rồi phí công tôi đặt niềm tin ở cậu. Đó là thầy Chuyên,
người thầy đã hơn một lần hết lòng vì cái cậu bé nhóc con lầm lỳ ít nói và hay
ngồi lặng lẽ nhìn xa tận phía chân trời.
5
Cứ như thế
Hằng học hết ba năm học cấp hai ở trường Quyết Tâm trong ba năm liên tiếp. Ngày
rời trường đã đến mà mọi người vẫn tưởng chỉ là chia tay về hè như mọi năm
thôi. Chả biết mọi người nghĩ sao còn Hằng thì băn khoăn bối rối không biết
tính thế nào. Việc có đi học tiếp được hay không quả thật là rất khó, bởi trường
cấp 3 lại ở mãi trên huyện, một địa điểm quá xa để có thể đi bộ đến trường vào
các buổi sáng, phần thì nhà Hằng lại quá nghèo, đâu có thể mua nổi một cái xe
đạp để mà đi học như mấy đứa con nhà khá giả. Mỗi ngày nhà Hằng cũng chỉ có gạo
ăn ở mức hơi thiếu một tý cho cả nhà, nếu Hằng mang đi một ít để học trọ thì
nhà sẽ bị đói. Như vậy thì việc học của Hằng sẽ chẳng còn có thể tiếp tục được
nữa. Thêm nữa mẹ Hằng đã già yếu lắm rồi việc làm ăn đã đến lúc cần Hằng san sẻ
bớt. Với bằng ấy lý do đã bắt buộc Hằng không còn cách lựa chọn nào khác hơn là
phải nghỉ học.
Không như một
số các bạn khác nghỉ hè rồi vẫn còn được rong chơi để thăm thú bạn bè, bắt đầu
vào hè là Hằng về nhà để đi làm hợp tác. Ngay từ những ngày đầu đi làm hợp tác
Hằng đã được bà con trong đội đề nghị đứng ra làm thư ký đội thay cho người thư
ký cũ lên làm thư ký cho hợp tác xã. Kể ra mà nói thì đây cũng là sự may mắn
rất lớn của cậu, vì cùng lúc đó có khối các cậu cùng về mà bà con lại không tín
nhiệm. Nói về cái học khá của cậu có lẽ chỉ là phần thứ yếu vì công việc làm
thơ ký đội chủ yếu chỉ là ghi chép công điểm cho bà con, thế rồi cộng trừ nhân
chia một tý công điểm, một tý thóc lúa hoa màu mà các xã viên được chia trong
từng vụ mà thôi. Cái sự tín nhiệm ở đây chủ yếu là các ông bà xã viên đã yêu
mến cậu ở cái sự vui tươi, lễ phép và cả cái tính thẳng thắn, ngay từ bé đã
không trộm cắp hoặc tham lam của ai bất cứ thứ gì.
Từ sau ngày
nghỉ hè cô giáo hiệu trưởng Nguyễn Thị Ngọc Anh vẫn xuống thăm chơi nhà của các
phụ huynh, cũng đến mấy lần cô vận động Hằng cùng các bạn tiếp tục đi học lên
cấp 3. Bà còn hứa với bà mẹ của Hằng là bà sẽ dùng uy tín của mình để xin cho
Hằng có được học bổng như khi còn học cấp 2, nhưng vì ngại ngần trong việc nhờ
cậy, làm phiền đến cô nên Hằng vẫn quyết định sẽ nghỉ học. Cô Anh lại phân tích
thêm về một số cách học khác và cuối cùng thì cô động viên Hằng đi học chuyên
nghiệp. Thực ra thì Hằng cũng đã làm hồ sơ xin đi học chuyên nghiệp để gửi về
trường ngay từ khi còn đang học dở cấp 2,
tuy nhiên đến lúc ấy thì các trường chuyên nghiệp chưa nơi nào gọi cả.
Vào trung
tuần tháng 8 năm ấy thì Hằng có giấy gọi đi học trường trung cao cơ điện. Phần
vì nghe bạn bè kháo nhau rằng học trung cao kéo dài đến hơn ba năm, hơn nữa là
sau khi ra trường phải làm cán bộ kỹ thuật, một công việc mà Hằng rất ghét ngay
từ khi tiếp xúc với một số cán bộ kỹ thuật của nhà máy diêm, nhà máy gỗ trong
lúc Hằng đi làm thuê những năm trước đó. Mỗi lần trông thấy họ Hằng chỉ muốn
chửi cho họ một trận bởi cái sự vênh váo của họ trong lúc giao nhận công việc
hàng ngày. Rồi đến vài giấy gọi nữa nhưng Hằng cũng không đi vì một trong các
giấy ấy là giấy gọi của trường trung cấp ăn uống, giấy còn lại là của trường
trung cấp dệt, lúc ấy Hằng cho rằng đây toàn là những công việc của phụ nữ nên
chẳng thiết gì đến sự học nữa.
Cũng chính
trong thời gian này ở cục vật tư địa chất đóng ngay ở Dốc Vân lại thông báo
tuyển người. Chỉ cần làm việc trong 6 tháng là sẽ được vào biên chế thành công
nhân như tất cả mọi người. Đang lúc bế tắc lại có cơ hội tốt, thế là Hằng quyết
định sẽ đi làm cho ngành địa chất.
6
Ngay khi vào
làm ở địa chất Hằng cùng các bạn đã được đưa lên ô tô chở một mạch lên huyện
Hữu Lũng của tỉnh Lạng Sơn. Nơi đây được cục vật tư địa chát cho xây dựng một
cái kho để chứa hàng đề phòng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ngày một tăng
lên. Công việc ở đây ban đầu chủ yếu là
phát rừng san đường vào sâu trong dãy núi Cai Kinh, rồi bốc đá làm đường
để cho xe ô tô có thể ra vào được.
Hàng ngày
từng tốp công nhân mới tuyển còn chưa được cấp phát bảo hộ cắm cúi làm việc.
Cho dù công việc chẳng nhẹ nhàng gì, nhưng đa số mọi người trong đội đều là
những thanh niên, thanh nữ trẻ nên họ rất vui. Cho dù là đào hàng khối đất hào
rắn đanh đến bốc hàng chục khối đá từ mỏ đá Núi Voi về công trường nhưng ai
cũng say mê với công việc. Những chàng trai trẻ đều muốn thể hiện sự hơn hẳn
của mình trước các cô gái để mong các cô có chút cảm tình. Còn các cô gái thì
lại muốn mình là những người xinh đẹp chịu thương, chịu khó để lọt mắt các
chàng trai. Chính vì thế mà các anh trong ban lãnh đạo của đội như anh Dậu hầu
như chẳng cần phải đôn đốc mà công việc vẫn chạy băng băng.
Ngoài những
vất vả trong công việc mọi người còn phải đối đầu với nguy hiểm do máy bay địch
bắn phá khi đi trên đường hoặc đến làm việc ở những nơi trọng điểm. Cũng có
nhiều lần họ thoát chết trong gang tấc bởi chỉ nhờ may mắn trong nhanh chậm,
giống như lần máy bay Mỹ ném bom phá huỷ cửa hàng ăn uống chợ Mẹt hay lần chúng
ném bom hòng cắt đứt cầu Mẹt chặn đường giao thông của chúng ta.
Công việc ăn
uống của đội đều do đội tự làm lấy, ngoài mấy món trường ca như bí ngô, cá mắm,
lại đến muối vừng, măng tre hoặc lạc rang để cả vỏ tẩm muối mặn chát. Lâu lắm
mới có một ít thịt con lửng mua được ở các chợ quanh vùng, cũng có khi có một
ít thịt trâu mang từ cơ quan lên khi có các cán bộ về công tác.
Người Nùng ở
xã Cai Kinh và các vùng quanh khu vực đều kiêng ăn thịt trâu, bò và thịt chó.
Họ cũng không ăn hành và một vài gia vị khác nên lúc đầu khi chưa làm được lán còn phải ở nhờ nhà dân thì
sự kiêng khem thật là vất vả. Về mặt ăn
uống thì thế nhưng về tình cảm thì giữa công nhân với nhân dân trong vùng lại
thật tốt, nhất là với đám con gái người Nùng thì sự gắn bó còn khăng khít hơn
nhiều. Lấy cớ giao lưu để học tiếng và tìm hiểu phong tục có vài đôi trai gái
hình như bắt đầu đã có những mối cảm tình hết sức tế nhị.Trong số thanh niên
trẻ trong đội chỉ có Hằng là trắng trẻo thư sinh hơn cả, hơn nữa lại ăn nói khá
mạnh dạn nên có rất nhiều cô gái muốn gần. Lẽ dĩ nhiên là cậu cũng thể tránh
khỏi bị cuốn hút vào cái không khí chung ấy. Sau rất nhiều cuộc gặp gỡ trò
chuyện cho dù là chỉ ở trong nhà của các cô gái cùng với bố mẹ của các cô nhưng
cái sự đầu mày cuối mắt thì vẫn cứ lộ ra.
Người Nùng ở
Cai Kinh có một số đặc điểm rất đặc biệt đó là đa số các chàng trai thì rất đẹp
traiN, còn đa số các cô gái thì lại rất xấu. Những chàng trai cao lớn và trắng
trẻo bao nhiêu thì các cô gái lại đen và nhỏ bé bấy nhiêu. Trong cả một bản có
lẽ chỉ được mươi cô còn có chút ưa nhìn, số còn lại thì thật đáng ngại gặp,
ngại gặp không phải vì họ xấu mà vì đám thanh niên vùng xuôi sợ họ mồi chài. Đã
từ lâu người ta đồn đại rằng các cô con gái ở vùng cao thường có một số loại
thuốc hoặc các loại bùa rất đáng sợ. Nếu chàng trai nào ở dưới xuôi không may
mà bị họ thích là họ sẽ chài, thế rồi các chàng trai này cứ lú lẫn bỏ cả quê
hương cha mẹ để mà ở lại với cô ta cho đến hết đời mà không thể thoát ra được.
Ngoài ra họ còn sợ nhiều thứ khác, giả như họ có thể bị người nhà của các cô gái
giết bằng cách đưa đến các vùng rừng có hổ để cho hổ ăn thịt rồi loan tin là bị
hổ vồ. Đến lúc ấy thì ngay cả chết cũng bị chết oan mà không thể tìm ra tội
chứng của kẻ giết người. Chính vì vậy nên cái sự yêu đương thì hình như chưa
cậu nào dám đặt vấn đề. Còn cái chuyện lợi dụng tình ái khi họ tiếp xúc hàng
ngày cùng nhau thì chả cậu con trai nào dám, kể cả trong khi nói chuyện ở nơi
vắng vẻ cũng như khi đi vào rừng hái quýt, hái ổi riêng rẽ chỉ có hai người với
nhau.
7
Trong số các
cô gái người Nùng, có một cô khá xinh xắn có tên là Hoàng Thị Cỏm. Cô mới chỉ
mười sáu tuổi đang đi học văn hoá ở trường nội trú của tỉnh. Ngoài nước da
trắng, khuôn mặt trái xoan cô còn có sức quyến rũ bởi dáng người thon thả và duyên
dáng. Cô nói tiếng kinh khá sõi, nếu chỉ hỏi han trò chuyện trong độ mươi phút
thì không ai bảo cô là người Nùng, ngoại trừ bộ quần áo chàm cô rất hay mặc khi
cô về nhà. Cho dù chiếc áo chàm khá rộng, luôn dài đến ngang đùi che đi phần
thân thể của cô nhưng người ta vẫn nhận ra cơ thể đầy sức quyến rũ của cô.
Trong một lần
về nhà cô được tiếp xúc với đám thanh niên vùng xuôi thông qua sự giới thiệu
của các bạn, cô đã nói chuyện rất nhiều bằng tiếng Nùng với Hằng. Không biết có
phải do cô thích cái anh chàng trắng trẻo này hay là cô chỉ thích nói chuyện
với cậu chỉ vì lúc ấy cậu là người biết nhiều tiếng Nùng hơn so với các bạn.
Lúc chia tay
cô ghé sát tai cậu và thì thào:
- Mình với
anh cùng tên, mình với anh là một đấy nhé!
Hằng không
kịp hỏi gì thêm thì cô ấy đã vụt quay trở vào nhà. Hằng đứng ngây ra đến một
lúc lâu mà vẫn chẳng nghĩ ra được sự thể là thế nào. Chả lẽ tiếng Nùng âm Cỏm
là Hằng hay là khi cô ấy đến trường học cô đổi tên theo tiếng Kinh với cái tên
mới là Hằng. Cho mãi đến về sau này điều
thắc mắc ấy cậu vẫn không được ai giải đáp cho.
Họ chia tay
cũng không lâu la gì lắm, chỉ mới qua hết một tuần học đã thấy cô có mặt ở nhà.
Anh trai của cô đã bảo cho Hằng biết trong lúc đi ngang qua lán công nhân để
vào rừng đặt bẫy. Trong số các chàng trai cùng đi làm với Hằng ngày ấy hầu như
chỉ có mình Hằng là hay chơi bời cùng số con trai và cũng hay thăm viếng với
các ông ké, bà mế nên Hằng khá thân thiện với số đông những người trong bản.
Riêng về anh trai của Cỏm thì khá thân hơn vì anh này khá thông minh và lại rất
khéo tay. Nhiều lần anh bảo nhận Hằng làm em rể cho dù Hằng chưa hề gặp cô em
ấy lần nào. Lần này thì không thể tránh được rồi nhất là cái cô em ấy lại hưởng
ứng một cách nhiệt tình sự gợi ý của ông anh. Có lẽ vì thế mà anh vừa tin cho
Hằng biết vừa cười một cách ý nhị.
Thực ra thì
Hằng chưa bao giờ nói gì đến cái sự gắn bó của mình với cô ấy vì Hằng cũng sợ
bị cô ấy chài như ngày nào mẹ Hằng đã kể. Còn cô ấy thì hình như mặc nhiên coi
cái sự ấy như là đã định rồi. Có lẽ việc này là do người anh của Cỏm bịa ra.
Phải chăng anh cũng muốn cho cô em gặp được văn minh của miền xuôi hay là muốn
cô em rời xa hẳn cái cơ ngơi của cha mẹ để sau này anh chẳng vướng bận gì.
Những ngày xa
vắng bất chợt bị cuốn đi để sự rạo rực tràn ngập dồn lại cho những giờ khắc gặp
gỡ.Tuy rằng tất cả cũng chỉ là những câu chuyện cuộc sống cùng với sự động chạm
da thịt vào nhau thôi nhưng sao mà cảm xúc lạ kỳ đến vậy. Nhiều lúc Hằng tưởng
như mình bị tan ra bên sắc màu lam tím của những nếp vải thô ráp nhuộm chàm. Hay
là Hằng đã bị chài rồi! Có lẽ là chưa vì sau những lúc như thế Hằng lại thấy
bình tĩnh trở lại tự điều chỉnh được mình. Mười sáu tuổi, chỉ mới mười sáu tuổi,
còn mình nào có nhiều hơn được bao nhiêu.
Mỗi lần gặp
gỡM, mỗi lần trò chuyện, Hằng thường nghĩ đến những câu chuyện tình yêu từ
trong phim ảnh, từ trong sách vở, từ trong tiểu thuyết. Sự đẹp đẽ đến thánh
thiện, đến đắm say và cả đến oanh liệt nữa cũng dần hé mở lôi kéo đi theo,
khuyến khích học theo. Cả đống những ý tưởng làm họ choáng ngợp, làm họ bối rối;
bối rối đến không còn biết sẽ làm gì nữa.. Họ chỉ dám hôn thật nhẹ vào bất chợt
chỗ nào mà họ chạm vào thế rồi chia tay và tiếc mãi về những gì mà họ cùng khao
khát.
8
Những ngày
vui chưa được bao lâu thì công trình cũng đã sắp hoàn thành. Một số công nhân
đã chuyển đi công trường mới ở tận trên khu vực Đồng Mỏ, số còn ở lại Cai Kinh
không còn nhiều, trong đó có Hằng. Ngoài công việc ban ngày, Hằng còn phải ở
lại trông coi lán vào ban đêm mà không vào bản như mọi khi vì trong thời gian
này Cỏm cũng ít về. Không biết có phải do bận học hay do Cỏm giận vì Cỏm chờ
mãi mà chưa thấy Hằng nói ra cái điều quan trọng kia. Cỏm không biết rằng trong
lúc ấy Hằng băn khoăn đến thế nào về hoàn cảnh của mình.
Ngày ấy nhà
Hằng Nghèo lắm. Rời chùa mới được vài năm, nhà Hằng vẫn phải ở nhờ nhà của anh
Phượng. Xin đất xong, cố mãi nhà Hằng vẫn chưa làm nổi một ngôi nhà. Đồ dùng
thì chả có thứ gì ngoài hai cái giường gỗ tận dụng mà ông bố của Hằng tự đóng
lấy từ năm nảo, năm nào, đến nay thì đã bắt đầu mọt ruỗng ra rồi. Lấy vợ về, vợ
sẽ ở đâu! Trong cái căn nhà không buồng, không vách của nhà anh Phượng. Lại còn
công việc làm ăn, còn miếng cơm, manh áo cho mẹ, cho em và cho cả đôi uyên ương
nửa xuôi, nửa ngược này nữa. Lại còn sự nghiệp vừa mới bắt đầu! Mình còn phải
đi! Ai sẽ là người đỡ đần người vợ trẻ con này khi mình đi vắng. Rồi còn địa
phương họ có cho phép hay không khi cô ấy chưa đủ tuổi. Miền xuôi đâu có thể
làm bừa đi như trên vùng cao thiểu số mà được. Tất cả những điều ấy đã bắt Hằng
phải chần chừ, lưỡng lự mặc dù Hằng biết sẽ chẳng bao giờ Hằng còn có thể tìm
được một người con gái đẹp mê hồn như thế nữa. Tất cả những điều ấy Hằng đâu có
thể nói ra với Cỏm và với gia đình cô ấy.
Chính trong
những ngày buồn bã ấy thì chú Phó cục trưởng đi công tác qua rẽ vào gửi cho
mảnh giấy của mẹ nhắn Hằng về. Không biết mẹ nhắn về để làm gì mà gấp gáp như
thế nên Hằng quyết định sẽ tự mình ra về mà không chờ chú cục phó đón như lời
dặn của chú lúc đưa thư cho cậu.
Vừa đi vừa
lạc phải mất hơn năm tiếng đồng hồ Hằng mới đến được ga Bắc Lệ để lên tàu về
nhà. Cuộc ra đi này của Hằng chỉ có vài người trong ban lãnh đạo của đội biết,
bạn bè và cả Cỏm cũng không sao biết được. Hằng cũng không ngờ lần ra đi này
cũng là lần từ biệt Cai Kinh, từ biệt Chợ Mẹt, Lạng Sơn đến mãi gần bốn mươi
năm sau mới lại có dịp quay trở lại trên một chuyến xe khách chạy sáu mươi cây
số lướt đi trên đường, trong một lần tham quan Trung Quốc.
Về đến nhà
Hằng được mẹ đưa cho một bì thư trong đó là giấy báo đi học của Trường điện lực
Thái Nguyên. Nhận giấy mà Hằng ngạc nhiên đến sững sờ cả mình mẩy vì không hiểu
tại sao mình lại có giấy báo này. Trong kỳ làm hồ sơ đi học chuyên nghiệp Hằng
chỉ làm có ba bộ, đã có ba trường gọi mất rồi. Các trường đều ghi là sẽ không
trả hồ sơ vậy thì hồ sơ này làm sao mình lại có. Sau khi ba trường gọi Hằng
không đi, Hằng đã làm thêm hai bộ nữa lên xin xã nhưng xã nói chỉ có thể xác
nhận không quá ba bộ, thế là Hằng mang về vứt ở nhà, làm gì còn bộ nào nữa đâu
mà lại có giấy gọi. Hay là trường họ nhầm lẫn gì chăng. Hằng xem đi xem lại tờ
giấy báo nhưng không thấy chỗ nào sai kể cả họ tên và nơi ở. Mà cái làng Đồng
Dầu này làm gì có ai là Hằng nữa đâu. Tìm hiểu mãi rồi cũng vỡ lẽ ra do khi
Hằng đi làm vắng cô Ngọc Anh xuống thăm số phụ huynh học sinh cũ đã rẽ vào thăm
mẹ Hằng. Sau khi nghe bà mẹ Hằng kể lại sự tình thế là bà lấy số hồ sơ của Hằng
để lại mang lên xã xin xác nhận cho rồi gửi tiếp về ban tuyển sinh huyện và thế
là Hằng mới có tờ giấy báo thứ tư này. Có lẽ cán bộ xã nể bà giáo là huyện uỷ
viên mà họ quen biết trong các kỳ họp
nên đã xác nhận số hồ sơ mà bà mang lên xin hộ.
Khỏi phải nói
đến sự hàm ơn của Hằng đối với cô hiệu trưởng đến thế nào. Vậy mà từ khi ấy cho
mãi đến sau này Hằng không còn có thể gặp lại cô giáo đáng kính của mình nữa.
Khoảng cách địa lý của mỗi người, công việc xã hội, công việc gia đình của mỗi
người, đã vĩnh viễn chia cách cô trò của họ. Cô như là một người mẹ lo cho rất
nhiều những đứa con, chắc cô không còn nhớ những gì đã lo cho Hằng. Còn với
Hằng thì không bao giờ có thể quên được tấm lòng của người mẹ ấy.
9
Sau gần mười
ngày lo cắt hộ khẩu, lo bán lương thực để lấy giấy cắt chuyển lương thực xong
là Hằng lên nhập trường. Cứ như trong giấy báo này thì có đến vô số những con
số một bắt buộc các học sinh phải nhớ và phải thực hiện. Đầu tiên là các học
sinh phải đến trường vào ngày 11 tháng 11 năm 1965, tiếp theo là các học sinh
phải hỏi thăm đến số nhà 111 phố Đồng Bẩm Thành phố Thái Nguyên để vào nhập
học.
Hằng lên đường
với một cái ba vuông mà anh cả cho. Đây là vật dùng để đựng quần áo của bộ đội
thời kháng chiến chống Pháp. Nó là một
miếng vải bạt cắt theo hình chữ thập. Các góc được may một miếng vải chéo để
khi gấp vào đồ dùng nhỏ không từ các góc rơi ra. Hai bộ quần áo bằng vải ka ki
và vải pôpơlin Nam Định, một cái chăn chiên là tất cả những gì mà Hằng mang
theo.Tuy rằng nhà Hằng nghèo thật nhưng Hằng lại chưa khi nào phải mặc quần nâu
áo vá như nhiều các bạn khác. Đồ đạc mới duy nhất chỉ có cái màn một và mấy thứ
lặt vặt như lọ thuốc đánh răng, cái bàn chải, cùng mấy quyển sách, quyển vở mà
thôi .
Chuyến tàu
Bắc, Yên Viên đi Quán Triều chậm như bò trên đường. Chỉ có hơn bẩy chục cây số
mà suốt từ tối đến quá nửa đêm mới đến được ga Đồng Quang. Trời đêm không đèn, không
điện vì tránh máy bay Mỹ đánh phá, vả lại cũng quá khuya nên đường xá vắng ngắt
không một bóng người. Sau khi đã hỏi thăm khách trên tàu về địa điểm mình sẽ
đến, Hằng cũng đã sơ lược nắm được phần nào quãng đường mình sẽ phải đi. Mò mẫm
mãi rồi Hằng cũng đến được phố Bắc Nam của thị xã Thái Nguyên. Đang không biết
tìm ai để hỏi thăm tiếp thì nghe phía trước có người đang nói chuyện rì rầm.
Hằng cố đi thật nhanh cho kịp mong sao hỏi thăm được về phố Đồng Bẩm, bởi Hằng
nghĩ nếu không hỏi thăm được thì khó có điều kiện gặp được ai nữa để mà hỏi
thăm. Vừa ghé sát vào mặt hai người đi đường để hỏi thăm về Đồng Bẩm thì nghe
cả hai cùng nói chúng tôi cũng về đó mà không biết đường đây. Thật không còn gì
chán chường hơn khi nghe hai người đi đường nói vậy. Dù sao thì từ lúc một mình
bây giờ có thêm hai người nữa thành ba cùng đi nên cũng đỡ buồn hơn. Cả ba
đang lếch thếch mò đi trong đêm tối đen
như mực thì đến một chiếc cầu. Một ngọn đèn phòng không leo lét bên đường làm
cho cả ba mừng không thể nào tả xiết. Một người trong họ buột miệng:
- May quá, có
chỗ hỏi thăm rồi.
Giọng nói của
người này hơi ngòng ngọng, nghe rất quen, hình như mình đã nghe nói khi nào rồi
thì phải. Đang còn phán đoán thì chợt lại nghe người thứ hai cất tiếng hỏi thăm
đường. Ngoài giọng nói rất quen thuộc còn cả địa chỉ hỏi thăm cũng lại quá quen
nữa làm Hằng chột dạ. Hằng nghĩ chả lẽ mấy cậu này cũng đi học như mình. Mãi
đến khi giáp mặt thì cả ba người mới nhận ra nhau là bạn cùng trường.
- Thế nào, có
phải các cậu cũng vào trường điện lực phải không?
Họ hỏi thăm
nhau hết chuyện nọ đến chuyện kia có lẽ phải đến hai mươi phút rồi mới lại tiếp
tục lên đường. Hoá ra hai anh bạn vừa gặp lại chính là Nội và Thảo học ở lớp
7A. Thảo khá nổi tiếng về sự tinh nghịch, còn Nội thì lại nổi tiếng về các hoạt
động tập thể và có tiếng là lành tính. Nội học cũng vào loại giỏi và lại là một
trong những đoàn viên đầu tiên của chi đoàn học sinh của trường. Nội khá đẹp
trai và có nhiều tài vặt, đặc biệt là rất sát gái. Cứ như sau này Nội nói ra
thì hình như ngay khi còn học ở trường phổ thông Nội đã yêu khá thành thạo, yêu
ngay cả những bạn gái cùng học trong lớp 7A của chính mình.
Ba người lại
mò mẫm đi tiếp, bây giờ thì họ đã đi qua cầu Gia Bẩy, nơi mà họ vừa dừng lại để
hỏi thăm và đã nhận ra nhau. Cây cầu khá rùng rợn vì nó là nơi chứng kiến sự
chết chóc của mấy trăm người trong hai lần giặc Mỹ đem tàu bay phản lực ném bom
vào cầu trong ngày 17 tháng 10 trước đó mới gần một tháng. Mọi người không ai
nói gì nhưng Hằng biết trong mỗi người đang nghĩ về cái chết chóc gớm giếc đó
mà căm thù quân giặc, xót xa cho tất cả những người xấu số. Thật đáng buồn khi
mọi người chúng ta đã không thể làm gì để ngăn cản tất cả những tàn ác mà kẻ
thù đang từng ngày trút xuống đầu những người dân vô tội.
Không thể tìm
ra ngôi nhà số 111 và cũng chả hỏi thăm được aiK, ba anh em đành vào ngủ nhờ
trên hè của một cửa hàng bán sách để chờ đến sáng. Mệt mỏi do đi bộ mang nặng
lại thức quá khuya cả ba ngủ như chết cho đến tận sáng banh ra mới dậy được.
Vừa thu gọn đồ dùng vừa nhanh chóng quay đến khu vực tối qua đã đến để tìm.
Hằng hỏi thăm mấy người làm vôi ở ngay con dốc nhỏ cạnh đấy thì được họ cho
biết số nhà 111 chính là căn nhà tranh lụp xụp mà đêm qua ba anh em đã qua lại
đến mòn cả chân ở đấy. Căn nhà ấy không phải là trường mà chỉ là điểm đến hỏi
thăm con đường rẽ để vào nơi trường sơ tán. Từ đây vào đó còn phải đi đến hơn
cây số nữa mới đến nơi. Đang còn hỏi thăm chưa xong thì từ xa đã nghe tiếng
củaThảo la ré lên:
- Tìm thấy số
nhà 111 rồi chúng mày ơi!
Mọi người
quay về phía phát ra tiếng nói củaThảo thì thấy Thảo từ mái hiên lụp xụp chui
ra. Thảo vừa cười vừa chỉ ngược vào bên trong mái nhà có ý bảo cái số nhà ở bên
trong đó. Thì ra đây là căn nhà không có người ở, trên tường chả có chỗ đóng
đanh treo biển nên chủ nhà đã gài cái biển số vào bên trong mái hiên, chính vì
thế mà mấy anh em tìm không được.
Lại thêm một
lần chán chường nữa mà không thể nói ra, bởi ai cũng nghĩ rằng ngôi nhà số 111
ấy phải là ngôi nhà cao ba bốn tầng trông thật nguy nga tráng lệ và rồi hàng
ngày họ sẽ cắp cặp đến học hành và làm việc. Nào ngờ cái trường mà họ học lại ở
trong tít mãi ở tận rừng xanh núi đỏ và còn chưa biết là nó to bé ra sao. Tuy
vậy họ cũng đành phải vào để mà nhập học chứ còn biết làm thế nào bây giờ.
10
Ngay sau khi
gặp cán bộ của trường mọi người mới biết là trường có ba khu học tập. Khu thứ
nhất tập kết các học sinh học về cơ khí và điện ở ngay tại xóm Cổ Rùa. Khu thứ
hai ở lùi vào sâu bên trong một ít gọi là xóm Thác Lở, là nơi tập kết số học
sinh học về nghề sửa chữa lò hơi. Số học sinh học nghề sửa chữa Tua bin thì vào
sâu mãi tận khu mỏ đá Núi Voi (Núi Voi của Thái Nguyên chứ không phải của Lạng
Sơn), nơi ấy gọi là xóm Cầu Đá. Cũng chỉ đi quá ra ngoài một chút đã là phường
phố, thế mà nơi Hằng và các bạn đến lại là thôn bản của rừng rú buồn rứt cả
người.
Những ngày
học tập, lao động liên miên làm cho các cậu không còn có thì giờ để chơi bời
nữa, thế là việc lên lớp và nhất là việc đi lao động làm đường sắt sơ tán máy
biến thế hoặc đi xúc xỉ đổ vào sọt treo quanh tường nhà máy để chống bom đạn là
những lúc vui hơn cả. Dù sao thì có lúc như thế họ mới được gặp nhau để mà trò
chuyện, để mà tán tỉnh lẫn nhau, làm khuây khoả nỗi buồn chán ở nơi khỉ ho cò
gáy này.
Ngày ấy các
học sinh đi học chuyên nghiệp và cả các sinh viên học đại học cũng đều do nhà
nước nuôi không. Chế độ sinh hoạt đều rập khuôn theo kiểu trại lính, mà không
được có ý kiến gì khác. Mỗi tháng các học sinh được ăn 15 cân lương thực, trong
đó có đến ba mươi phần trăm là chất độn. Chất độn có thể là mỳ bột hoặc ngô say
ghế lẫn với gạo. Buổi sáng, mỗi người được ăn bữa phụ bằng một cái bánh mỳ luộc
nhỏ như nắm tay trẻ con. Mặc dù cái bánh
chả ngon gì nhưng vì hàng ngày ăn uống luôn luôn thiếu nên dù không ngon cũng
không ai bỏ. Bữa trưa và chiều thì ăn bữa chính có cơm và vài món thức ăn. Đang
sức ăn, sức lớn bây giờ không đủ no nên hầu như anh, chị nào cũng thèm cơm. Có
một điều không biết tại sao luôn thiếu ăn như vậy nhưng các cô, các cậu đều cứ
lớn vượt trội hẳn lên.
Trong mấy
tuần gần đây quân Mỹ tập trung tăng cường đánh phá vào Thái Nguyên nên mỗi buổi
học lớp cứ phải dừng để ra hầm trú ẩn ba bốn lần. Những lần đi sang nhà máy bây
giờ cũng không còn được an toàn nữa. Nhà máy điện Thái Nguyên bị đánh phá mấy
lần liên tiếp. Khu điều khiển trung tâm và cả cầu vượt từ đó sang nhà máy chính
cũng bị làm sập. Rồi cả khu vực đuôi lò cũng bị bom làm hư hại nhiều. Những
tầng tầng, lớp lớp các sọt xỉ che phủ bên ngoài cũng chả giúp che chở được. Cả
khu tập thể và cái căng tin hàng ngày vẫn bán và phân phối nhu yếu phẩm cũng bị
sập đổ tan tành. Số gia đình công nhân ở trong khu tập thể cũng phải sơ tán vào
mãi tận rừng xanh, núi đỏ.
Ban ngày các
lớp đều tập trung vào học lý thuyết cơ sở và lý thuyết chuyên môn, ban đêm lại
sang nhà máy tham gia lao động. Những kiến thức mà các học sinh hàng ngày được
học hầu như mới mẻ hoàn toàn đối với tất cả mọi người. Phần lý thuyết cơ sở bao
gồm có vật liệu cơ khí, điện học, nhiệt học, vẽ kỹ thuật, nguyên lý và cấu tạo
của máy tua bin và lò hơi cho nghề vận hành và sửa chữa lò, máy. Phần học về
chuyên môn thì có các công nghệ gia công cơ khí với ba bốn năm nghề như rèn, gò,
tiện, nguội và cả nghề hàn điện, hàn hơi. Các bài về sửa chữa gồm thêm cả các
phần về tháo lắp, căn chỉnh và cách sửa chữa từng bộ phận khi chúng bị hư hỏng.
Việc học lý thuyết đối với mọi người xem ra rất mơ hồ, chỉ đến khi thực hành
các học sinh mới được vỡ vạc ra đôi chút. Cuối cùng thì khoá học cũng đến lúc
kết thúc sau mười mấy tháng trời vất vả.
Trong thời
gian vừa quaT, ngoài việc đánh phá nhằm ngăn cản ta về mặt quân sự, bọn Mỹ còn
tập trung phá hoại ta về kinh tế. Các nhà máy điện là mục tiêu hàng đầu ở lĩnh
vực này. Trên miền Bắc có mấy cái nhà máy điện thì bấy nhiêu cái bị đánh phá, nên đa số các nhà máy đều đang
cần khôi phục, sửa chữa ngay để kịp thời cung cấp điện cho sản xuất và chiến
đấu. Lẽ dĩ nhiên là rất cần có thêm các công nhân sửa chữa để thực hiện nhiệm
vụ này. Cũng chính vì vậy nên mới qua một năm các học sinh đã phải ra trường mà
chả cần đủ mười tám tháng như chương trình học đã thông tri trên giấy gọi.
Năm nay nhà
trường thay phương pháp tổ chức thi tốt
nghiệp từ việc làm bài trên giấy bằng vấn đáp ngay trên hội trường. Các thầy
phải đổi khối dạy để tổ chức thi cho khách quan. Có lẽ các thầy biết khá rõ về
kết quả học của Hằng nên hầu như các thầy chỉ hỏi những câu hỏi chính mà không
cần đặt câu hỏi phụ nên Hằng thi rất nhanh chứ không như các bạn khác luôn bị
các thầy vặn vẹo cho đến là khổ. Cùng với kết quả thi đạt điểm năm cho toàn bộ
các môn học Hằng được nhà trường khen và được cả Đoàn thanh niên khen về thành
tích học tập và lao động. Sau này thầy giáo chủ nhiệm lớp sửa chữa tua bin có
nói với cả lớp rằng Hằng là một trường hợp chỉ có một từ trước đến giờ và có lẽ
cả về sau này nữa cũng khó có thể có lại trường hợp như thế này một lần nữa.
Đọc đến chỗ này có thể có người nghĩ đây là truyện ký và đoạn trên có phần hư
cấu theo thể truyện. Cũng xin nói rằng đây là đoạn sự thật viết theo thể ký.
Với toàn bộ các điểm tổng kết và điểm thi của các môn đạt điểm năm, Hằng là một
trong những học sinh học vào loại khá nhất của trường lúc đó, nên đi đâu Hằng
cũng được các thầy các bạn biết đến.
RA TRƯỜNG
1
Tất cả các
bạn trong lớp đều đã có danh sách chuyển
về các đơn vị trong ngành. Đoàn thì về ngay nhà máy điện Thái Nguyên, đoàn thì
đi nhà máy điện Uông Bí, đoàn thì đi Hà Bắc, cũng có một số có cha, anh trong
ngành đến tận trường xin chuyển cho con cái của họ. Lớp của Hằng có đến mười
hai người đi Thanh Hoá, số còn lại thì đi Nam Định và bổ sung con số cho các
đoàn khác. Chỉ còn có mỗi Hằng là vẫn chưa có tên ở một đoàn nào. Số nhà gần
thì đã ba lô khăn gói đi ngay từ chiều hôm nghe thông báo, chỉ còn những người
ở xa phải chờ cắt lương thực, hộ khẩu là sẽ lên đường.
Các thầy thì
đi vắng cả, còn lại ai thì cũng bận họp liên miên, chả lẽ lại cứ xông vào chỗ
các thầy đang họp để hỏi thế thì bất lịch sự quá, rõ là sốt ruột mà không biết
làm gì. Cũng đành về nhà cụ Tô Long nằm khèo một chỗ, đánh giấc để chờ vậy.
Giật mình dậy
thì trời đã muộn Hằng vội vàng đi ra Thác Lở để tìm thầy chủ nhiệm. Vừa gặp đã
nghe thầy nói:
- Thầy đi tìm
để thông báo cho em biết quyết định của trường mà không biết em bỏ đi đâu.
Sau khi hỏi
han đôi chút về nguyện vọng thầy kín đáo nói cho Hằng biết quyết định của
trường về việc giữ Hằng lại để làm giáo viên của trường. Thầy dặn cứ bình tĩnh
chờ đợi thông báo chính thức của trường. Lúc chi tay thầy còn nhấn mạnhS, thầy
bảo:
- Việc này đã bàn từ lâu, bây giờ chỉ còn chờ hiệu
trưởng duyệt lại một lần để rồi ra quyết định là xong.
Hằng ra về
với sự băn khoăn lớn mà không biết nói cùng ai. Kể ra mà nói việc được giữ lại
ở trường là điều mong ước của rất nhiều người, chỉ có Hằng là lại không thấy
thích lắm. Cái điều mà Hằng không thích xưa nay là công việc giấy tờ, công việc
ngồi bàn giấy vậy mà ở lại dạy học thì chả phải cái nghiệp bàn giấy đó là gì .
Tuy nghĩ vậy nhưng Hằng không thể nói ra vì nói ra về cái sự thích hay không
thích ấy là không yên tâm công tác, không chấp hành kỷ luật, không chấp hành
nhiệm vụ rồi thiếu vững vàng tư tưởng lập trường. Ngày ấy không kể chỉ có đảng
viên, đoàn viên mà cả những ông bà dân thường khác cũng phải giữ vững lập
trường tư tưởng.
Đã qua đi một
ngày, số học sinh còn lại ở trường chả còn lại bao nhiêu vậy mà Hằng vẫn chưa
nhận được thông báo gì về công tác của cậu. Chiều nay các thầy sẽ họp xong nên
có thể quyết định sẽ khá muộn đây, Hằng nghĩ thế rồi đi đi, lại lại từ nhà ra
trường để chờ thầy chủ nhiệm.
Có lẽ Hằng đi
lại đến ba lượt thì mới gặp được thầy. Từ xa nhìn thấy thầy hình như có chuyện
gì buồn thì phải nên Hằng không vội vã đến với thầy như mọi khi. Cậu cố tìm
hiểu trong đầu và dự đoán linh tinh các lý do có thể xảy ra, nào là thầy gặp
chuyện buồn trong gia đình, thầy có khúc mắc với thầy nào khác trong lúc họp
chiều nay.
Thế rồi cái
sự buồn ấy cũng được thầy nói ra. Câu nói của thầy có vẻ chậm rãi hơn ngày
thường, hình như thầy cố chọn cách nói thế nào cho nhẹ nhàng nhất:
-Trường mình
thế là sẽ phải giải thể em ạ!
Thầy dừng lại
chờ xem Hằng có hỏi gì không. Có lẽ thầy nghĩ cứ để cho Hằng từ từ hỏi còn thầy
giải thích có lẽ sẽ làm cho câu chuyện đi đến đoạn kết bình ổn hơn chăng!
Thế rồi quả
nhiên cách nói của thầy đã đưa được Hằng vào quỹ đạo của thầy. Chờ mãi mà chưa
thấy thầy nói gì thêm Hằng đành hỏi:
- Có lẽ thế
thì trường chẳng cần thêm giáo viên nữa phải không thầy?
Thầy không
trả lời thẳng vào câu hỏi của Hằng mà thầy lại dùng câu hỏi để hỏi lại:
- Không còn
được ở lại trường nữa em có buồn không?
Lần này thì
Hằng lại im lặng làm cho thầy phải nhìn thẳng vào Hằng như có ý bảo hãy trả lời
tôi đi chứ.
Tuy rằng Hằng
cũng chẳng có ham thích ở lại trường nhưng mà từ khi thầy bảo cho Hằng biết,
Hằng coi như mọi sự đã an bài rồi, đến nay lại thay đổi trách nào không thể
không thấy cụt hứng, không buồn, không khó chịu. Hằng cũng không trả lời thẳng
vào câu hỏi của thầy mà lại trả lời thầy bằng một câu hỏi:
- Thưa
thầy…Không biết em sẽ đi đâu?
- Em sẽ đi
Thanh Hoá! Trong ấy họ cần rất nhiều người để khôi phục nhà máy vừa bị đánh phá.
Cũng hơi khó khăn đấy nhưng thầy tin là em sẽ vượt qua!
Đây cũng là
buổi nói chuyện cuối cùng của thầy với Hằng, bởi ngày mai thầy được trường cho
nghỉ phép về quê ở mãi tận Thái Bình đến hơn mười ngày thì phải. Trong câu
chuyện tiếp theo giữa hai thầy trò Hằng nhận thấy hình như thầy muốn khoả lấp
cái sự ân hận vì đã gieo vào lòng cậu học sinh yêu quý của mình một sự mừng hụt
quá lớn.
Hằng không
còn buồn về cái sự ở lại trường hụt nữa mà lại nghĩ về cuộc đi Thanh Hóa của
mình sắp tới với bao nhiêu lo lắng, ưu tư. Hằng cũng nói về điều đó cho thầy
nghe và khuyên thầy đừng buồn về sự việc vừa qua vì thực tế Hằng cũng không
thích ở lại trường. Chắc thầy không tin điều đó là thật mà chỉ cho rằng cậu ta
nói vậy để cố an ủi mình mà thôi. Dù sao thì cả hai thầy trò cũng đã tươi tắn
trở lại. Hai thầy trò chia tay chào đi, chào lại trong khi hoàng hôn đang tím
dần đi nơi xóm núi Thác Lở đầy kỷ niệm.
2
Sau một vài
ngày về qua nhà chơi bời với các bạn bè và người thân Hằng lại gói ghém đồ đạc
để đi nhận công tác. Hằng cũng biết là đi Thanh Hoá bây giờ là vào nơi chiến
tranh nguy hiểm, nhưng cái sự nguy hiểm nó đến mức nào thì Hằng không biết, cho
dù Hằng đã một vài lần gặp các cuộc oanh kích của bọn giặc lái Mỹ ở Mẹt, ở Thái
Nguyên. Tuy nhiên sau mỗi đợt bom rơi đạn nổ thì mọi cái lại trở về trạng thái
yên tĩnh nên cái sự chiến tranh cũng chẳng làm Hằng để tâm đến. Mẹ Hằng thì lo
lắng lắm nhưng thấy con trai cứ tươi hơn hớn thì cũng thấy yên tâm hơn. Bà nhắc
lại câu mà bà bảo đấy là lời bố Hằng nói lại sau khi xem đi xem tử vi của cậu
từ hồi cậu còn bé tý.
- Bố mày bảo
bỏ mày ở bờ tre, mày cũng không chết được.
Bà mẹ của
Hằng là người không biết chữ, nhiều điều mà bà hiểu biết thường ngày đều là do
bà nghe lại từ sự truyền khẩu từ người này qua người khác. Lẽ tất nhiên là bà
rất tin ở chồng vì trong con mắt bà, ông là người hiểu biết hơn nhiều người
khác nên ông đã nói là sẽ không sai.
Cũng không
biết bà có tin thật về lời dự đoán của chồng không hay là bà chỉ muốn nhắc lại
lời của ông để tự trấn an mình khi đứa con trai bé bỏng của mình sinh ra trong
đói rét rồi lại nuôi nấng trong khó nhọc lắm mới lớn được ngần này sắp sửa đi
vào nơi bom rơi, đạn lạc chín phần chết mới có một phần sống.
Hằng ra đi
vào một buổi chiều mùa đông ảm đạm chẳng có cỗ bàn chia tay như nhiều người
khác và chẳng có ai cho quà cáp hoặc tiễn đưa. Cũng vẫn là cái ba lô và một số
đồ đạc mang từ trường về, hôm nay lại vẫn nguyên như thế để ra tầu. Chuyến tầu
đêm Yên Viên sang Hà Nội chuyển tầu đi thanh Hoá tại ga Hàng Cỏ vào lúc hơn
mười giờ. Tầu thời chiến không thắp đèn để phòng máy bay giặc phát hiện đánh
phá vậy mà cũng chật ních như nêm cối. Có lẽ tầu quá dài và lại phải chờ các
tầu khác nên nó đi chậm rì rì như rùa bò. Từ trong tàu nhìn ra chỉ thấy một màu
đen của bóng tối cùng với những lùm cây, nhà cửa cũng một mầu đen thoắt hiện
thoắt ẩn. Bên trong tầu mùi hơi người nồng nặc thật khó chịu, nhất là lúc tầu
dừng lại chờ đợi hàng tiếng đồng hồ. Mọi người đều mệt mỏi thiếp đi dựa ngả vào
nhau im lặng sau khi đã tranh nhau kể về chiến thắng này, chiến thắng khác ở
miền Nam, rồi lại đến chuyện ta bắn rơi máy bay ở chỗ này, chỗ khác trên miền
Bắc.Thực ra thì những tin tức trên đã được các đài phát thanh phát cả ngày rồi
và có lẽ mọi người đều đã biết, thế nhưng mà họ vẫn cứ muốn nói để mà tự hào về
những gì mà ta đã làm được trong cuộc chiến giữa một đất nước nhỏ bé với một
tên đế quốc đầu sỏ đứng đầu cái thế lực thực dân, đế quốc của cả thế giới này.
Trời đã sáng
rõ dần ra, mọi người đã tỉnh cả dậy và trở lại không khí ồn ào, ầm ĩ vốn có ở
chỗ đông người. Tầu đã dừng hẳn lại sau một cú phanh giật lên, giật xuống mấy
lần. Một giọng nói ề à theo kiểu nhà tầu cất lên thông báo về điểm trả khách
cuối cùng bởi cầu Lèn bị hỏng chưa chữa xong, đường từ ga Thanh Hoá ra Lèn cũng
vừa bị hỏng đêm qua, nên tầu tăng bo ở ga Thanh Hoá cũng không ra được. Thế là
lại phải cuốc bộ dài dài đây, thật là cái số không may! Sao mà lắm cái không
may đến thế.
Đang lóc ca
lóc cóc với mấy thứ đồ đạc trên vai sải bước cùng với mồ hôi toá ra ướt đẫm cả
lưng áo thì nghe có người gọi rối lên ở đằng sau. Kể ra thì nghe gọi đúng là
tên mình nhưng cậu lại nghĩ trên đời này thiếu gì người có tên như thế, hơn nữa
chỗ này làm sao mình có người quen được nên cậu chẳng thèm quay lại. Mãi đến
khi có ai đó vỗ vào vai cậu mới giật mình quay lại. Đang định nổi đoá với cái
người vừa làm cậu giật mình thì cậu lại há hốc mồm ra vì không phải ai khác mà
là mấy cậu bạn cùng học một lớp của trường điện Thái Nguyên.
Trông thấy
dáng điệu bơ phờ lôi thôi, lếch thếch của các cậu bạn làm cậu buồn cười quá, tý
nữa thì sặc nước lên mũi. Cậu nghĩ có lẽ mình cũng giống mấy cậu bạn này nên
hết ngẩng lên lại cúi xuống tự ngắm lại mình. Bắt tay nhau xong rồi tất cả lại
cùng vừa đi vừa trò chuyện. Chuyện ồn ào hơn cả là Thạch Văn Bát quê ở Yên Viên,
Gia Lâm. Bát mang ít đồ nên cậu ta đi rất khoẻ, kể chuyện như một cái máy. Lì
xì ít nói hơn cả là Nguyễn Văn Mở quê ở Vân Trì, Đông Anh. Mở vừa thấp lại vừa
bé nhưng gói đồ thì lại to quá trông cậu
ta cứ như một cậu bé con.
3
Quãng đường
đi cũng đã dài mà hình như càng ngày
người đi đường lại càng thưa hơn thì phải. Sau khi vượt qua chiếc cầu sắt không
có lan can được kê đỡ bằng những chồng tà vẹt từ dưới sông lên thì lại đến một
chiếc cầu sắt đầy vết đạn cùng những thanh lan can cong queo rỉ đỏ, những tấm
ván gỗ lát sàn bong ra rải rác trên mặt
thì các cậu không còn đường đi nữa. Đang thất thưởng vừa đi vừa ngó nghiêng,
đoán già, đoán non xem đây có phải là cầu Hàm Rồng hay không thì có một người
mặc quần áo gụ, dáng chừng là một nông dân vội vã đi ngang qua đầu cầu, thế là
tất cả đều xô lại để hỏi thăm. Người ấy cũng không dừng lại mà còn đi nhanh hơn,
vừa đi người ấy vừa trả lời:
- Đây chính
là cầu Hàm Rồng đấy, các anh mau đi nhanh xuống phía cầu phao Nam Ngạn mà sang.
Bây giờ đã gần đến giờ cao điểm, nó lại sắp đánh bây giờ đấy, mau đi nhanh lên!
Nghe đến đây
thì các cậu mới giật mình hoảng sợ vội vàng chạy một mạch bên dưới chân một hòn
núi đá loang lổ vết bom đạn để xuống đê tìm cầu phao Nam Ngạn. Đến khi qua được
cầu phao rồi các cậu mới thấy được cái sự mệt mỏi do quá gắng sức. Mãi cho đến
lúc này Hằng vẫn không khỏi ngạc nhiên về chuyện cái cầu và cả quang cảnh yên
tĩnh trên suốt quãng đường đi từ sớm đến giờ. Hằng không thể ngờ rằng mình đã
vừa đến được Hàm Rồng, nơi mà mới chỉ ít tháng trước đây được nhắc đến như là
một nơi khốc liệt của chiến tranh. Còn nữa, nơi mà cả nước ngưỡng mộ bởi những
chiến công oanh liệt vào loại bậc nhất trên miền Bắc của những con người và
mảnh đất nơi đây. Cái ngọn núi lở lói kia có phải là núi Ngọc hay không mà sao
tất cả đều im lặng, bình thản đến lạ kỳ.
Vừa đi vừa
quay nhìn lại nơi mình vừa mới đi qua Hằng nhận ra một khu vực nhà cửa khá đồ
sộ nhưng đã bị bom đánh trơ ra. Các bức tường gạch đỏ nham nhở vết thương bên
cạnh là những thanh sắt như những con rắn ngóc đầu uốn lượn thành những đường
cong kỳ dị phô cái màu rỉ nâu đỏ trông đến thảm hại. Từ xa nhìn lại ta như thấy
cả sự hoang tàn đổ nát của nó hiển hiện trên bầu trời màu chì xám ngắt, có cái
gì đó làm cho ta phải gai gai trong ý nghĩ về những gì rất nguy hiểm sẽ sắp sửa
xảy ra.
Cầu phao là
những đám tre luồng, ván gỗ hỗn độn lát trên những thùng phao bằng thép nối vào
nhau nổi trên mặt nước. Những khi yên tĩnh các phao được chắp nối vào nhau cho
người và xe đi qua, những khi có máy bay thì lại được tháo ra sơ tán dọc theo
hai bờ đê. Kể ra mà nói thì đáng lẽ ra lúc này cầu đã phải tháo ra để sơ tán,
nhưng vì thời tiết hôm nay có vẻ xấu, giặc Mỹ cũng ít hoạt động vì thế nên cầu
vẫn còn để đến bây giờ. Số khách qua cầu cũng đã được nhắc nhở đi nhanh để cho
các nhân viên tháo cầu sơ tán.
Con đường đê
nối từ đầu cầu phía nam vòng vào giữa làng Nam Ngạn rồi đi tiếp lên phía thị xã
chắc đã nhiều lần được đổ đá nên bề mặt có vẻ cứng. Rải rác có các đoạn bị bom
đánh đã lấp lại nhưng vẫn tạo ra một khoảng lõm gồ ghề khá lớn chứa trong đó
những ổ bụi ngập qua mắt cá chân, mỗi lần có cậu dẫm phải lại làm cho cả bọn
chạy té ra hai bên để tránh. Vừa mới bắt đầu chạm vào đầu làng Nam Ngạn thì cả
bọn gặp hai ông già mặc áo bảo hộ đạp xe đạp từ phía thị xã đi ra. Hằng nghĩ có
lẽ đây là những công nhân ở trong khu vực này nên hỏi có thể họ sẽ biết cơ quan
nhà máy điện ở đâu. Nghĩ thế nào làm thế ấy cậu liền đứng ra gần giữa đường có
ý ngăn họ lại để hỏi thăm:
- Hai bác cho
cháu hỏi thăm một tý ạ? Hai vị khách mặc áo bảo hộ liền phanh xe dừng lại, một
người cao lớn có khuôn mặt rất vui cất tiếng sang sảng hỏi lại:
- Các anh hỏi
gì nhỉ?
Hằng mau mắn
trả lời:
- Chúng cháu
ở trường điện lực được cử về Nhà máy điện Thanh Hoá công tác mà tìm mãi vẫn
không biết cơ quan ở đâu, không biết các bác có thể chỉ đường hộ cho chúng cháu
được không ạ!
- Thế hả!
Chúng tôi là nhà máy điện đây.
Bác cao lớn
vừa trả lời vừa chỉ tay vào người thấp nhỏ đi cùng với mình và nói như có ý giới
thiệu:
- Bác này là
bác Hổ tổ trưởng tổ sửa chữa máy, còn tôi là Long tổ trưởng tổ sửa chữa lò. Có
cậu nào học sửa chữa lò không đấy?
- Dạ, chúng
cháu đều là sửa chữa ạ, có cả lò và máy.
- Thế thì tốt
quá rồi, bây giờ chúng tớ phải ra nhà máy, các cậu cứ theo con đường lớn này mà
đi đến ngã ba Bia thì hỏi thăm đến khu nông lâm thổ sản là nơi phân xưởng cơ
điện sơ tán về đó.
Nói xong hai
ông già lại giơ tay chào rồi tiếp tục lên xe đi ra phía đầu cầu. Tất cả mấy anh
em cũng bắt đầu cuốc bộ về phía thị xã Thanh
Hoá.
4
Vừa đi vừa
hỏi thăm mãi rồi cũng đến được phân xưởng Cơ điện. Những người gặp đầu tiên lại
chính là các cậu cùng lớp quê ở Thái Bình và Nam Định. Sau một hồi líu ríu
chuyện trò, hỏi han nhau xong các cậu vào trước dẫn số mới lên gặp lãnh đạo
trên phân xưởng. Không may cho các cậu là ông quản đốc lại lên nhà máy để họp,
thế là các cậu đành kéo nhau về phòng của các bạn để nghỉ. Số bạn vào trước lại
xuống nhà ăn báo cơm hộ rồi cả lũ kéo nhau ra ngoài phố uống nước. Với cái phố
thị xã thời chiến lúc này thì cũng chẳng có gì đáng kể gọi là ngon để mà đãi
nhau. Quanh đi thì nước mía, quanh lại cũng chỉ có nước dừa, uống mãi chỉ tổ
đầy bụng, thế là lại về nhà. Mệt mỏi và buồn Hằng ngủ một mạch đến lúc mấy cậu
bạn gọi đi ăn cơm mới dậy.
Xuống nhà ăn
cậu thấy ai ai cũng lạ, mỗi người đều có những bộ cặp lồng hoặc ít ra cũng có
mấy cái bát men to để đựng cơm canh và thức ăn mặn còn Hằng chẳng có một thứ
gì. Đang không biết xoay xở ra làm sao thì có một người mang đến cho mượn bộ
cặp lồng men vàng, người ấy lại bảo:
- Mấy thằng
ấy nó ăn xong đã kéo nhau đi chơi hết cả rồi, chú mang đồ vào lấy cơm ăn đi
không có nguội.
Lúc ấy Hằng
cũng không biết anh ấy là ai, mãi đến sau này cậu mới biết người hôm ấy cho
mượn cặp lồng là anh Tảo làm trong tổ máy mà sau này cậu cũng về làm việc ở đó.
Mãi tới chiều
hôm sau số công nhân mới được phân xưởng bố trí về các tổ. Tất cả mọi người đều
được bố trí vào các tổ theo đúng với nghề của mình. Lò về Lò, máy về Máy, chỉ
có một vài người được về các tổ trong mô hình mới của phân xưởng ví như Thảo
thì về tổ Van. Cũng có một số vào trước thì lại bị bố trí sang phân xưởng vận
hành như Nhâm, Hưng, Vũ.
Hàng ngày các
tổ đều phải đi bộ từ nơi ở ra nhà máy để làm việc. Quãng đường đi cắt ngang một
cánh đồng khá rộng, vòng qua làng Đông Tác, bắt vào khe núi Cánh Tiên rồi mới
vào nhà máy. Trên suốt dọc đường là những hố bom sâu hoắm, cái mới giáp vào cái
đã cũ, nếu nhìn từ trên cao xuống ta cảm thấy giống như một cái bánh đa nướng
với những chỗ phồng lên xẹp xuống kề cận bên nhau.
Khu vực nhà
máy còn bị tàn phá càng ghê gớm hơn sau ba ngày từ hai mốt đến hai ba tháng
chín năm sáu sáu. Toàn bộ khu lòng chảo của nhà máy được bao lại bởi phía bắc
là khu công nghiệp máy xay cùng với đường đê nam sông Mã, phía tây là con đường
sắt cùng với cầu Chui chạy dọc chân núi Mắt Rồng, phía nam là dãy đồi Quyết
Thắng và phía đông là núi Cánh Tiên đã bị giặc Mỹ đổ xuống hơn bẩy ngàn tấn bom
đạn. Theo như đài địch tuyên truyền lúc bấy giờ là chúng đã huỷ diệt hoàn toàn
nhà máy điện này của Việt Cộng. Sự thật phải nói rằng hầu như toàn bộ mảnh đất
đã bị cày xới, đào ngoáy lên không còn sót một chỗ nào rộng quá chục mét vuông.
Còn việc có huỷ diệt được như kẻ thù đã nói thì hoàn toàn không, bởi vì sau đó
không lâu nhà máy lại đã phát điện trở lại. Có điều đáng nói là cho dù ác liệt
là thế mà đơn vị vẫn bám lò, bám máy để sản xuất, sự mất mát lớn nhất lúc ấy là
sự hy sinh của một người chiến sĩ tự vệ
nhà máy.
Công việc sửa
chữa chính bây giờ là làm sao để nhà máy sớm đi vào hoạt động. Ngoài những việc
tháo gỡ các dầm xà bê tông nặng hàng dăm chục tấn ra khỏi các thiết bị còn có
một việc là phải hàn vá mấy miếng thủng trên mình nồi hơi. Đây là việc nan giải
nhất cần phải bàn bạc, bởi việc hàn vá nồi hơi là việc không được phép làm trong
quy trình quản lý và sử dụng các thiết bị áp lực.
Thực ra những
người chủ trương hàn vá nồi hơi không
phải họ không biết điều đó, họ đã nghĩ rằng họ có thể gặp điều không may do làm
sai quy trình, nhưng họ hiểu sẽ còn không may hơn là nếu không có điện phục vụ
sản xuất, phục vụ chiến đấu, thì rồi cái sự tàn sát của kẻ thù còn làm cho cái
sự chết chóc lớn hơn thế rất nhiều. Sự quả cảm và ý chí quyết thắng đã cho họ
có một tiếng nói chung là phải làm cho bằng được.
Ngay sau khi
có chủ trương hàn vá nồi hơi là công việc được tiến hành ngay. Những người cán
bộ đảng viên và những bộ phận có chuyên môn này được huy động tới mức cao nhất.
Lực lượng công nhân mới cũng được tập trung vào công việc ngay trong những ngày
đầu tiên về phân xưởng. Đắp lò, cắt phôi, nung phôi cho đỏ rực lên rồi dùng búa
cái bẩy cân thay nhau đánh xuống bề mặt những tấm tôn thép dày gần ba mươi ly
để uốn thành các tấm có hình cong phù hợp với hình dáng của nồi hơi. Rồi cắt
gọt, tạo vát, đánh bóng cả chỗ thủng lẫn miếng vá chuẩn bị cho công nghệ hàn
vá. Sau này Hằng được biết công việc ban đầu mà các cậu đã được tham gia ở một
vài công đoạn đã được thực hiện thành công và được ca ngợi hết lời trong ngành
điện.
5
Những ngày
sống ở ngã ba Bia thật là náo nhiệt, náo nhiệt bởi đám trẻ mới từ vùng ngoài
chuyển vào ăn chơi, phá phách. Chỗ nào
cũng thấy bóng dáng của họ lồ lộ ra bởi sự khác lạ trong ăn mặc, đi đứng, nói
cười, cả trong lúc đi làm việc cũng như trong khi họ vui chơi. Nhất là những
ngày chủ nhật hoặc ngày nghỉ, họ ở xa không thể về nhà được, thế là từng đoàn
kéo nhau đi rong khắp các phố từ sáng đến chiều.
Từ lâu nay
những người dân ở cái thị xã của khu vực giáp khu Bốn miền Trung này luôn sống
rất bình lặng cả về mọi mặt, thế mà chỉ sau có mấy ngày những cái đầu xoáy tây
Đức, những bộ tóc mai uốn cong, những đuôi tóc rậm rạp ốp vào gáy chờm ra cả
bên ngoài cổ áo cứ bất chợt xuất hiện làm cho lớp người lớn cảm thấy khó chịu
khi gặp ngoài đường, còn lũ trẻ mới lớn thì trố mắt ra mà nhìn với vẻ thích thú
và tán thưởng, và cũng không lâu sau đã
gây phiền toái cho những ông thợ cạo về những yêu cầu mới cho những cái đầu của
họ. Lại còn quần áo của họ mới thật đáng sợ, có cậu thì quần bó sát mông, sát
cẳng, có cậu thì lại loè xoè với chiếc quần ống loe mà lỗ miệng gấu quần rộng
đến mức cả con lợn con chui vào cũng lọt.
Chỉ với mức
lương bậc hai thôi nhưng mỗi ngày đến nhà máy là mỗi người lại được thêm tiền
đi đường, tiền độc hại, tiền bồi dưỡng hiện vật thành ra mỗi ngày họ cũng được
gần đến một đồng nữa, nên lương của họ đã tương đương với lương của công nhân
bậc năm chứ đâu phải ít. Lẽ dĩ nhiên là họ tiêu pha xả láng bởi họ đều chưa có
gia đình, chưa phải lo toan cho ai khác ngoài cái bản thân của họ. Nhưng cái
chính là họ xa nhà và lại còn quá trẻ, cái sự ham chơi và cả cái bệnh sĩ diện,
thích tỏ ra mình là người sành điệu ăn chơi theo kiểu thành phố lớn mà ra. Kỳ
thực thì đa số họ sinh ra, lớn lên ở các vùng nông thôn là chính. Trước đó
chưa lâu họ cũng vẫn cày bừa, gặt hái
lăn lê ngoài đồng ngoài ruộng như những người dân thôn quê thực sự chứ cũng
chẳng ghê gớm gì đâu. Tuy chơi bời vậy nhưng sự dũng cảm, lỳ lợm trong bom đạn,
sự cần mẫn, sáng tạo trong lao động sản xuất và các việc hoạt động trong đời
sống hàng ngày thì không ai có thể chê họ vào đâu được.
Công việc
phục hồi nhà máy gần xong về cơ bản thì việc phục hồi nhà máy thuỷ điện Bàn
Thạch cũng đòi hỏi phải nhanh chóng hoàn thành, thế là lại phải thành lập một
bộ phận mới để làm công việc này. Một chuyến ô tô tải với đủ cả người lẫn máy
chồng chất lên đó để đi lên Thọ Xuân làm việc đã khởi hành. Hằng và một số bạn
ở các tổ khác cùng với một số công nhân cũ đã lên Thọ Xuân ngay sau cuộc họp
phân xưởng buổi chiều hôm đó.
Sau khi dỡ
hàng xong thì mọi người được phòng hành chính của Bàn Thạch dẫn đi đến các nhà
dân quanh khu vực nhà máy để ở trọ trong những ngày phục hồi nhà máy. Hằng được
dẫn đến một gia đình ở ngay cạnh đường rẽ vào xí nghiệp Công nông của huyện Thọ
Xuân cũng sơ tán gần khu vực nhà máy. Cũng chỉ kịp ném cái túi du lịch bằng bạt
cùng với chăn màn quần áo xuống cái giường mà chủ nhà dành cho mượn xong là vác
bát ra nhà ăn để ăn cơm tối. Ngoài việc ăn uống các cậu trẻ còn chuyện vãn một
lúc lâu nên mãi tối mò mới về đến nhà trọ.
Rửa ráy xong
xuôi Hằng mang từ trong túi ra bàn một gói bánh nướng cùng với một gói nhỏ các
loại kẹo của công ty bánh kẹo Thanh Hoá làm ra và bán phân phối cho cán bộ công
nhân nhà nước. Gọi là bánh nướng cho sang vậy thôi chứ thực ra thì cái chất
trong nó chẳng có gì. Tất cả đều là bột mỳ trộn đường, ngào nước làm vỏ bọc một
chút nhân bên trong cũng bằng bột mỳ lẫn bột khoai với một tý đậu không biết là
loại đậu nào được trộn nhiều đường hơn một chút cho giống kiểu chè kho ở vùng
ngoài rồi đem nướng lên trong lò như nướng bánh mỳ vậy thôi. Còn kẹo thì càng thảm
hại hơn nữa, nó cũng được trộn bằng bột mỳ với đường rồi nhào lẫn với vài mảnh
lạc rang, cán ra cắt thành thỏi vuông bằng ngón tay cái bọc giấy vào là thành.
Có lẽ nên gọi nó là viên chè lam chế biến hơi khô thì đúng hơn, chè lam còn
được làm từ gạo nếp chứ kẹo của Thanh Hoá lúc ấy thì thật đáng ngại. Cánh công nhân trẻ vẫn quen gọi loại kẹo này
là gạch xỉ tro lò bởi nó tuy nhỏ nhưng màu của nó, dáng của nó có cái kích
thước rất tỷ lệ với viên gạch được đóng bằng xỉ lò với một chút vôi rất chi là
khiêm tốn. Kể ra mà nói thì lúc ấy có
những thứ ấy cũng đã là quý lắm rồi vì chỉ ở cơ quan nhà nước mới được phân
phối còn ở ngoài thị trường làm gì có mà mua vì vậy mà mấy đứa trẻ con nhà chủ
vẫn rất say sưa ăn đến viên kẹo cuối cùng, lẽ dĩ nhiên là các cô, các cậu nhí
rất thích ông anh công nhân trẻ và trắng như con gái vừa đến ở nhà mình.
Sau khi hỏi
han về gia đình rồi quê quán của người đến ở trọ xong cả ông lẫn bà đều xởi lởi
thông báo về hoàn cảnh của nhà để cho cậu khách bất đắc dĩ tiện trong sinh hoạt
hàng ngày. Qua thông báo của nhà chủ Hằng biết được nhà có người con lớn là một
cô bé mới độ mười sáu tuổi cao lều nghều vừa chạy ở đâu về là thụt ngay vào
buồng với mẹ. Thế có lẽ cũng tốt, cũng đỡ cho mình khỏi phải giữ ý, giữ tứ; một
việc mà cậu vẫn rất ngại từ trước đến giờ.
Máy thuỷ điện
của Bàn Thạch công suất rất nhỏ, cả ba máy chỉ có chín trăm ki lô oát, được đặt
đứng xuyên qua ba tầng nhà máy. Phần dưới cùng là buồng xoắn cùng với thùng côn,
các cửa hướng nước và ba cánh quạt của tua bin to như những cái nia. Phần giữa
là cấu trúc ổ trục định hướng bằng cao su cùng với các đường nước lọc bôi trơn
cho trục khi quay. Tầng trên cùng là máy phát điện cùng với thiết bị điều khiển
và các máy ngắt. Tất cả tầng trên được che chắn bằng một giàn gỗ xẻ xếp chồng
lên mấy lớp để phòng khi máy bay đánh phá không làm cho máy bị hỏng quá nặng.
Lần đánh phá vừa qua chỉ làm cho các thiết bị ngoài nhà máy bị hư hại, còn nhà
máy chính có lẽ chỉ bị nghiêng đi một
chút thì phải. Tuy vậy công việc phục hồi cũng không thể một sớm, một chiều mà
xong được.
6
Các công việc
phục hồi cuối năm 1966 của nhà máy điện được kết hợp với việc vét đất cát trên
lòng sông nông giang khơi thông dòng chảy ở phía thượng lưu nhà máy do địa
phương đảm trách nên cùng một lúc có đến hàng mấy trăm người cùng làm việc trên
một khu vực. Những chàng trai, cô gái vừa làm vừa trêu ghẹo lẫn nhau, tiếng hò,
tiếng hát ầm vang tưởng như đất nước đang ở khung cảnh thanh bình nếu như thỉnh
thoảng không có tiếng rít của các máy bay Mic cất cánh bay lên từ phía sân bay
Sao Vàng gần đó để cảnh giới và chặn đánh bọn Thần Sấm, Con Ma của Mỹ vẫn cắn
trộm hàng ngày.
Cũng chỉ
không quá mười ngày thì đám dân công của các xã quanh khu vực nhà máy cũng đã
rút hết chỉ còn trơ lại mấy người công nhân sửa chữa. Công việc phục hồi ở khu
cửa điều tiết, khu âu thuyền và cả các cửa cống thượng lưu tuy nhiều nhưng lại
đơn giản nên số công nhân sửa chữa cũng đã rút bớt về thị xã, chỉ còn bốn năm
người của tổ máy là phải ở lại. Trong số họ hầu như đều đã có gia đình cả chỉ
còn ba người chưa có gia đình thì trong đó Loan đã có người yêu sắp cưới, chỉ
còn mỗi anh Khâu và Hằng là chưa có một tý tình yêu nào. Kể ra mà nói thì cả
anh Khâu cũng đã có ý trung nhân rồi thì phải vì Hằng thấy các anh lớn vẫn nhắc
đến để trêu anh Khâu về một cô Hải nào đó ở cơ khí 250 và một cô Dung nào đó ở
trên khối văn phòng của nhà máy. Thường khi mọi người trêu, anh lại đưa hai tay
ra khoanh một vòng từ trên xuống dưới vẽ ra một không gian dựng đứng thắt nhỏ ở
giữa còn hai đầu thì phình ra cực lớn ý chừng như muốn bảo rằng mấy cô này lùn
tịt còn mông và ngực thì lại quá to nên khó chấp nhận được. Chỉ có Hằng là hoàn
toàn chưa yêu ai cả nên cậu rất vô tư luôn chỉn chu với công việc hàng ngày.
Sau tám tiếng
ban ngày lại đến bốn tiềng ban đêm, về đến nhà là cậu lăn ra ngủ không còn biết
giời đất là gì nữa. Kẻng báo động máy bay khua ầm khắp xóm mà cậu cũng chẳng
chịu ra hầm. Hết bác trai lại đến bác gái chủ nhà vào dựng dậy cậu cũng chỉ
nhỏm dậy một tý rồi lại ngã kềnh ra giường ngủ tiếp. Cũng có lần cậu bị đánh
thức thì bất chợt thấy cô bé Hương con nhà chủ đang lôi tay kéo dậy. Lần ấy vì
thấy cô ấy cầm tay kéo nên cậu đành phải dậy đi ra hầm, tuy vậy nhưng mà cậu
cũng chỉ ngồi ngay trên miệng hầm mà không chịu xuống bên dưới.
Công việc sửa
chữa khó khăn nhất là việc căn chỉnh độ thẳng đứng của cả hệ trục và độ trùng
tâm của các đoạn trục nối với nhau mà từ trước đến nay chưa phải động đến. Lần
này do bị đánh phá nên hệ trục bị sai lệch quá nhiều, nếu không điều chỉnh lại
thì không ai dám quyết định cho chạy máy.
Việc căn
chỉnh độ thẳng đứng và độ đồng tâm của hệ trục được tiến hành bằng cách đo
khoảng cách từ trục ra đến các sợi dây dọi nằm ở bốn hướng quanh trục để biết
độ sai lệch mà điều chỉnh. Việc đo đạc, lấy thông số thường phải làm rất lâu
mới xong. Nhưng để có thể căn chỉnh được thì sai lệch của thông số trong quá
trình đo đạc phải ở trong giới hạn cho phép mới có thể đem ra tính toán được.
Việc này không phải là một việc khó, nhưng lại cần ở người đo có độ thính nhạy
và thật sự đồng bộ giữa đôi tay và đôi tai để đến khi vừa nghe thấy tiếng kêu
sột soạt ở tai nghe là dừng tay vặn Panme thì con số sẽ chính xác. Tuy vậy cái
sự thính nhạy ấy không phải ai cũng giống ai. Chính vì thế mà những người đo có
kinh nghiệm nhất cũng chỉ có thể tóm được một vài lần trong cả chục lần đo. Cái
sự căn chỉnh buộc phải kéo dài có khi cả ngày mà vẫn không xong là thế.
Sau mấy ngày
Hằng cầm các cục pin và tai nghe theo sát người đo mà vẫn không xong được máy
nào thì cậu cũng thấy nản. Lắm khi ngồi chờ đo buồn ngủ đến ríu cả mắt lại. Cứ
mỗi lần thay đổi vị trí là anh Khâu và anh Dưa lại phải gọi cậu dậy để chuyển
chỗ. Mỗi lần bị gọi dậy cậu lại lơ ngơ như mới lạc ở đâu về làm cho các anh ấy
buồn cười đến rũ cả ra:
- Bò lạc của
nông trường đây, chúng mày ơi!
Đo chán lại
nghỉ uống chè và hút thuốc lào, nước
thuốc xong rồi lại đo nhưng cũng chẳng hơn gì. Cũng đã mấy ngày rồi mà
vẫn chưa xong lấy một tổ máy, ai cũng thấy mệt mỏi. Vừa hút xong điếu thuốc anh
Khâu vừa thở vừa phàn nàn về công việc với vẻ chán chường, mệt mỏi. Lưng dựa
vào thành Stato máy phát điện, hai chân để soải ra trên mặt đất anh Khâu ngoái
đầu về phía Hằng:
- Này! Da tay
mày có vẻ mỏng, lần này cho mày đo thử để tao cầm pin cho.
Suốt mấy ngày
phụ đo vừa rồi cậu cũng đã hiểu cách đo rồi nên nghe nói vậy cậu cũng chẳng từ
chối mà đứng lên để đo ngay. Cũng phải mất một lúc lâu cậu mới đo xong tám điểm đo. Anh Khâu đặt bộ
pin xuống để cầm lấy bản ghi các thông số của cậu rồi anh lại bỏ ngay bên cạnh
đó để hút thuốc lào vẻ như không tin là cậu ta có thể đo được.
Đang nói
chuyện với mấy người ngồi cạo rỉ cho đỡ buồn ngủ phía cửa ra vào thì nghe anh
Khâu gọi váng lên:
- Này, cậu
ghi chính xác đấy chứ?
- Vâng! Em
ghi đúng như khi đo từng điểm một mà lại!
- Thôi lần
này cậu đo xong rồi cậu đọc cho tớ ghi xem sao.
Cũng chỉ
trong một thời gian ngắn cậu đã đo xong tám điểm trên trục, lần đo này có vẻ
còn nhanh hơn lần trước. Vừa tháo tai nghe ra, cậu đang định chạy đến chỗ mấy
anh bạn để tiếp tục câu chuyện dở lúc nãy thì anh Khâu lại gọi giật lại:
- Chớ đi vội,
cậu đo lại cho tớ một vài điểm này nữa xem sao.
Hằng lại tháo
dây buộc Panme đo theo chỉ dẫn của anh Khâu, có đến bốn điểm nữa thì anh Khâu
mới bảo dừng lại và ra hiệu cho cậu đi ra. Sau một hồi tính toán anh lại gọi cậu
lại và bảo:
- Này cậu đo
ghi đúng đấy chứ?
- Anh ghi đấy
chứ có phải em đâu!
- Ừ! ấy là tớ
bảo cậu không được đọc số giả đấy nhé!... Kẻo đến khi máy hỏng là cả tớ và cậu
đều vào nhà đá tất.
Dừng một chốc
anh Khâu lại nói tiếp:
- Thôi, hôm
nay thắng lợi cho các cậu nghỉ sớm.
Nhìn đồng hồ
trên tường thấy đã bốn giờ, tất cả đều vòng xuống hạ lưu để rửa tay rồi ra về.
Suốt cả mấy ngày vật lộn với căn chỉnh, mãi đến hôm nay mọi người ra về mới cảm
thấy nhẹ nhõm đi đôi chút.
7
Chiều thứ bẩy
hôm nay tất cả nhóm được xả hơi sau gần một tháng làm liên tục cả ngày sang đêm
không nghỉ. Cái chính là muốn cho một số anh em ở gần về qua thăm nhà chứ còn
cái bọn thân đơn, gối chiếc như Hằng thì chỉ muốn làm nhanh cho xong để về thị
xã cho sớm. Hình như mấy hôm trước anh Côn bên vận hành có hẹn Hằng ở nhà để
nói điều gì thì phải, thế mà đã gần hai giờ chiều rồi vẫn chưa thấy đâu. Chờ
mãi sốt ruột Hằng quyết định đi lên huyện và một vài nơi quanh khu vực xem có
gì hay không.
Vừa dạo bước
trên bờ đê Hằng vừa nghĩ nếu như không có chiến tranh phá hoại mà Mỹ đang tiến
hành ở trên miền Bắc thì có lẽ không khí nơi này chắc cũng rất vui. Làm sao
không vui cho được với một vùng quê đẹp tựa tranh như thế này. Làng Tây Hồ ở
bên trái còn làng Xuân Quang ở về mé bên
phải của con sông nông giang tràn ngập một màu xanh ngăn ngắt của dừa và các
cây ăn quả khác. Xen kẽ với những tán cây là những mái nhà lợp lá kè bàng bạc
cùng với một đôi làn khói đang lên, ta như thấy có một cái gì đó thật là gần gũi,
gắn bó và thân thiết như chính nơi quê hương của mình vậy. Lại nhớ hôm nào mới
đến, dòng sông nông giang nước trong xanh chảy chầm chậm bên dưới chiếc cầu xi
măng uốn cong bắc qua trông thật nên thơ. Một vài con đò nhỏ lách cách gõ mái
chèo đuổi cá. Cũng có lúc thì cả một đoàn các bè tre nứa, luồng gỗ nối đuôi
nhau dừng trước âu thuyền để chờ dâng nước vào âu đi tiếp xuống phía hạ lưu.
Từng đàn trâu bò gặm cỏ trên các triền đê thoai thoải giống như trên nền một
tấm thảm xanh được gắn vào đấy những bông hoa chấm vậy. Xa xa hơn nữa là những
dãy núi nhấp nhô mờ trong sương khói trông thật huyền diệu. Thật may mắn cho
những người có một vùng quê đẹp như thế làm nơi chôn rau, cắt rốn.
Phố huyện Thọ
Xuân cũng chỉ có một vài ngôi nhà của các cơ quan huyện và các cửa hàng là to
lớn hơn cả. Các ngôi nhà dân thì nhỏ bé, kế tiếp nhau chạy dọc con phố. Có đến
hơn một nửa số nhà dân vẫn là nhà tranh, lá lụp xụp. Ngay tại trung tâm huyện
là nơi tập trung một số cửa hàng của nhà nước như cửa hàng hàng thực phẩm, cửa
hàng bách hoá, cửa hàng công nghệ phẩm xen kẽ cạnh nhau. Hàng hoá chủ yếu được
công ty cấp ba phân phối về để cung cấp cho các cơ quan. Qua hết đợt phân phối
là hàng lại hết sạch không còn gì cả. Các hàng lẻ của tư nhân cũng chẳng lấy gì
làm phong phú cho lắm, vì hàng ở đây cũng đều do được tuồn từ nơi sản xuất của
nhà nước ra là chính. Người bán cũng chỉ muốn ăn chênh lệch một chút gọi là đối
với những người không có tiêu chuẩn cung
cấp.
Toàn bộ cái
thị trấn ở vùng trung du này nằm trong diện gần như nghèo nàn nhất trong cả
nước. Có lẽ do sống trong cảnh thời chiến nên họ cũng chẳng muốn củng cố, xây
dựng làm gì, vì nay bom, mai đạn chả biết có được nguyên vẹn hay không. Sau khi
vào hàng kem mậu dịch ăn vài cái cho đỡ nhớ Hà Nội rồi Hằng lại cuốc bộ để về
Bàn Thạch.
Cũng đến nhá
nhem tối Hằng mới về được đến nhà ăn tập thể. Bác Trường cấp dưỡng mang cho
Hằng một bát cơm to và một bát canh rau ngót, một chốc bác mới lại mang ra cho
cậu một đĩa thịt kho, bên cạnh lại còn có một khúc cá nheo hầm lá riềng thơm
phức.
- Bác Trường
ơi! Sao hôm nay phong phú thế?
- À chả là
cậu về hơi muộn nên tớ để dành hơi khá hơn một chút!
- Thế thì hôm
sau cháu lại về muộn.
- Còn có hôm
sau nữa ấy à! Có mà tớ cho cậu nhịn vì tớ cũng phải về nhà với vợ con tớ chứ.
Đến lúc này
cậu mới nhận ra là cậu đã làm phiền bác Trường thì chuyện đã rồi. Cậu vội nói
như là có ý xin lỗi bác:
- Đến lúc đó
bác cứ treo ngoài bờ rào cho cháu!
- Thế có mà…!
Bác Trường
vừa nói đến đây thì đã nghe ồn ồn ngoài cửa nhà ăn, đúng là giọng ông Khâu rồi!
Không biết có chuyện gì mà hối hả thế không biết được. Vừa thò đầu vào cửa nhìn
thấy Hằng là anh đã phán một thôi một hồi làm cho Hằng không kịp hiểu điều gì
ra điều gì cả.
- Này cậu có
biết người ta đợi bao lâu không hả?
- Chiều nay
anh cho nghỉ cơ mà? Có việc gì đột xuất thế anh?
- Này cậu
cũng thiên biến vạn hoá vừa vừa chứ, hôm nọ mới bảo chưa có cô nào thế mà hôm
nay có đến hai cô đến hỏi thăm có chết không chứ?
- Anh nói thế
nào chứ mãi hôm nay em mới được đi chơi làm gì có quen ai mà có người đến hỏi
thăm! Có chăng là mấy cô dân công ở Xuân Thành hôm vào thau bể lọc thì anh cũng
biết rồi còn gì? Với lại hình như họ có cảm tình với anh thì đúng hơn chứ không
phải cảm tình với em.
- Chả lẽ cái
cô Ba, Tư nào đấy tròn như cái hạt mít ấy lại không phải là bạn của cậu?
- Làm gì có!
Em thề đấy!
- Hay là cô
ấy hỏi thăm Hằng gò nhỉ? À mà hai cô này là do ông Côn điếc miền Nam dẫn đến
mày ạ.
8
Cơm nước xong
cả hai anh em lại cùng ra về. Vừa đi Hằng vừa nghĩ chả lẽ anh Côn hẹn mình
chiều nay đến là vì việc của hai cô này. Không có thể thế được, vì từ khi mình
vào Thanh Hoá mình chưa quen ai, chắc có lẽ là hai cô này quen một Hằng nào
khác mà anh Côn ngộ nhận là mình. Mọi việc rồi cũng qua đi, mãi cho đến chiều
hôm sau đang định theo hẹn đi chơi với mấy anh ở vận hành thì anh Côn đến, anh
Côn đến còn dẫn theo hai cô gái thật, đúng là hai cái hạt mít như anh Khâu nói
tối qua. Nhìn xa thì thấy hình như hai người này cũng hơi quen quen nhưng không
làm sao nhớ ra được. Mãi đến khi ba người vào đến cửa rồi mà Hằng vẫn như người
mộng du ở đâu ấy. Chỉ đến khi một cô gái bật quát lên:
- Không nhớ à!
Tuyn, Tuýt, Tư đây! Đã nhận ra chưa?
Đến lúc nay
thì Hằng mới bừng tỉnh và nhận ra mấy cô gái Thanh Hoá cùng học năm lớp bẩy hồi
nào.
Ngày ấy ba cô
gái quê Thanh theo người nhà ra Hà Nội sơ tán. Chả biết thế nào lại vào học
cùng lớp với Hằng ở tận trường Cổ Loa. Tuy Hằng không quen thân lắm nhưng mà
cũng đã có lần họ đến thăm nhà của Hằng. Lúc ấy họ có nói quê ở Thanh Hoá nhưng
Hằng chẳng để tâmN, chỉ là nghe rồi biết vậy mà thôi. Thế mà làm thế nào quả
đất quay tròn họ lại gặp nhau tại nơi xa tít mù tắp này cơ chứ?
- Này thế còn
Tuyết cao đâu mà không thấy?
- Tuyết cao ở
lại học tiếp cấp ba, chỉ có mình và Tư là về nhà thôi.
- Thế chả lẽ
quê của các bạn lại ở đây à? Từ ngày ấy đến giờ các bạn đã làm gì rồi?
Cả hai đều
gật đầu thay cho câu hỏi, mãi sau rồi Tư cũng lại trả lời tiếp:
- Bọn mình về
giúp nhà làm ruộng thôi… Mãi hôm rồi nghe anh Côn nói có cậu ở Cổ Loa vào mình
đoán ngay là cậu nên ra thăm xem đã có gì đổi mới chưa!
Tư vừa nói
chửa dứt lời thì Tuyên đã cướp lời nói tiếp:
- Này, đợi
suốt cả chiều hôm qua mà không thấy về. Chắc đã có cô nào ở gần đây hay sao mà
đi kỹ thế không biết?
Mấy người bạn
đã lâu mới được gặp nhau nên có không biết bao nhiêu là chuyện. Hết người này
lại đến người kia hỏi rồi trả lời. Đầu tiên là hỏi về những người đang có mặt,
tiếp sau đó là hỏi và trả lời về những người bạn mà họ cùng quen biết. Hằng cho
họ biết ngoài Hằng có mặt ở Thanh Hoá còn có cả Nội, Thảo ở lớp 7A cũng đã vào
Thanh nhưng họ còn ở Hàm Rồng. Cánh trẻ mải chuyện đến nỗi gần như quên hẳn sự
có mặt của anh Côn, mãi đến một lúc lâu sau anh Côn mới có dịp chen vào câu
chuyện được. Bằng giọng nói đặc sệt của vùng quê Nam Bộ anh kể về cuộc gặp của
anh và Hằng. Cũng qua câu chuyện của hai người mà anh biết được Hằng có quen
với mấy cô gái của làng Tây Hồ. Bất ngờ hơn cả là việc anh chính là chồng chị
Lượng là cán bộ phụ nữ ở xã Dục Tú của Hằng. Đến lúc ấy thì Hằng mới hiểu ra
mọi sự. Thì ra bữa trước hai anh em kể cho nhau nghe về chuyện của mỗi người
thì anh đã biết cái sự quen biết của mấy người rồi mà anh không nói gì cho Hằng
biết, có lẽ anh muốn để cho Hằng bị bất ngờ như thế mới vui. Câu chuyện lại
được chuyển sang những đề tài mới kéo dài đến mấy tiếng đồng hồ mà hình như vẫn
chưa cạn. Đến gần bốn giờ thì anh Côn nói anh phải đi ca chiều nên anh sẽ về
trước, anh dặn Hằng đưa Tuyên và Tư về
sau.
Cứ mỗi lần
nhìn hai cô gái Hằng lại bật cười chả là vì ngày ấy ba cô gái Thanh vào lớp học,
Hằng có hỏi tên của từng người để ghi vào sổ điểm thì cô Tuyên đã mau mồm, mau
miệng chỉ vào từng người rồi cất đúng cái giọng Thanh Hoá của mình lên để giới
thiệu:
- Tôi là Tuyn,
đây là Tuýt còn đây là Tư…
Tuyên cũng
mới chỉ nói đến đó thì tất cả những người đứng xung quanh đều đã bật cười ầm cả
lên. Chả là vì tên của họ khi nói bằng tiếng Thanh Hoá đều mất đi chữ Ê thế nên
các bạn vùng ngoài mới bật cười như thế.
Chuyện thêm
được một lúc nữa thì cả hai cô cũng từ biệt để về. Hết chào đi, chào lại rồi
lại hẹn đến chơi nhà mãi rồi mới chia tay được. Hai cô chắc là sợ bạn bè biết
được sự quen biết này sẽ lại trêu đùa nên không cho tiễn mà chỉ tự mình đạp xe
lai nhau về. Với lại nếu Hằng muốn đi tiễn thì cả ba sẽ lại cùng đi bộ vì Hằng
đã làm gì có xe đạp.
Đến lúc ăn
cơm buổi tối thì Hằng phải chấp nhận sự quen biết hai cô gái tròn như hai cái
hạt mít với anh Khâu và tất cả mọi người. Tất nhiên là cậu lại phải kể toàn bộ
câu chuyện ban chiều cho cả nhóm cùng nghe.
Vừa nghe kể một số anh trong nhóm cũng lại xen vào trêu cợt:
- Này cậu nói
thế nào ấy chứ? Đã học mãi với nhau, lại đến nhà nhau rồi thế mà lại nhanh quên
đến thế cho được!
- Thì em nói
thật mà lại!
- Thế nào mà
chả có tý cảm tình hay là cậu định giấu chúng tớ thì bảo. Này đến lúc có chuyện
gì… thì đừng có bảo chúng tớ đứng ra giúp đấy nhé!
Mọi người đều
cười ồn cả lên rồi kéo nhau ra nhà máy làm thêm giờ buổi tối.
9
Công việc
phục hồi kết thúc xong thì cũng đã vào ngày hai mươi sáu tết. Những đồ dùng nặng
chuyên dụng đã được lau chùi bàn giao cho anh Đà là công nhân sửa chữa theo ca
của Bàn Thạch cất vào kho của nhà máy. Một số dụng cụ cầm tay thì anh em có xe
đạp đã chở về Hàm Rồng từ chiều hôm qua. Cả nhóm chỉ còn ba anh em Khâu, Hằng
và Loan ở lại chạy nghiệm thu rồi chờ xe lên đón về sau.
Việc nghiệm
thu cũng rất nhanh chóng vì phần cơ sử lý tốt hơn hẳn so với mọi lần. Máy chạy
êm không hề có một tý rung động nào. Việc hòa điện lên lưới của máy thuỷ vốn đã
rất dễ nay lại càng nhanh hơn. Cánh anh Tiếp kều nhận máy cười tươi rói bắt tay
cánh cơ điện ra ý chúc mừng.
Ba anh em chờ
suốt cả ngày hai bẩy sang ngày hai tám tết vẫn chẳng có xe. Mãi đến gần tối
ngày hai tám ông Huy quản đốc mới báo tin là phân xưởng Cơ điện đang phải tập
trung sơ tán khỏi thị xã lên cây số tám Rừng Thông nên không có xe, các anh em
ở lại qua tết hãy về. Vừa buồn, vừa chán, mấy anh em đi rong khắp nơi quanh khu
vực rồi lại về ăn cơm ở bếp tập đoàn. Xung quanh khu vực từ các nhà dân đến nhà
công nhân cơ khí huyện cũng đang ráo riết chuẩn bị cho đón tết. Nào là các mặt
hàng về thực phẩm, hàng nhu yếu phẩm và cả đến những hàng xa xỉ phẩm dùng cho
tết cũng đã được bày đặt đầy ở các chợ. Các cơ quan cũng đã tổ chức đi lấy hàng
từ các cửa hàng công nghệ về cho đơn vị của mình. Chỉ có ba anh em là phất phơ
đây đó chả biết làm gì.
Tối ấy Hằng
đi ngủ muộn nên đến sáng hôm sau trời sáng rõ rồi mà cậu vẫn còn ngủ say mê
mệt. Các bác nhà chủ cũng không muốn gọi cậu dậy sớm vì họ nghĩ cậu phải ngủ bù
đợt phục hồi vừa rồi. Vẫn đang còn say sưa trên giường thì đã thấy anh Khâu vào
kéo dậy.
Vừa bị dựng
dậy, còn ngái ngủ nên Hằng chẳng biết anh Khâu vừa thì thầm bên tai điều gì.
Mãi đến hơn mười phút sau cậu mới hiểu ra câu chuyện anh Khâu kể về nội dung
cuộc họp của bộ phận công đoàn Bàn Thạch bàn soạn về việc tết cho mấy anh em
bên Cơ điện mà anh nghe được tối qua. Chả biết cái sự bàn bạc có những ý kiến
thế nào mà anh Khâu bảo anh đã nghe được có một vài ý kiến không vui vẻ lắm khi
phải chia sẻ hàng tết cho số khách bất
đắc dĩ là cánh ta.
Không ai còn
lạ gì hoàn cảnh của cả nước trong những năm tháng chiến tranh. Cho dù chỉ là
vài cân ngô răng ngựa mọt mang ra để trợ cấp thôi cũng phải xét lên, xét xuống
mới xong được, huống hồ đây lại là những hàng nhu yếu phẩm phân phối theo tiêu
chuẩn của từng người, làm sao mà chẳng có ý kiến lên, ý kiến xuống. Tuy vậy khi
nghe nói có một người nào đó cứ cân lên, đặt xuống một cái việc rất chi là vật
chất mà lại dính dáng đến mình thì cũng chẳng lấy gì làm hài lòng cho lắm. Cũng
chính vì thế mà sau khi nghe đến câu chuyện trên thì tất cả ba anh em đã quyết
định đi bộ về đơn vị cũ để tránh làm khó dễ cho đơn vị bạn. Thế là sáng hai
chín tết năm 1966 ba anh em khăn gói quả mướp cuốc bộ gần bốn mươi cây số để về
thị xã.
Ngay từ tám
giờ sáng cả ba người đã bắt đầu khởi hành. Đầu tiên đi dọc theo sông nông giang
trước nhà máy để xuôi về Hậu Hiền rồi về tới Ngã ba Chè và đến gần sáu giờ tối
hôm đó thì về đến cây số tám Rừng Thông. Phân xưởng cũng vừa hoàn thành chuyến
di chuyển cuối cùng về sân kho của một địa phương cạnh đường. Ông Tư quản đốc
cũng chỉ kịp gặp bắt tay, hỏi han qua loa ba người xong là lại tiếp tục chỉ đạo
công tác quản lý số hàng ở sân kho. Hàng nhiều nhất chỉ là của bộ phận cơ khí
còn các tổ khác thì chẳng có bao nhiêu. Sau một hồi giúp các tổ thu dọn vật
liệu xong thì Hằng mới đi về nơi ở của tổ ở trong làng Bản Nguyên. Trời thì tối
nên Hằng chả biết cái làng ấy nó rộng hẹp, đẹp xấu ra sao, mãi đến khi vào gia
đình ở trọ thì Hằng mới nhận ra số anh em trong tổ qua ánh đèn dầu. Vừa đặt túi
du lịch và các đồ dùng xuống là cậu ngồi bẹt ngay xuống đất mặc kệ anh chủ nhà
kêu đứng lên để anh giải chiếu.
- Anh cứ mặc
kệ em, người em bẩn lắm, vừa rồi em lại bê vác một số đồ đạc cho tổ cơ khí nên
cả tay cũng bẩn lắm.
Sau khi đã
sắp xếp các bộ phận đâu vào đó thì cũng đã hơn mười giờ. Hằng được bố trí nghỉ
ngay tại nhà anh chị chủ vừa đến mà không phải chuyển đi, thế là cậu lăn ngay
ra ngủ một chập đến tận sáng hôm sau.
Tết đến mà
như không ai biết gì về tết, người ta vẫn phải đi chuyển đồ đạc, còn nhân dân trong
vùng thì cũng đang củng cố hầm hố để đề phòng giặc Mỹ leo thang gay gắt hơn
trong thời gian tới. Bên cạnh đó lại còn việc phải cấy xong lúa chiêm xuân và
các hoa màu khác nên hợp tác cũng chỉ nghỉ có hai ngày tết mà thôi. Tết thời
chiến cái gì cũng gấp rút, cái gì cũng gọn nhẹ, cái gì cũng giảm tiện.
Thế là lần
đầu tiên trong đời Hằng ăn tết ở xa nhà, xa những người thân. Tết mà như là
không tết (!)
10
Những ngày
tết đi qua thật nhanh chóng, tất cả mọi người lại tiếp tục với những công việc
thường ngày của mình. Những trận đánh phá của kẻ thù ngày một dầy thêm, ngày
một ác liệt thêm. Rất nhiều nơi xung quanh khu vực Hàm Rồng bị thiệt hại về
người và của. Những trận địa pháo phòng không bố trí ở trên các đỉnh đồi hàng
ngày phơi lưng ra để hứng những trận mưa sắt thép, rất nhiều các chiến sĩ đã hy
sinh. Nhưng cũng chính những con người quả cảm ấy đã từng ngày giữ vững cây cầu
nối liền huyết mạch giao thông từ Bắc vào Nam, từng ngày ghi thêm những chiến
công vào trận chiến lớn lao của cả dân tộc trong cuộc đối đầu với tên giặc hung
dữ nhất của thời đại.
Không chỉ có
những chiến sĩ trực tiếp đánh giặc ở phương Nam, không chỉ những chiến sĩ ngồi
trên mâm pháo bắn vào kẻ thù, còn cả những người lao động cũng ngày đêm đứng ở
nơi trận địa ác liệt nhất để giữ vững công việc sản xuất ra thóc, gạo, ngô,
khoai, thịt, cá, muối, rau nuôi sống mọi người họ cũng đã như những người lính
xung trận góp phần vào chiến thắng chung to lớn ấy.
Những người
công nhân ngành điện lại càng gặp nhiều nguy hiểm, khó khăn hơn khi kẻ thù ngày
đêm nhằm vào những nơi như thế để mà đánh phá, để mà huỷ diệt. Mỗi ngày từng
kíp thợ lần lượt thay nhau vào cái pháo đài đầy thương tích để sửa chữa và vận
hành khối bê tông, sắt thép ấy để tạo ra năng lượng điện phục vụ cả xã hội. Tất
cả những người từng hiểu biết về công việc của những người thợ điện đều yêu mến
và cảm phục về sự quả cảm của những người thợ chiến sỹ trong cái “Pháo đài 44
anh hùng” trên quê hương của họ.
Từ mấy năm
qua bọn giặc trời đã đánh hàng trăm trận bom vào khu vực cầu Hàm Rồng và những
vùng lân cận. Nhà máy điện cũng là một mục tiêu mà bọn giặc luôn tìm cách huỷ
diệt nên không lần nào đi ngang qua mà chúng không sẻ cho nhà máy một vài loạt
bom, Rốckét. Điều đó cho thấy khi bước chân vào nhà máy những người thợ cũng
không khác gì một người lính xung phong cảm tử. Người ta có thể nói về việc
quen thuộc của con người đối với môi trường và sự vật chứ còn nói là quen thuộc
với hiểm nguy và chết chóc nghe ra thật khó chấp nhận. Tuy vậy một khi chung
sống với hiểm nguy và chết chóc nhiều cũng làm cho người ta dạn dĩ hơn, thông
minh hơn và biết cách tránh được một phần những điều không may mắn.
Cũng phải nói
rằng sự hy sinh, quả cảm của mỗi người cộng với sức lôi cuốn của cả một cộng
đồng to lớn với phong trào sản xuất, chiến đấu vì Tổ Quốc đang sôi lên trên cả
nước đã tiếp sức cho họ, nên suốt mấy năm qua chưa có một người công nhân thợ
điện nào chịu rời bỏ vị trí công tác của mình, mặc dù họ biết có thể chỉ ngày
mai thôi họ sẽ không có mặt trên đời này nữa.
Sớm nay 12
tháng 6, trời có vẻ trong sáng hơn mọi ngày thường, những ngày tháng sáu là
những ngày có thời gian ban ngày rất dài. Cũng chỉ còn gần mười ngày nữa là gặp
ngày hạ chí, ngày dài nhất trong năm. Mọi ngày bằng giờ đã nghe bộ đội trên đồi
pháo báo động đến cả chục lần, vậy mà hôm nay lại có vẻ im ắng khác thường.
Những biểu hiện như trên dường như lần nào cũng dự báo có sự việc nghiêm trọng
sẽ xảy ra. Lãnh đạo đơn vị cũng đã mấy
lần qua các nhóm nhắc phải sẵn sàng đến nơi trú ẩn gần nhất và nhanh nhất khi
có báo động. Trong cả cái khối hộp gạch và bê tông sứt sẹo ấy cũng chỉ có khu
hầm lò là có vẻ chắc chắn hơn một chút, còn tất cả đều mỏng manh chỉ cần có một
vật nặng độ vài tạ rơi xuống là đã xuyên thủng mái nhà rơi xuống đến tận mặt
sàn tầng trệt, huống hồ nếu là một trái bom với sức công phá lớn thì chẳng chỗ
nào có thể chịu nổi, kể cả cái hầm lò vừa nói trên kia.
Những người
công nhân họ thường nói đùa với nhau rằng hôm nay chưa chắc bọn giặc đã đến,
đến chưa chắc đã đánh vào nhà máy, đánh vào nhà máy chưa chắc đã trúng, trúng
chưa chắc đã vào nóc lò, vào nóc lò chưa chắc đã nổ, nổ chưa chắc đã phá được
xuống đáy, xuống đáy chưa chắc đã có thể chết hết được. Thế rồi tất cả cùng
cười, cùng động viên lẫn nhau và rồi chả bao lâu sau đã nghe tiếng kẻng báo yên
của bộ đội từ trên đồi Quyết Thắng, họ lại tiếp tục với các công việc như không
có chuyện gì xảy ra.
Những năm
tháng ấy thật hào hùng và thật tươi đẹp. Mỗi người như mỗi bông hoa tươi, trên
từng cánh của nó hầu như không có một tý dập nát, một tý đốm lạ mầu, và cả
không có một mảy may quăn mép. Những con người ở vào những năm sau này sẽ đáng
tiếc biết bao khi đã không một lần được sống trong những phút giây như thế, cho
dù họ có thừa mứa về điều kiện vật chất và những điều kiện hiện đại khác mà
ngày đó chưa có được.
Không khí yên
tĩnh kéo dài thường làm cho người ta dễ sinh chủ quan, mất chủ động và chỉ mới
chưa hết nửa hồi kẻng báo động từ đồi pháo thì đã nghe thấy tiếng nổ ùng ục
khắp bốn xung quanh nhà máy. Chưa kịp bám vào cây cột bằng ống kẽm vẫn dựng ở
chỗ lỗ thủng của nền tầng hai cho các công nhân tụt xuống đã nghe từ phía trước
nhà máy có tiếng đổ rất nặng. Vật gì có thể tạo ra được âm thanh nặng nề đến
vậy, nếu không phải là cái ống khói của nhà máy bị đổ. Vừa kịp nghĩ đến đó thì
cả cái hầm lò đã tối đen như mực, bụi than, bụi gạch phả đầy cả vào mồm. Cái
câu “chưa chắc đã trúng” có lẽ không còn hiệu nghiệm nữa, thế nhưng hình như
tất cả chưa ai làm sao cả thì phải. Có nghĩa là “trúng cũng chưa chắc đã làm
sao…” vẫn hiệu nghiệm đấy chứ.
Những hồi
kẻng báo yên đã vang lên và bụi khói trong hầm lò cũng tan dần, mọi người cũng
đã nhìn thấy nhau. Trời ơi! Thật là kinh khủng! Tất cả đều đã đen thui kể cả da
thịt lẫn quần áo, không còn ai nhận ra ai. Tiếng nói thì khẳn đặc thành ra mọi
người nhận ra nhau chỉ còn cách dự đoán qua khổ người và hình dáng đi đứng
riêng hàng ngày mà thôi.
Cột ống khói
cao tướng hàng ngày đã đổ gẫy ra làm mấy khúc, cứ như ai đó nhặt ở đâu những
vòng cống khổng lồ đem về đặt trước nhà máy. Một trái bom hai trăm năm mươi cân
đã chui qua khe của giàn ống đứng không
nổ mà tự rách theo chiều dọc rồi nằm kẹt giữa các khe ống, giống hệt quả bom
xuyên qua trần gian máy cũng xé dọc thân mà không nổ, rơi ở đầu bình ngưng số
một vài năm trước đây. Dù sao thì tất cả đều đã không ai làm sao cả và những
câu nói đùa lại có dịp được cất lên rôm rả hơn bao giờ hết.
Thử lửa? Thử
lửa ư? Chắc hẳn là thế rồi…! Cái chết đã lướt qua mạng sườn của họ không chỉ
một vài lần. Chỉ có điều nói đến cái sự thử lửa mà lại hài hước đến vậy thì cái
sự thử lửa ấy dễ làm cho người ta nghĩ là câu chuyện sân khấu. Xin nói với độc
giả rằng tôi đã cố gắng hết sức để diễn cảm ý nghĩ thực lúc đó và không tô vẽ
thêm một chút nào.
Sau trận bom
nhà máy buộc phải dừng lại để sửa chữa phục hồi vì không phải chỉ có ống khỏi
đổ mà cả khối giàn ống đứng, giàn ống nghiêng, bộ sấy không khí, bộ hâm và
nhiều khối thiết bị khác cũng bị hỏng hoàn toàn. Những người công nhân vẫn bám
chặt lấy lò máy của họ để rồi nghĩ ra trăm phương ngàn kế phục hồi lại lò máy
và họ đã làm được tất cả.
TÌNH YÊU
1
Công việc sửa
chữa phục hồi nhà máy điện Hàm Rồng lần này có rất nhiều hạng mục. Phần thiết
bị đều tập trung ở khối lò hơi của tổ
sửa chữa lò. Phần máy hầu như chỉ phải kiểm tra bảo dưỡng sơ bộ ở phần thiết bị
phụ. Cũng do công việc của lò nhiều quá nên phân xưởng giao thêm cho tổ sửa
chữa máy sửa chữa một số các thiết bị lẻ của lò hơi như hệ thống thổi bụi cho
các giàn ống sinh hơi, giàn ống quá nhiệt, máy kéo ghi, và chế tạo lại bộ sấy
không khí. Công việc của tổ lần này chủ yếu cần nhiều đến sức khoẻ nên tổ bố
trí nhóm công tác gồm các thanh niên là chính.
Vừa ở công
trường lắp cụm phát điện Điêdel ở Đa Nê, Yên Định về đến đơn vị đóng ở làng Vồm
được mấy hôm, Hằng đã phải nhập vào nhóm phục hồi để đi xuống Hàm Rồng công
tác. Để cách xa vùng trọng điểm đánh phá của kẻ địch mà lại gần nơi sản xuất
nên đơn vị đã liên hệ cho các nhóm công tác đóng ở hai làng là Định Hoà và làng
Đại Khối. Nếu cứ chiếu theo đường thẳng thì từ chỗ ở đến nhà máy cũng không quá
hai cây số, nhưng ai có thể vượt qua mấy chục đỉnh núi nên đành phải đi vòng xa
đến gần năm cây số mới tới được nhà máy.
Cũng do Hằng
đi công tác về muộn nên khi xuống Đại Khối phải trọ một mình ở một nhà. Nhà
Hằng trọ là nhà một ông cán bộ huyện, có lẽ ông cũng có chức vị khá nên gia
đình ông cũng được xếp vào loại có kinh tế so với số đông các gia đình trong
làng. Chỉ có bà vợ cả và mấy đứa con nhỏ ở nhà, còn ông cán bộ huyện mà làng
xóm vẫn cứ gọi ông là ông Thơi thì thường vắng nhà luôn.
Hằng được gia
đình nhà chủ bố trí cho nằm ngủ ở một chiếc giường lim kê sát với gian buồng
bên phải, kế theo đó là gian giữa kê bộ bàn ghế gỗ đóng khá chắc chắn, có lẽ
cũng được làm bằng gỗ lim nên nó có mầu đen hơi thẫm. Chỉ từ sau khi Hằng đến ở
bộ bàn ghế mới có vẻ được chăm sóc, còn trước đó có lẽ bộ bàn ghế này hàng ngày
hầu như ít ai sử dụng đến nên mặt ghế có phần khô xác mà không bóng nhẵn như
của mọi nhà. Sau này Hằng mới biết nhà vợ hai của ông Thơi cũng ở không xa hơn
nhà bà cả bao nhiêu, mỗi lần về có lẽ ông Thơi ở nhà bà hai nhiều hơn thì phải.
Qua lại trên
đất Thanh Hoá cũng đã nhiều nơi nhưng không đâu lại có phong tục như làng Đại
Khối, ở đây người ta gọi mẹ đẻ ra mình là chị, còn chị gái thị lại gọi bằng ả.
Dò hỏi mãi về sau Hằng mới biết nguyên do là làng có tục thờ Thánh Mẫu nên họ
kiêng gọi tiếng mẹ, chính vì thế mà họ đã gọi chệch đi hai ngôi nói trên.
Đến làng Đại
Khối cũng đã lâu mà Hằng cũng chẳng đi đâu, ngoài đi làm hàng ngày ở nhà máy.
Các buổi tối về nhà chủ Hằng chỉ chăm chú đọc sách về kỹ thuật và các cuốn tiểu
thuyết dày cộp mà Hằng nhặt được ở các cửa hàng sách và các thư viện dưới thị
xã bị đánh phá bỏ bừa ra đó. Nhà ông Thơi cũng có cô con gái lớn tên là Thảo
nhưng cô này lại ở cùng với bà hai, chỉ thỉnh thoảng mới thấy cô rẽ về nhà mẹ
cả vào các buổi tối.
Mấy ngày gần
đây làng Đại Khối tập trung vào việc đánh tranh rạ để lợp nhà và các công trình
của hợp tác xã. Có lẽ vì sân nhà mẹ cả của cô rất rộng nên đã mấy ngày nay cô
Thảo về nhà thường xuyên hơn để bàn với mẹ cả về việc đem rạ về đánh tranh ở
nhà mình. Mỗi lần cô về nhà là cô kéo theo về mấy cô bạn nữa làm cho không khí
trong nhà ầm ĩ cả lên. Những lúc như thế Hằng thường bỏ đi chơi bên nhà cụ Tú
để tránh các cô cho đến khi thấy im ắng
rồi mới về nhà. Cũng chỉ tránh được mấy ngày thôi bởi ngay sau đó cô
Thảo đã cho chuyển về nhà hàng đống rạ lớn và cứ tối đến là cô cùng với cả đám
bạn tập trung ở đó đánh tranh.
Bắt đầu là
các câu chuyện rì rào nho nhỏ thế rồi câu chuyện rộ dần lên và chẳng bao lâu
sau đó là gọi, là hỏi, là trêu nhau, rồi thì cười, rồi thì hát, rồi thì hò hét
đến inh tai nhức óc. Cũng đã có một vài cô động chạm đến cái người lúc nào cũng
im như thóc ngồi đọc sách trong nhà bằng những câu hò với những lời bóng gió.
Người ngồi trong nhà cũng biết vậy nhưng cũng cố tình như không nghe thấy và
tất nhiên là không nhìn thấy bởi các cô ngồi dưới bóng trăng suông gần phía
cổng vào nhà. Có nhẽ các cô cũng biết rằng cái anh chàng này không thể nhìn
thấy nên mới trêu mạnh thế chứ nếu lại nhìn rõ được thì đố có dám. Sau mỗi lần
có cô nào đó chọn được một câu khá sắc nhọn một chút hoặc khá rõ ý tứ một chút
là có đến hàng loạt những tiếng cười như xé vải phụ hoạ thêm vào. Cứ mỗi lần
như thế bà cả Thơi lại nhìn Hằng cười mỉm như bảo rằng (cậu đã thấy gái làng
Đại Khối chưa). Những lúc ấy Hằng cũng mỉm cười đáp lại bà thật hiền lành và
thân thiện.
Thực ra cậu
cũng có để ý đến các cô nhưng sau mấy lần về phép trước đó xem ý mẹ thì nghe ra
bà cụ không muốn cho cậu lấy vợ ở nơi xa. Có lần cụ nói với con trai rằng:
- Em nó rồi
cũng lấy chồng, nhà chỉ có một mẹ một con, anh lại ở trong ấy chắc rồi tôi cũng
chết khô, chết héo ở ngoài này thôi!
Nhưng cái
chính có lẽ là cụ nghĩ mình chẳng có nhà có cửa, kinh tế lại eo hẹp quá nên việc đưa một cô
dâu ở nơi xa về chưa chắc người ta đã thông cảm và chịu đựng được với hoàn cảnh
của mình và điều đó có thể sẽ làm cho hạnh phúc của con cái đi đến đổ vỡ. Có lẽ
chính vì thế mà bà cụ không muốn cho con lấy vợ ở xa. Hiểu được nỗi lo lắng của
mẹ nên cậu không muốn làm trái ý của bà. Nhất là lần về phép vừa qua bà cụ đã
gạn cho cậu một cô bé ở quê, cho dù cậu chưa đồng ý nhưng hình như hai bên đã
có lời lẽ nên cũng làm cho cậu thật khó nghĩ. Đây cũng là lý do làm cho cậu
không muốn tiếp xúc nhiều với các cô gái của làng Đại Khối.
Sau rất nhiều
thủ đoạn mà các cô vẫn chưa lay chuyển được cái con người quá đáng này thì các
cô lại càng bị kích động bởi sự tò mò muốn biết cái anh chàng này có gì đặc
biệt không mà kiêu kỳ đến thế. Thế rồi các cô kêu khát ầm lên, hết réo gọi Thảo
lại hỏi sang bà cả Thơi xem nước ở đâu rồi kéo nhau vào nhà ra ý đi tìm nước
uống. Đến nước này thì chắc chắn là phải chạm mặt rồi đây...
Hôm nay Hằng
đi làm về muộn, cơm nước xong một lúc lâu Hằng mới về nhà. Ngõ nhỏ lại sâu nên
trời rất tối, có lẽ cũng còn một lý do là hôm nay trăng muộn hơn mọi ngày. Vừa
ra khỏi cổng nhà ăn, tý nữa Hằng đã đâm sầm vào hai người đang đứng giữa đường.
Hoảng quá, sau khi đi quá thêm đoạn nữa Hằng đành đứng lại để cho mắt quen với
bóng tối rồi mới đi tiếp. Thì ra hai người mà tý nữa Hằng đâm phải là hai cô
gái đang đứng giữa đường nói chuyện với nhau.
- Này con
trai chi mà trắng thế không biết, cứ như con gái ấy mày ạ!
Một cô vừa
nói dứt lời thì cô thứ hai đã tiếp một cách hào hứng:
- Chuyện!
Trai Hà Nội của người ta mà lại!
- Chết nhá!
Của người ta từ bao giờ thế hả?
- Vớ vẩn, đấy
là người ta nói đệm vào lại.
- Không nghe!
Không nghe! Tối nay nhất định choa bảo cho chàng biết cái Dụng nó đã nhận rồi.
Liền ngay lúc
đó là các tiếng đấm, tiếng thụi vào lưng nhau cùng với cả tiếng cười cứ réo lên
ồn ã cả cái con ngõ hẻm tối om, tối óp.
Đến bây giờ
thì Hằng đã nhận ra đây có lẽ là mấy cô gái vẫn đến nhà bà cả Thơi đánh tranh
các buổi tối, còn cái con người Hà Nội mà họ vừa đùn đẩy kia không biết là ai?
Hằng gai cả người khi nghĩ đến nếu cái con người kia lại chính là Hằng. Chả lẽ
mình lại bị mang ra bàn luận, đùn đẩy đến mức như vậy sao? Vừa đi Hằng vừa lôi
từ trong bộ nhớ ra xem cái cô Dụng là cô nào mà mãi không thể nhớ ra.
Về nhà được
một lúc thì mới thấy các cô gái kéo đến. Câu chuyện của họ hôm nay hình như có
vẻ rôm rả hơn mọi hôm rất nhiều. Đặc biệt là bọn họ hay trêu một cô nào đó
trong nhóm của họ, còn có một người thì cứ chạy đuổi hết cô này đến cô kia để
đấm, để thụi, để càu nhàu. Có lẽ người từ nãy đến giờ vẫn chạy đuổi các bạn
chính là cô Dụng.
- Này! Không
nhận hả? Để đấy nhường cho cái Thảo! Tiện của nhà chả phải đi đâu cho xa!
- Thảo có rồi
còn gì! Để đấy tớ, tớ nhận cho, đến lúc đó đừng có mà tiếc đấy nhé!
Chợt có một
giọng rất là đàn chị của một cô nào đó cất lên khá đanh để ra lệnh cho cả nhóm:
- Này! Làm đi
thôi kẻo mai là hạn nộp cuối cùng rồi đấy! Các cụ ấy mà hét cho thì đừng có mà…
Không khí hơi
lặng đi một chút nhưng chẳng bao lâu sau đâu lại đóng đó, lại ầm ĩ, lại cười,
lại hò hát cho mãi đến tận đêm khuya.
2
Những đêm
đánh tranh ở nhà bà Thơi rồi cũng hết, có điều là từ sau cái buổi tối các cô
gái cố tình vào tìm nước uống để xem mặt cái anh chàng lập dị nọ ra làm sao thì
cả hai bên đã có sự gần gũi hơn, thế nhưng cũng rất lâu sau Hằng mới biết mặt
Dụng.
Dụng năm ấy
mới vừa đủ mười tám tuổi. Dụng khá xinh và trắng trẻo, người tròn lẳn như rất
nhiều các cô gái khác. Mỗi lần bất chợt gặp giữa đường Dụng chỉ dám chào lý nhí
mà không chào to. Mỗi lần gặp và chào nhau như thế hình như Dụng có vẻ rất
luống cuống và đỏ mặt lên trông đến ngại. Biết vậy nên Hằng thường chủ động hơn
trong các câu hỏi để cho cô bình tĩnh trở lại. Kể ra cũng lạ, không biết sao từ
trước khi biết nhau họ lại chỉ gặp nhau rất ít, mặc dù nhà Dụng ở ngay trên
đoạn đường mà hàng ngày khi đi làm Hằng vẫn đi qua. Còn từ sau ngày biết nhau
rồi thì hầu như không ngày nào hai người không chạm mặt nhau đến một vài lần.
Nhà Dụng chỉ
có hai bố mẹ cùng với ba chị em. Chị cả tên là Lợi cũng đã hai mươi và hình như
đã có người ở bên Đông Thổ đến xin hỏi cưới, chắc cũng chỉ chờ đến mùa đông
hoặc mùa xuân năm tới là chị sẽ về nhà chồng. Sau Dụng là cậu em út cũng đã lên
tám tuổi nhưng người thì nhỏ bé mà lại cao lều nghều trông đến là ngộ. Bố mẹ
Dụng đều là những người nông dân thuần tuý dễ mến, cho dù Hằng chưa bao giờ
tiếp xúc với họ mà chỉ gặp và chào họ khi bất chợt gặp họ trên đường như với
bao nhiêu người khác nhưng Hằng vẫn nhận ra ở họ có những nét thân tình...
Sau một ngày
về nơi sơ tán của đơn vị để họp tổng kết Hằng đã thấy có cái gì đó cứ bồn chồn,
nóng ruột giống như linh tính cho thấy có ai đó cứ nhắc đến tên mình vậy. Nhiều
lúc thấy như thiếu vắng một cái gì đó mà không thể nghĩ ra được đó là cái gì.
Chỉ mãi đến khi rời làng Vồm xuống Đại Khối, Hằng mới thấy bớt đi sự nóng ruột
mà trong suốt thời gian ngồi họp đã xảy ra. Vừa quăng cái túi đựng mấy thứ vặt
vãnh cùng với mấy quyển sách vào giường thì Hằng nhận ra có ai đó vừa chào bà
cả Thơi bước vội ra sân theo lối cửa của gian nhà kế gian buồng bên trái.
- Bác Thơi đã
ăn cơm chưa?
- Tôi ăn cơm
rồi, cháu đi họp về đấy hả?
- Vâng, cháu
vừa mới xuống đến nơi!
- Sao không ở
đến mai mà lại xuống tối thế?
- Cháu cứ
thấy sốt ruột thế nào ấy, với lại nhà bà Ao ở trên Vồm hôm nay có khách nên
đằng nào cháu cũng phải đi ngủ nhờ thế là cơm nước xong là cháu đi ngay đỡ sớm
mai phải thức dậy đi sớm.
- Cũng may mà
cháu đi có một ngày chứ nếu đi độ mấy ngày thì choa cũng đến hết hơi về nó!
Còn đang cố
lắng nghe xem bà cả Thơi nói gì thì đã nghe bà tiếp:
- Này! Từ
sáng đến giờ nó xuống hỏi thăm mày có đến bốn lượt rồi đấy!
- Ai thế hả
bác?
- Này, các
anh chị đừng có che mắt tôi nhé! Cái Thảo nó bảo cho tôi biết từ bữa trước rồi.
Hình như ông bà ấy cũng không phản đối đâu. Nhà họ có ông em cũng lấy vợ và ở
ngoài ấy rồi. Mỗi lần họ về trông sang trọng và lịch sự, làm cả làng ao ước mà
không được ấy chứ!
Ngừng một
chút, không kịp để cho Hằng nói gì bà cả
Thơi lại nói tiếp:
- Kể ra mà
cái Thảo nhà tôi nó yêu anh thì tôi bàn với gì nó là cứ cho không.
Đến lúc này
thì Hằng cũng đã đoán ra được phần nào những điều bà Thơi vừa nói và cả cái
người bà Thơi bảo đã đến làm phiền bà đến bốn lượt trong một ngày kia rồi. Tuy
nhiên Hằng nghĩ là mình bị oan nên cố thanh minh:
- Bác nói thế
làm oan cho cháu! Tất cả là các cô ấy gán ghép đấy chứ!
- Này, không
có lửa lấy đâu ra có khói, đừng có mà giấu giếm, rồi đến lúc cần nhờ chúng tôi
là khó chứ chẳng chơi đâu!
Biết có thanh
minh nữa cũng chẳng ăn thua gì nên cậu cười xí xoá với bà Thơi rồi đi ra ngõ,
định sang Định Hoà đi hò với bọn cậu Thảo ở tổ sửa chữa Van .
Trăng đầu
tháng lờ mờ nhưng Hằng vẫn nhận ra có một người con gái đứng ở một góc tường
của một gia đình trong ngõ khi vừa chợt đi qua.
- Anh đi đâu đấy ạ!
Vừa nghe câu
chào nhỏ nhẹ Hằng đã nhận ra đó là Dụng, Hằng cũng vội chào lại:
- Dụng đi đâu
về đấy?
- Em định
xuống nhà bác Thơi!
Đang định đi
tiếp thì Hằng lại nghe Dụng hỏi:
- Vừa nãy bác
Thơi nói xấu gì em thế?
- Làm gì có!
- Em ở ngoài
sân nghe hết cả thế mà anh lại còn bênh cho bác ấy!
Nghe đến đây
Hằng cũng thấy chột dạ, không biết lúc nãy mình có động chạm gì đến cô ấy không
biết? Có lẽ là không thì phải.
- Em còn nghe
người ta dãy nảy lên vì bị gán ghép nữa cơ! Chả là người ta là người Hà Nội mà
lại.
Biết cô ấy
cũng khá lâu nhưng chưa thấy cô ấy nói nhiều và lại có ý mát mẻ như thế bao giờ
nên Hằng cũng bất ngờ đứng sững lại không biết nói làm sao cho được. Kể ra mà
nói trong con mắt nhìn của Hằng thì Dụng là một cô gái tương đối hợp với ý muốn
tìm kiếm của cậu. Nếu như mỗi lần về nhà cậu không phải nghe mẹ nhắc về việc
không muốn cho lấy vợ ở xa thì Hằng đã chủ động tìm hiểu cô ấy ngay từ bữa
trước chứ cần gì phải để cho sự việc rơi vào hoàn cảnh như thế này. Đang suy
nghĩ để tìm cách nói lại với Dụng thì lại nghe cô ấy lên tiếng, lần này giọng
nói của cô ấy nghe có vẻ buồn hẳn đi:
- Bọn con gái
quê mùa lại ít học như chúng em, các anh có quen biết chẳng qua cũng chỉ làm
cho các anh xấu hổ thêm mà thôi…
Vừa nghe được
mấy lời này Hằng chợt tìm ra được câu trả lời cho Dụng, cậu liền cướp lời nói
luôn:
- Em cứ nói
thế chứ ai chẳng như ai. Thanh Hoá anh hùng, nhiều người vùng ngoài ao ước còn
không được nữa là.
Mặc dù biết
mình hơi sáo trong những câu chữ vừa rồi nhưng cậu vẫn cứ tràng giang đại hải
để che đậy những bế tắc từ nãy đến giờ. Chắc cậu vẫn còn diễn thuyết nữa nếu
như không có một bà cụ vừa đi qua trước mặt hai người làm cho cả hai cùng phải
né người để tránh. Vừa tránh Dụng vừa chào với theo bà cụ:
- Bà ơi sao
bà về sớm thế?
- Con Dụng
đấy hả? Mẹ mày đang tìm đấy!
- Vâng ạ!
- Em có phải
về nhà không? Hằng hỏi
- Mẹ em lúc
nào chả tìm về để đấm lưng, chả là mẹ em thỉnh thoảng vẫn bị đau lưng khi dở
giời mà lại.
Ngừng một
chút Dụng lại tiếp:
- Mình đứng
đây gặp lắm người quá hay là đi ngược lại phía bờ ao nói chuyện tiện hơn.
Vừa nói Dụng
vừa đi ngược lại lướt qua bên cạnh, mặc kệ Hằng có đồng ý hay không. Phần vì
đường hẹp, phần vì tối trời nên khi Dụng nhỡ chân cọ sát vào bên sườn của Hằng
làm cho cả hai cùng loạng choạng tý nữa thì ngã. Mặc dù suýt bị ngã nhưng Hằng
vẫn cảm thấy có cái gì đấy thật mềm mại và gợi cảm đến là kỳ lạ mà không thể
nào giải thích được.
Bờ ao hợp tác
khá rộng và lại có rất nhiều cây dừa mới trồng tạo thành những cái ô lớn che
khuất cả về phía đường nên nếu ai đi qua mà không để ý thì không nhận ra người
đứng ở dưới gốc của nó, cũng chính vì thế mà hai người đã đứng ở đó gần năm
tiếng đồng hồ cùng với những câu chuyện không đầu, không cuối mà chẳng bị ai
quấy rầy. Họ chỉ chia tay khi câu chuyện đã có phần kết khá thân mật cùng với
việc hẹn hò đêm mai gặp lại.
3
Đã lâu lắm mà Hằng vẫn không ngủ được. Tất
cả những sự kiện xảy ra trong thời gian vừa qua hình thành những câu hỏi luôn
lởn vởn trong đầu. Có nên yêu không? Yêu hay không yêu? Yêu để lấy hay chỉ để
cho vui? Những cô gái ở quê có ai bằng cô ấy không? Hình thức, tính cách? Mặc
dù Hằng đã cố gắng không nghĩ đến nhưng vẫn không thể xua đi hết được. Một
chuỗi những suy nghĩ kéo dài đã làm anh mệt mỏi. Có gì đó như muốn thoả hiệp,
muốn buông trôi. Cùng lúc ấy trong anh cũng xuất hiện một tình cảm lạ, nó óng
ánh, nó rực rỡ và khô nóng làm ra sự khao khát đến cháy bỏng mà không gì dập
tắt, không gì ngăn cản nổi. Tự thân trạng thái ấy cứ thôi thúc buộc ta phải đi
theo sự mời gọi của nó để rồi mặc kệ tất cả mọi sự muốn ra sao thì ra…
Chưa bao giờ
một ngày làm việc lại dài đến thế! Mặt trời thì cứ đứng im mãi ở trên đầu, đôi
kim của chiếc đồng hồ hình như không chịu quay, chiếc kẻng bằng quả bom cũng
như bị câm mà không chịu cất lên những tiếng keng keng làm cho cái sự chờ đợi
cứ dài dằng dặc ra đến mức không còn chịu đựng thêm được nữa.
Đôi trai gái
ấy cũng đã có nhiểu đêm chờ đợi, nhiều đêm gặp gỡ, tuy vậy họ cũng vẫn còn có
gì đó tựa như muốn giữ ý với nhau. Nhưng đến lần hẹn tối hôm qua thì hình như
có điều gì đó rất khác so với những lần trước đó. Chờ đợi mãi thì rồi trời cũng
đã tối và cái thời điểm hò hẹn cũng đã đến. Gốc dừa lại một lần nữa chứng kiến
sự gặp gỡ của đôi trai gái cùng với những gì mà họ chưa kịp bắt đầu từ những
đêm hôm trước. Khác với mọi đêm, đôi trai gái đêm nay có phần dạn dĩ hơn, họ
ngồi gần nhau hơn, những câu chuyện của họ cũng tươi vui hơn mà không còn những
câu hỏi có ý thăm dò và khách khí như những đêm trước nữa. Từ bên trong tâm hồn
của mỗi người đều đã nhận ra cái điều mà họ hiểu sẽ phải xảy ra trong khoảng thời
gian đang đến rất gần.
Tất cả những
câu chuyện dùng để làm cái cớ cho sự gặp gỡ hầu như đã không còn cần nữa, cả
hai người đều im lặng đợi chờ và khi hai thân người chợt chạm vào nhau thì mọi
ngăn cách hầu như đã không còn. Những chùm sao trên trời, những chùm sao dưới
nước hình như cùng lúc ánh lên sáng rỡ. Cũng giống như những chùm sao, ánh mắt
của cả hai người như hút vào nhau lúc một gần thêm, gần thêm và chợt ánh lên
sáng lấp lánh khi hai cặp môi gắn vào nhau không muốn rời ra nữa.
Từ sau nụ hôn
kéo dài vô tận ấy họ không còn nói với nhau bằng lời mà bắt đầu nói với nhau
bằng mắt, bằng sự tiếp xúc da thịt của nhau trong vòng ôm đến nghẹt thở. Những
gì chất chứa trong lòng được dịp phơi bày không cần phải giữ gìn gì nữa. Gần
một đêm trắng bên nhau trong yêu, trong khao khát, làm họ ngây ngất trong hạnh
phúc tràn ngập và họ chia tay nhau khi hướng đông đã bắt đầu ửng đỏ, thai nghén
một ngày mới trên trái đất xiết bao rực rỡ.
Những cuộc
gặp gỡ cứ liên tiếp hết đêm này sang đêm khác, trừ những ngày Hằng phải làm
thêm giờ hoặc cả hai gặp những cuộc họp thanh niên, phụ nữ của cả bên cơ quan
của Hằng và bên địa phương của Dụng. Tất cả các cuộc gặp đều như không đủ dài
để họ có thể ở bên nhau lâu hơn, nói với nhau nhiều hơn. Có lẽ cái ý nghĩ đêm
hình như bị ngắn đi đều có ở trong tất cả những người đang yêu.
Bước tiến của
bản thân trong công tác, cùng với tình yêu của Dụng trong những ngày qua như
tiếp sức cho Hằng trong những ngày lao động vất vả, những ngày đạn bom khốc
liệt. Mọi người ở bên cạnh cũng vui mừng cho họ và nhìn họ với sự khích lệ hết
sức chân thành. Thời gian đã gắn kết họ lại đến mức có lẽ không gì có thể làm
cho họ xa nhau được. Công việc khôi phục của tổ máy chỉ còn vài ngày nữa thì
xong, ngày chia tay với Đại Khối càng lúc càng gần. Hai người tranh thủ gặp
nhau thường xuyên hơn để nếu sau này có phải xa nhau cũng đỡ buồn, đỡ tiếc
những ngày gần gũi.
Tất cả mọi đồ
đạc Hằng đã gửi xe mang về Vồm từ mấy ngày hôm trước, hôm nay Hằng chỉ còn mỗi
việc từ biệt gia đình và Dụng nữa mà thôi. Chia tay với bố mẹ Dụng xong là cả
hai đứa đưa nhau về phía cuối làng để rồi từ đó Hằng sẽ đi tắt về Vồm. Cứ mỗi
lần chào nhau xong lại thấy không thể rời nhau ra được. Nào là những hẹn hò
xuống thăm vào ngày nọ, ngày kia lại đến bàn bạc về một kế hoạch nào đấy cho
việc cưới xin vào năm tới. Chán các chuyện nghiêm chỉnh lại đến những trò hờn
dỗi, nào là anh về vài bữa chắc lại quên mất, hoặc là mấy cô cơ quan lúc nào
chả đẹp lại sạch sẽ, còn bọn con gái thôn quê làm sao theo kịp vân vân và vân
vân…
Không hiểu thế
nào mà mãi đến khi trăng lên rồi cặp trai gái vẫn còn ở gốc đa trên cánh đồng
Đại Khối. Sau bao nhiêu là chuyện, cả hai người lại im lặng ngắm nhìn nhau,
trên má Dụng ánh trăng soi rõ hai hàng nước mắt tràn trề làm cho Hằng cảm thấy
hai bên cánh mũi cũng cay cay như muốn khóc. Nhìn Dụng lúc ấy sao mà thương yêu
đến thế, không thể cầm lòng được nữa, Hằng ôm chặt lấy Dụng đặt lên lòng rồi
hôn lên tất cả mọi chỗ trên khuôn mặt đẫm ướt.
Cũng như Hằng,
Dụng ôm ghì chặt lấy người yêu như muốn áp toàn bộ thân thể của mình vào người
yêu để cảm nhận tất cả những gì mà chỉ trong vài giờ nữa sẽ phải xa cách, không
biết bao lâu mới gặp lại được. Trong một khoảnh khắc mềm yếu đến tột cùng làm
cả hai người hầu như không còn nghĩ đến điều gì khác, họ hoàn toàn để mặc bản
thân hoà vào sự kêu gọi của bản năng tự nhiên mà không hề muốn cưỡng lại.
Trong ánh
sáng huyền ảo của trăng hạ tuần, cơ thể Dụng mềm mại và đẹp đến mức không bút
nào tả hết được. Toàn thân của cô, cùng với tay chân cứ như những mảnh lụa biết
cử động. Những đường viền rõ nét bao lấy mảng màu trắng mờ tuyệt vời nhất của
thế gian. Nơi đẹp nhất, nơi cuốn hút nhất luôn réo gọi, luôn chờ đợi. Dụng đã
muốn dâng hiến tất cả cho người yêu mà không có ý đòi hỏi một điều gì khác. Bàn
tay của tình yêu đã đặt lên mọi chỗ trên bức tranh của tạo hoá với cảm xúc về
sắc thái, về âm hưởng đến vô cùng, vô tận của tình yêu.
Tất cả chợt
tan đi trong một giây phút rất đặc biệt, cùng với những lời lẽ thật dịu dàng
sau một cái hôn dài ngang với cái hôn lần đầu của họ.
- Chúng mình
sẽ là vợ chồng! Chúng mình sẽ có tất cả trong những ngày không xa nữa!
Nước mắt lại
tràn ra trên khuôn mặt cô gái cùng với câu nói đứt đoạn:
- Em sẽ yêu
anh mãi mãi!
Trong tất cả
những tháng ngày đầy kỷ niệm, hình như đây là lần đầu tiên một trong hai người
đã nói đến chữ yêu, đó là lời yêu duy nhất trong một lần yêu muôn đời không
quên được…
Cuối năm đó
chàng trai trở về nhà để chuẩn bị cho việc làm nhà, đồng thời chuẩn bị cho bước
tiếp theo Bài ca tình yêu của mình. Cũng đã cố gắng hết sức nhà Hằng mới mua
được một ngôi nhà tranh ba gian ở tận làng Thiên Hội. Cái nhà cũng chẳng tốt gì,
mọi cái để nguyên thì còn, nếu dỡ ra thì chắc sẽ có nhiều cái hỏng. Rất nhiều
cái kèo, cái cột đã ải mục dỡ ra là phải bỏ, vì vậy mà khi dựng lại ngôi nhà
chỉ còn đủ được một gian với hai cái chái. Với cơ ngơi như vậy thật khó có thể
nói đây là một gia đình có cuộc sống tốt đẹp. Điều này cũng chính là sự trở
ngại về hoàn cảnh, khiến người con trai mong muốn có thêm một thời gian nữa để
thu xếp ổn định đời sống trước khi xây dựng gia đình. Nhưng cậu có thể nói gì
được trong lúc này và thế là lịch trình mà một nửa kia chờ đợi đã không được
thoả mãn. Cũng chính từ đó phía đối tác đã hình thành những mối ngờ vực ngày
một lớn hơn, không ai có thể thanh minh cho được và rồi Bài ca tình yêu hay
tuyệt đã bất ngờ dừng lại sau một thời gian phô diễn tất cả những cái tuyệt mỹ
trong phần mở đầu của nó.
Vào một ngày
đầu tháng hai năm ấy người con gái đã đến gặp người con trai để mời tham dự
chương trình Bài ca tình yêu mới của cô và rồi từ đó mọi dư âm của bài ca ngày
cũ đã không bao giờ còn vang lên nữa. Lời yêu tắt lịm và chắc còn lâu mới có
thể quay trở lại được.
4
Những ngày
tháng buồn bã kéo dài hết ngày này sang ngày khác. Cho dù công việc đã cuốn đi
hết cả thời gian nhưng chỉ cần ngơi ra lúc nào là những hình ảnh cũ chợt quay
trở lại. Sự hể hả của bà mẹ, sự vui tươi của ông bố ở thời điểm đầu tiên tăng
lên bao nhiêu thì cũng xẹp đi bấy nhiêu khi kết thúc buổi gặp mặt với chàng rể
tương lai sau khi về quê ăn tết trở vào. Tất cả những câu hỏi từ xa đến gần về
công việc cưới xin mà các cụ gợi ra đã không có được lấy một lời bày tỏ của
chàng trai trẻ…
Cô ấy đã đi
lấy chồng và cũng lại phải lấy chồng ở nơi thật xa bởi nếu không thì rồi có
không biết bao nhiêu câu chuyện được thêu dệt ra và điều đó thật là bất lợi cho
cô ấy. Chẳng có người phụ nữ nào dám đứng ra giữa một cộng đồng để nói rằng tôi
vẫn còn trong trắng sau một tình yêu rực lửa mà tất cả mọi người đều đã nghe,
đã biết.
Ai còn lạ gì
cái sự yêu nhau của các cô, các cậu! Cái sự quyến luyến dễ làm cho người ta
quên đi tất cả và rồi cái sự động chạm về thể xác chắc hẳn cũng phải xảy ra, ai
mà chả thế! Thế rồi sự ngờ vực sẽ ngày một tăng lên, sự ngờ vực đâu chỉ có ở
mấy người già, mấy cậu con trai trong làng, sự ngờ vực còn có thể ở chính ngay
trong lòng của những người bạn gái thân nhất của cô. Tất nhiên là cô sợ, cô xấu
hổ với mọi người, với bè bạn, cô không còn con đường nào khác.
Cho đến mãi
về sau này chàng trai vẫn cứ tự trách
mình về sự ấu trĩ và sự sĩ diện hão của bản thân. Tại sao lại không thể
nói cho cô ấy cùng gia đình của cô ấy biết về hoàn cảnh của mình? Tại sao lại
không nói cho cô ấy cùng gia đình của cô ấy biết về cái sự cần thiết phải chờ
đợi để cho cậu có thời gian củng cố đời sống gia đình? Tại sao cậu lại im lặng?
Im lặng để rồi mọi cái đều tan nát cả?
Đã từ lâu cậu
luôn tự hào về cái nghèo khó nhưng rất thanh cao của gia đình mình qua những
việc làm của người cha trong thời cải cách. Vậy mà sao đến lúc này cậu lại không
thể nói về điều đó cho họ nghe một cách vô tư được. Có lẽ là cậu đã nhận ra sự
chờ đợi của cả cô gái và gia đình của cô về mối lương duyên này với hy vọng về
một cuộc sống mới ở nơi thủ đô với những gì mà một số người thân của họ có được
khi họ nhìn thấy những người đó trong những ngày về phép. Cậu nghĩ rằng cậu
không có quyền làm tắt đi những hy vọng của họ và cậu cũng không thể đang tâm
để mà làm tắt đi sự hy vọng đó khi cậu nói cho họ hiểu rằng gia đình của cậu
còn khó khăn hơn họ đến mấy lần. Có thể nói một cách chính xác rằng ở vào thời
điểm ấy cậu vẫn chưa đủ bản lĩnh để hiểu thấu đáo về những điều mà người cha
của cậu đã làm. Sự thiếu tự tin trước một quan niệm đã bắt cậu phải trả giá cho
việc mất đi mối tình đầu để rồi nhiều năm sau trong lòng vẫn day dứt khôn
nguôi...
Đơn vị lại
bước vào một đợt sửa chữa mới được nhà máy giao cho, đó là việc khôi phục phân
xưởng Trung tâm. Lần công tác này đơn vị không đóng ở làng Đại Khối nữa mà
chuyển về làng Định Hoà. Làng Đại Khối bây giờ có thêm hai lực lượng công nhân
của Đoạn đường sắt phía Nam
đến đóng quân tại đó. Khối công nhân đường sắt đóng ở đó gồm có Đại đội 315
biên chế toàn các thanh niên để làm các công việc nặng và Đại đội 324 lại biên
chế toàn là nữ để làm các công việc nhẹ hơn.
Hàng ngày các
tốp công nhân này vẫn đi từ Đại Khối qua ven làng Định Hoà để xuống khu ga
Thanh Hoá phục hồi và sửa chữa các đoạn đường sắt bị hư hỏng. Thường thì họ làm
suốt cả ngày đến tối mới trở về nhà. Mỗi lần đi qua làng Định Hoà họ vẫn cứ hay
cất lên vài câu hò để trêu mấy chàng thanh niên của nhà máy điện.
Số công nhân
nhà máy điện đóng ở Định Hoà cũng khá đông, đa số đều là các chàng trai chưa vợ
và cũng khá lịch duyệt. Rất nhiều người có tài lẻ về thơ ca, hò hát như Thanh ở phố Lò Đúc Hà Nội, Vĩ ở Vũ
Thư, Thái Bình vv… đều là những cây đơn ca của nhà máy trong các kỳ hội diễn
Quân khu Ba, hội diễn tỉnh và cả của nhà máy nữa. Các chàng trai này đa số đều
đã có người yêu nhưng thấy các cô hò ghẹo nhiều lần thì các chàng trai này cũng
cứ hò đối cho vui mà thôi. Thường thì mở đầu các câu hò khá hay nhưng càng về
cuối thì những câu hò thường hay đi vào sự trêu cợt chọc tức lẫn nhau, thậm chí
còn có cả những câu hò khá cợt nhả cùng những câu hò chửi bới khá thô tục, tuy
vậy nhưng chỉ sau buổi hôm ấy rồi các chàng trai lại lãng quên ngay. Vậy nhưng
các cô gái thì không quên đâu, có đến mấy ngày sau họ còn dò tìm xem cái thằng
cha nào hôm trước hò ngoa ngoắt thế không biết.
Từ khi chia
tay với Dụng, Hằng đã tự đặt ra cho mình là phải phấn đấu làm sao để cùng với
mẹ lo củng cố gia đình để nâng cao kinh tế lên rồi mới lo đến chuyện vợ con.
Chính vì thế mà cũng có khối cô gái ở các đơn vị trong nhà máy và cả ở các địa
phương Hằng đến trọ đã để ý đến, Hằng vẫn làm ngơ như không biết. Thực ra Hằng
cũng đã rút ra được bài học từ lần yêu trước, nên không đến mức sợ yêu. Cái
chính là tất cả những cô gái có ý tứ lại không hợp với con mắt của Hằng, mặc dù
với mọi người thì các cô gái được đánh giá là “sạch nước cản”.
Có lẽ Hằng
cũng là một người mang tính cực đoan bởi rất nhiều người cho rằng một cô gái
nào đó là rất đẹp thì Hằng lại không tán thành. Không phải là Hằng hoàn toàn
phủ nhận, nhận định của mọi người nhưng những cô gái đẹp sắc xảo một chút Hằng
đều không ưa lắm. Trong con mắt của Hằng thì ít nhất là cô gái ấy phải có sự
hiền lành, nhu mì, ít nói, tất nhiên là phải không xấu lắm. Nói một cách khác
là cô gái ấy phải có duyên, dễ gần, dễ mến. Hằng thường nghĩ những cô gái như
thế sẽ đối xử tốt với chồng và cả với bà mẹ một đời gian nan vất vả của Hằng.
Như thế có lẽ cũng là có sự kén chọn chứ không đến mức thế nào cũng được. Tuy
nghĩ ra thì nhiều nhưng làm thì không hẳn đã theo được mấy và đấy cũng là
nguyên cớ để có cuộc tình tiếp theo với rất nhiều kỷ niệm.
Mặt trời đã
lặn sau những vòm cây của những làng xóm mờ xa ở phía tây. Màu hồng vẫn còn hắt
lên bầu trời một quầng sáng khá rộng. Vừa thập thững đi dọc con đường ra cánh
đồng của làng Định Hoà vừa chúi mắt vào cuốn tiểu thuyết Ruồi Trâu trên tay thì
cậu giật nảy mình vì những câu chào rõ to của một toán con gái bịt mặt bằng những
chiếc khăn bông lớn. Chẳng khó gì mà không nhận ra các cô ấy là những công nhân
đường sắt. Có lẽ các cô ấy vẫn bực mình vì trận hò thua mấy cậu công nhân trọ
bên nhà bà Sinh chiều qua. Cậy đông và lại được các tấm khăn che kín mặt nên
các cô đồng thanh chào rõ to có ý làm giật mình cho bõ tức. Nhưng rồi các cô ấy
cũng nhận ra là cái anh chàng này không phải là người vẫn hò trêu cợt cùng các
cô nên cô nào cô nấy đều tỏ ra khép nép và có ý hối hận về việc làm của mình.
Hằng miễn
cưỡng chào lại rồi lại tiếp tục cúi mặt vào những trang sách. Chưa kịp tìm ra
dấu dòng vừa đọc lại thấy các cô gái hỏi tiếp:
- Có phải anh
ở ngôi nhà đầu làng kia không ạ?
- Vâng! Tôi ở
ngôi nhà đầu tiên ấy.
- Có mấy anh
ở đấy hò hay thế không biết?
- À! Thế có
lẽ các cô là những người vẫn hò mấy buổi tối hôm trước đấy hả? Thế tối nay có
hò nữa không?
- Anh hò với
chúng em nhé?
- Được thôi,
nhưng mà tôi hò kém lắm với lại không đối đáp được các cô như mấy cậu ấy đâu!
- Chúng em
cũng kém như anh thôi!
- Không! Tôi
cũng đã nghe các cô hò buổi tối hôm kia rồi! Dữ quá!
Một cô gái mở
đầu bằng một câu hò nói về tình yêu bằng chất giọng miền trong thật cao và ấm.
Hằng cũng hò đáp lại bằng một câu hò nói về tình yêu vận ra từ một bài hát dân
ca. Tất cả các cô đều ồ lên khen hay và ấm. Hò đi, hò lại đối nhau đến bốn năm
câu thì trời tối hẳn, các cô xin phép ra về để còn tắm giặt. Cả bọn líu ríu hỏi
tên và hò hẹn đến chơi.
Một buổi tối
đầu tháng không có trăng sao, Dậu là quân của đại đội 315 quê ở thành phố Nam Định mà
Hằng và Ngữ quen từ hồi trong năm đã dẫn đường sang thăm mấy cô gái vừa làm
quen hôm trước. Nói là quen biết nhưng khi đến nơi thì chỉ có các cô ấy biết
mình chứ còn mình thì lại chẳng biết ai cả vì mình chỉ gặp hình dáng còn khuôn
mặt thì chưa lần nào nhìn được bởi những chiếc khăn che kín mít. Cũng phải nói
chuyện một lúc thì rồi mới nhận được người quen. Người quen của Ngữ là cô Tuyến
cán bộ đoàn thanh niên của đơn vị, còn cô gái có giọng nói miền trong mà Hằng
hò đối hôm trước là cô tiểu đội trưởng Hằng Trường.
5
Trường cứng
tuổi hơn các cô khác, khuôn mặt không xinh lắm nhưng có duyên. Vầng trán rộng
làm cho cô có cái nét mặt của sự thông minh hơn là sự duyên dáng. Trường hình
như cũng đã yêu một người nào đó trong đơn vị, đó là Hằng suy đoán vậy thôi.
Không biết mấy cô gái trong nhóm có biết hay không mà vẫn cứ gán ghép Trường
với Hằng bằng cái tên ghép của Trường, còn Trường thì chỉ cười như không có
chuyện gì xảy ra.
Trong khoảng
thời gian buổi tối đầu tiên chủ yếu là những câu chuyện hội đồng giữa tất cả
mọi người. Chỉ thỉnh thoảng mới có một cặp nói chuyện riêng với nhau tranh thủ
khi những câu chuyện tập thể bị lắng xuống. Dù sao thì mỗi chàng trai đến với
những cô gái không ai là không quan sát để tìm cho mình một khuôn mặt mà mình
ưng ý, Hằng cũng không phải là trường hợp ngoại lệ.
Những cuộc
thăm nhau qua lại trong cả tháng trời cùng với những cuộc đưa tiễn sau mỗi lần
đến thăm kéo dài đến cả tiếng đồng hồ trong đêm tối làm cho mỗi người thấy thân
mật hơn lên. Mặc dù sự quen biết ở đây là sự quen biết của cả một nhóm nhưng
rồi không hiểu thế nào chỉ trong một thời gian rất ngắn đã hình thành ra từng cặp một. Cặp đôi Hằng và
Trường cũng có vẻ gắn bó nhưng nếu quan sát kỹ người ta vẫn nhận ra giữa hai
người có cái gì đó vẫn còn chút miễn cưỡng.
Từ trong sâu
thẳm tâm hồn của chàng trai, mối tình cũ cùng với những kỷ niệm cứ luôn trở lại
réo gọi. Còn với cô gái thì luôn bâng khuâng về hai hình ảnh đang cùng lúc lướt
qua trong trí não đòi hỏi phải mau có một quyết định nhận cái nào và bỏ cái nào,
còn bản thân cô thì lại cứ phân vân không tự quyết nổi. Cũng giống như một
người đi đường nhìn thấy hai con cá lớn đang rạch về hai phía, muốn bắt nhưng
chưa biết nên bắt con nào trong khi chỉ còn một vài cái quẫy đuôi nữa là cả hai
con cá sẽ trườn xuống lòng mương mất.
Trong một lần
Hằng đến chơi thì Trường lại bận đi họp, người đón tiếp Hằng là một cô bé người
thấp nhỏ nhưng da trắng và đặc biệt là có đôi mắt ươn ướt tựa như biết nói,
hình như cô nói bằng mắt hơn là nói bằng lời. Trong một khoảng thời gian ngắn
nhưng Hằng cũng đã khai thác được một số nét về gia đình và về bản thân cô ấy.
Quê nhà cô ở
một làng chài ven biển của huyện Hậu Lộc. Nhà cô ở cách bờ biển không quá một
trăm mét nhưng lại không sống bằng nghề đi biển đánh cá. Ông bố cô có nghề cắt
thuốc chữa bệnh bằng các vị thuốc Nam , mẹ cô và em gái thì làm ở hợp
tác xã nông nghiệp. Vừa mới qua tuổi thiếu niên là cô đã xin đi thanh niên xung
phong và được bố trí vào đại đội 324 tổng đội đường sắt phía Nam .
Câu chuyện
của hai người hầu hết là những câu hỏi và những câu trả lời của cả hai người
kéo dài đến cả tiếng đồng hồ nhưng rồi cũng đã đến lúc dần cạn. Ngồi chờ đợi
Trường lâu quá làm Hằng cảm thấy ngại, thế là Hằng đứng lên chào mọi người để
ra về. Sau khi giữ khách lại không được cô gái đành phải đi theo để tiễn khách
thay. Quãng đường đi tiễn đã dài mà hình như cô gái ấy vẫn chưa tỏ vẻ muốn chia
tay với ông khách của bạn. Cũng đã mấy lần ông khách dừng lại bởi đoạn đường đã
dài quá rồi nhưng người đi tiễn hình như không để ý đến điều đó. Cũng chỉ còn
vài bước chân nữa là đã đến gốc gạo ở giữa cánh đồng của hai làng, có nghĩa là
đã đến điểm chia đôi khoảng đường từ nhà chủ đến nhà khách. Sau khi cả hai
người đã ngồi lại bên gốc gạo đến gần nửa giờ thì khách đành nhắc chủ chia tay.
Thế là khách lại phải tiễn chủ quay trở lại.
Cô gái thay
Trường tiếp khách cũng là một người trong nhóm quen biết ngay từ buổi ban đầu,
cô có tên là Nghi, một cái tên rất hiếm gặp ở ngoài đời, ở cô hầu như không
thấy có gì là sự khách sáo. Những câu chuyện của cô có cái gì đó rất tự nhiên
và thân mật, tiếp xúc với cô, Hằng thấy giống như tiếp xúc với một người cùng
làng. Sau lần thay bạn tiếp khách ấy cô còn phải thay bạn tiếp khách đến vài ba
lần nữa vì Trường hay phải đi công tác xa đơn vị, còn ở nhà thì rất hay bận
họp. Cuối cùng vỡ lẽ ra là Trường luôn bị khống chế để phải bận khi có khách
đến chơi thông qua một cán bộ cấp trên đã để ý đến Trường.
Thực ra thì
cả hai người cũng chưa có sự gắn bó nào mà chỉ mới cảm thấy mến nhau mà thôi,
nên việc rời xa nhau cũng không đến nỗi khó khăn lắm, người này thì không muốn
làm cho người kia phải khó khăn trong công tác, còn người kia thì lại cũng
không muốn gặp trở ngại trong việc giao tiếp với người bên trên để còn có điều
kiện phát triển bản thân. Có một điều đáng nói ở chàng trai là anh ta chỉ muốn
có một người khả dĩ thay thế người con gái vừa tuột khỏi tay mình để rồi mau
chóng quên đi mối tình cũ, nên khi thấy mối quan hệ mới có vẻ phức tạp như thế
thì cũng thấy nản. Hơn nữa bên cạnh lại đã có một người mới thay thế nên cái sự
rời bỏ cũng không khó khăn gì.
Hình như
trong lĩnh vực tình yêu người con gái không bao giờ chủ động ngỏ lời trước
nhưng một khi đã quen nhau rồi thì họ lại rất khéo dẫn dắt đối tác đi theo quỹ
đạo của họ. Còn các chàng trai thì cứ tưởng đấy là chương trình do mình đặt ra,
thế rồi lao theo một cách hết sức nhiệt tình. Nhiều khi còn tự hào cho rằng
mình là người chiến thắng oanh liệt, kỳ thực thì họ là người luôn bị dắt mũi và
chịu những thất bại ê chề. Mặc dù cố giữ trạng thái quan hệ bạn bè trong một
thời gian khá dài nhưng rồi việc gì đến sẽ vẫn phải đến. Quan hệ của hai người
đã có bước phát triển khác so với ý định ban đầu. Các cô bạn trong đơn vị đã
không còn gán ghép Hằng với cô Trường nữa, họ đã nhận ra sự thay đổi đối tượng
của cặp bạn này.
Cũng trong
thời gian này quân Mỹ đã ngừng đánh phá miền Bắc. Khối công nhân sửa chữa thiết
bị lò máy của nhà máy điện đã được chuyển về khu Lán ổi để đi lại cho nó gần.
Những đội viên của 324 cũng được phân công đi sâu vào phía Nam . Từng bộ phận
nhỏ được chuyển về các ga kéo dài từ ga Thanh Hoá vào đến ga Vinh và xa hơn nữa
như ga Đồng Hới của tỉnh Quảng Bình. Công việc của họ là khôi phục nhanh các ga
để thông tuyến đường sắt vận chuyển của cải, phương tiện từ ngoài Bắc vào giúp
cho công việc xây dựng lại các địa phương đã bị tàn phá trong chiến tranh.
Chuyên chở các phương tiện quân sự và các đơn vị quân đội bổ sung cho chiến
trường miền Nam
tiếp tục công cuộc giải phóng đất nước, thống nhất tổ quốc.
Bộ phận của
Nghi cũng được chuyển đến ga Minh Khôi vừa để sửa chữa nhà ga và sửa chữa các
cung đường kế tiếp các bộ phận khác. Sau mỗi tuần làm việc Nghi lại theo tầu về
thăm người yêu vào các buổi chiều thứ bẩy và rồi lại theo tàu vào Minh Khôi vào
các chiều chủ nhật. Những bữa cơm tập đoàn độn ngô cùng với một chút thức ăn
mua thêm để cải thiện cùng với mấy người bạn nhưng vẫn rôm rả không kém những
đợt đi ăn cơm tiệm ở Hà Nội. Những buổi tối dạo chơi trên những bờ đê đẫm sương
hoà trộn với hương lúa đồng thơm ngát cùng với bao nhiêu những dự định về cuộc
sống ngày mai sau mỗi tuần làm việc càng làm cho tình yêu của họ ngày càng đằm
thắm. Một ngày nào đó người chồng sẽ vẫn cứ làm công nhân của nhà máy điện, còn
người vợ sẽ làm việc ở một nhà ga nào đó, để rồi cuối tuần lại trở về gặp nhau
với những bữa cơm gia đình giống như các anh, chị trong đơn vị mà hai người vẫn
đến thăm hàng ngày. Sau khoảng thời gian quan hệ cùng nhau hai người đã bàn
nhau tiếp cận hơn nữa về phía gia đình và một ngày hạ tuần tháng ba họ đã quyết
định cùng về thăm nhà cô gái.
Làng chài
Minh Đức xã Minh Lộc cũng như bao nhiêu làng quê ven biển trên khắp nước Việt Nam , cũng có
bãi biển toàn cát trắng cùng với những hàng phi lao chắn sóng trồng thành những
hàng đều nhau chaỵ dọc theo bờ biển. Những mái nhà ngói chen lẫn những mái nhà
lợp lá kè ngày đêm toả khói giữ nhịp sống cho bao gia đình người dân đất Việt.
Những ông già, bà già nước da nâu bóng đi lại mạnh mẽ trên bãi cát từ sớm đến
chiều say sưa làm việc. Người thì giăng phơi các vàng lưới cắm cúi vá những chỗ
lưới bị thủng, người thì đan sửa lại các thúng sọt để đón cá về vào các buổi
chiều.
Người nhà cô
gái đón bạn trai của cô hết sức vui vẻ và nhiệt tình, ông bố thì nheo mắt ngắm
nghía chàng thanh niên khá kỹ suốt từ đầu đến chân rồi vào nhà pha nước, còn bà
mẹ và cô em gái thì ríu rít mời chàng trai vào nhà, cả bà chị gái lấy chồng ở
nhà kế bên cũng vội vã sang chơi. Sau khi cô gái dẫn bạn ra giếng rửa chân tay
mặt mũi xong vừa vào đến nhà là hàng loạt các câu hỏi thăm nom với đủ các lĩnh
vực. Từ công việc làm ăn đến hoàn cảnh gia đình rồi thì đến có bao nhiêu anh em
cô bác, chàng trai chưa kịp trả lời xong người này đã lại phải trả lời sang
người khác. Cuối cùng thì cũng đến lượt cậu hỏi lại những người trong gia đình,
từ công việc làm ăn hàng ngày đến bà con họ hàng xóm láng. Đến khi hỏi đến công
việc của ông bố thì cậu đành phải ngồi im để nghe ông kể về việc chữa bệnh của
ông. Ông cụ kể ra rất nhiều những con bệnh mà ông đã chữa khỏi. Hết kể về con
bệnh ông lại kể về cách sử dụng các cây thuốc, trong câu chuyện của ông có cái
say nghề của một người luôn coi công việc mà mình đang làm như là một lý tưởng
của cả cuộc đời.
Câu chuyện
hàn huyên đang còn rất sôi nổi thì người nhà đã dọn cơm chiều. Cơm nước xong
thì Nghi dẫn bạn trai sang nhà chị gái lấy chồng ở nhà kế bên chơi. Chị gái của
Nghi tên là Thuận lấy chồng là bộ đội hiện đang tại ngũ, anh chị đã có hai con
nhỏ. Tuy chị chỉ có một mình nhưng chị làm ăn khá giỏi so với nhiều người khác.
Hàng đêm chị đi đánh moi ngoài biển đến khuya mới về nhà. Chị nói chuyện chả
khác Nghi là mấy, thẳng thắn và không cần khách sáo. Trong lúc Nghi đang chơi
với các cháu ở ngoài sân, chị nói chị sẽ có quà cho hai người khi hai người tổ
chức cưới. Vừa nghe đến đây Hằng chợt giật mình không biết nói thế nào, trong
bụng thầm trách Nghi đã nói chuyện này với gia đình quá sớm.
Vừa về đến
nhà hai người cũng gặp ông bố vừa đi làm thuốc về, ông lại tiếp tục kể về công
việc chữa bệnh của ông cho cả hai người cùng nghe. Từ cách chữa bệnh cho phụ nữ,
trẻ em đến chữa các bệnh đậu mùa, bệnh bỏng nước, bỏng lửa. Ngừng một lúc ông
cất cao giọng:
- Chả biết gì
chứ lấy con gái tao thì chắc là vớ được cả mớ những sẹo bỏng ở mông đít.
Nghe xong câu
nói này của ông cụ chàng trai thấy nóng bừng cả người và không còn biết nói sao
nữa, cũng may mà trời đã bắt đầu nhá nhem tối nên chắc ông cụ cũng không thấy
khuôn mặt ngượng ngập của cậu. Trời tối hẳn, trong nhà đã bắt đầu lên đèn, hai
người xin phép ông bố để đi ra chơi ngoài bãi biển. Hai người đi ra đến cổng
mới nghe ông bố dặn với ra:
- Nhớ về sớm
đấy nhé!
- Vâng!
Cô gái cất
giọng khá to trả lời ông cụ khi đã bước ra khỏi cổng nhà.
Cũng chả phải
đi đâu xa xôi bởi sau hàng phi lao cạnh nhà đã là bãi cát vừa phẳng, vừa rộng.
Từ hàng phi lao ra tới mép nước biển cách xa đến gần nửa cây số, thoải mái cho
hai người đi dạo. Ra đến sát mép nước thì trời đã tối, hai người cầm tay nhau
đi dọc theo mép nước biển trong màn đêm mờ sáng ánh sao. Đi chán rồi lại ngồi
cạnh nhau trên bãi cát cùng nhìn ra mặt nước nghe từng đợt sóng biển ộp oạp vỗ
vào bờ cát. Giữa khoảng không gian đầy thơ mộng được bóng đêm che phủ không có
cặp tình nhân nào không tranh thủ để mà thổ lộ tình cảm, để mà âu yếm lẫn nhau.
Tay trong tay, mặt kề mặt, hai thân thể nóng
bỏng khao khát áp chặt vào nhau, những cái hôn dài tưởng như không dứt. Những
nét thân thuộc trên cơ thể của nhau lại có dịp được tìm lại sau những ngày xa
cách. Bầu trời, mặt biển, bờ cát cùng những vì sao thêm một lần chứng kiến tình
yêu cháy bỏng của đôi trai gái.
Họ đã ngồi
với nhau như thế rất lâu, rất lâu. Thời gian như ngừng trôi, vũ trụ như ngừng
quay và tất cả mọi người trên trái đất hình như đã ngủ say hết để cho đôi người
của họ thổ lộ cùng nhau lời yêu tha thiết nhất.
Phía đông đã hơi ánh lên chút ánh sáng tựa hồ như từ nơi ấy sắp có một
điều gì đó kỳ lạ sắp xảy ra. Cũng đúng lúc ấy từ ngoài khơi xa có một rền vang
giống như tiếng rền của sấm. Nghi giật mình vội đứng dậy kéo tay người yêu chạy
vội vào bờ phi lao. Chàng trai thật sự bất ngờ không hiểu gì cả nhưng khi thấy
người yêu kéo chạy thì chàng trai cũng chạy theo như một phản ứng dây chuyền
vậy. Vừa chạy chàng trai vừa ngoái lại đằng sau thì thấy nước biển đã dâng lên
đuổi sát theo chân của hai người. Vừa lúc hai người ngã nhào vào bờ phi lao thì
nước biển cũng đã ngập bàn chân. Thì ra tiếng sấm rền vừa rồi là tín hiệu mở
đầu cho những đợt thuỷ triều ở những vùng biển mà chàng trai “đường nhựa” không
biết.
QUÂN NGŨ
1
Tất cả những dự định tiếp theo của cặp
trai gái chắc chắn đã có thể thực hiện được nếu như không có một sự kiện đặc
biệt đã xảy ra, có lẽ đó là số phận đã xui lên như vậy. Chỉ mới qua cuộc thăm
nhau nhân ngày chủ nhật chưa đầy nửa tháng thì Hằng nhận được quyết định gọi
nhập ngũ của ban quân sự tỉnh. Đợt tuyển quân lần này gấp rút đến mức các quân
nhân không có điều kiện được về nhà chia tay với gia đình mà phải tập trung
ngay về các đơn vị huấn luyện. Trừ những quân nhân quê ở Thanh Hoá thì còn có
thể kịp nhắn cho gia đình và bè bạn đến để đi tiễn. Còn Hằng và một số anh em
quê ở ngoại tỉnh thì chỉ có chính mình tiễn mình lên đường vào quân ngũ.
Những ngày tháng quân ngũ khép kín với
những buổi tập tành, học họp cứ kế tiếp qua đi. Thời gian quân ngũ đã dài gần
bốn tháng mà Hằng cũng chẳng viết thư cho ai trừ một lá thư gửi về cho mẹ. Trong
những năm sống trên đất lửa Hàm Rồng, Hằng đã nhận ra sự khốc liệt của chiến
tranh. Những năm tháng sắp tới mình cũng sẽ vào cuộc như rất nhiều những chiến
sỹ phòng không đã từng sát cánh cùng mình trong những trận chiến đấu đầy hy
sinh gian khổ. Những năm tháng chiến tranh sẽ còn rất dài, tất cả những người
chiến sĩ sẽ chỉ có thể ra về khi chiến tranh kết thúc hoặc bản thân họ bị
thương tích đến mức không còn tiếp tục chiến đấu được nữa như những thương binh
trong các trại mà Hằng đã có lần được gặp. Những người liên quan đến mình rồi
đây sẽ ra sao khi mình là một người tàn phế, hoặc mình là người sẽ hy sinh
không bao giờ còn có thể trở về được nữa. Những chị Hả, chị Thục ở quê mình,
những chị Thuận của nhà Nghi sẽ cô đơn cho đến hết cuộc đời, mỗi lần nhìn thấy
họ mà lòng lại nao nao khôn tả. Chả lẽ mình rồi sẽ lại là một trong những người
đàn ông như những người đàn ông của chị Hả, chị Thục và chị Thuận mãi mãi không
bao giờ trở về nữa. Mình có nên để cho những người thân yêu của mình phải chịu
sự bất hạnh mà mình đã quá biết, quá hiểu này không?
Tuy vậy đôi khi nghĩ đến mẹ, Hằng lại
thấy hình như mình có lỗi khi quyết định sự việc theo cách nghĩ này. Chắc chẳng
có người mẹ nào lại không mong muốn mình có con, có cháu để cho chúng kế tục
cái sự nghiệp mà bản thân họ cả một đời nhịn ăn, nhịn mặc, đổ mồ hôi công sức
để gây dựng lên. Huống chi trên đời này cũng đã có hàng vạn người phụ nữ có
hoàn cảnh như vậy mà họ có ta thán gì đâu. Có lẽ mình cũng nên có một đứa con
cho dù bằng cách nào cũng được miễn là người ấy có thể chấp nhận. Cho đến cuối
cùng thì cái lý lẽ không nên làm cho người khác bị đau khổ đã thắng thế. Hằng
đã quyết không báo tin cho Nghi nữa. Sự đời đâu có theo ý của riêng mình, cái
mình muốn nhiều khi tự nhiên vẫn bị thay đổi bởi nhiều nguyên nhân ngẫu nhiên,
ngẫu nhiên đến không thể tượng tượng nổi.
Cũng
không biết tiểu đoàn làm thế nào mà lại được phân phối một con trâu khá to làm
thực phẩm. Sáng ấy Hằng được cử lên tiểu đoàn để phối hợp với các đơn vị khác
làm thịt xong rồi nhận thịt tiêu chuẩn mang về đơn vị. Ăn thịt trâu thì có lẽ
đa số mọi người đã từng, nhưng làm thịt trâu thì số anh em tập trung ở đây chả
có ai đã từng trải qua. Làm sao để cho con trâu ngã ra, chết ngất đi thì mới dễ
dàng cắt cổ lấy tiết và rồi mới có thể mổ bụng, bỏ lòng ruột ra rồi cắt thịt
chia cho mọi người được. Mỗi người đề xuất một kiểu cho đến cuối cùng thì đi
đến kết luận là cần phải lấy cái gì đó thật nặng để đập vào đầu cho nó ngã ra.
Nói thì thế nhưng rồi hết anh này thay anh khác bổ vào đầu trâu đến vài chục
nhát búa chim mà nó vẫn không chịu chết. Không những thế nó còn tự dứt đứt mũi
của mình ra rồi cứ nghênh cặp sừng theo hướng các “chuyên gia” thịt trâu để mà
húc làm cho các “chuyên gia” này không dám tiếp cận nó nữa. Cũng may khi trước
đã buộc vào chân nó một sợi dây chão chứ không thì nó đã phóng đi mất và rồi cả
tiểu đoàn sẽ phải nhịn món thịt trâu đã ở trong tầm miệng. Cuối cùng thì anh
cán bộ quân giới của tiểu đoàn đề xuất là nên dùng súng để bắn cho nó chết, chỉ
cần có người nào dám bắn là được. Nhìn lướt qua một lượt thì thấy đa số các cậu
đều là học sinh mới vào quân ngũ và cũng chưa được một lần bắn súng, cuối cùng
thì ông anh Hằng là người nhiều tuổi nhất lại đã tham gia bắn máy bay rồi phải
làm nhiệm vụ bắn trâu. Sau bốn năm lần kê súng vào đầu trâu rồi mà vẫn không
bắn được. Khi thì hướng đạn vào nhà dân, khi thì đầu trâu cứ ngoảy đi, ngoảy
lại không làm sao bắn được. Cuối cùng thì cũng tìm ra được quy luật ngoảy đầu
của nó để rồi dùng phương pháp bắn đón mới xong. Sau tiếng nổ đanh khô khốc con
trâu hung hãn thế mà rồi cũng từ từ khuỵu xuống.
Chia xong thịt thì cũng đã gần một giờ
chiều đang định gánh thịt về thì Hằng nghe thấy có người tìm mình. Đang còn
nghến cổ về hướng đại đội thì đã nghe có tiếng của Lệ gọi ở phía sau.
- Thế nào xong chưa? Về ngay có khách!
- Vớ vẩn! Tớ thì làm sao có thể có
khách được! Vì tớ có cho ai biết đâu mà có người đến thăm!
- Thôi cứ về rồi khắc biết.
Cũng may là Lệ đi sang bằng xe đạp thế
là cậu ta chở hộ thịt trâu để cho Hằng
đi bộ lững thững đằng sau. Bộ quân phục bằng vải chéo Triều Tiên xổ lông của
Hằng dính đầy các loại mỡ màng Hằng cũng mặc kệ chả cần chấn chỉnh làm gì, bởi
Hằng nghĩ là Lệ trêu mình vậy thôi. Mãi đến khi về gần đến nhà trọ thì Hằng
nhận ra cô gái đang đứng chờ bên hàng rào ô rô đúng là Nghi. Làm sao cô ấy biết
mình ở đây mà đến được thế nhỉ? Hay là Lệ quen cô ấy từ trước và Lệ cho cô ấy
biết? Sau một hồi đoán già đoán non mà chả đi đến đâu đã làm Hằng nhận ra rằng
cái việc cô ấy nhờ đâu mà biết địa chỉ bây giờ đã không cần để ý đến nữa, điều
cần nghĩ là bây giờ mình sẽ phải đối xử thế nào với cô ấy trong khi mình đã đặt
ra kế hoạch bí mật từ giã để cho cô ấy quên mình đi, để rồi cô ấy sẽ tự tìm lấy
cho mình một người đàn ông khác. Cuối cùng thì việc Nghi biết được địa chỉ đóng
quân để có thể đến thăm là do cô bạn của Lệ mà Nghi đã gặp được trong khi trở
lại khu công nhân của nhà máy điện để tìm gặp người yêu. Nghi đã đến người anh
kết nghĩa mượn xe để chở cô bạn của Lệ cùng đi.
Chỉ bằng quá trình trở đi, trở lại
không biết bao nhiêu lượt từ nơi công tác đến đơn vị của người yêu rồi lại lần
dò để có được địa chỉ rồi đến được nơi người yêu ở đã làm cho chàng trai xúc
động và thương biết chừng nào. Chỉ tiếc rằng khi ấy lại ở thời điểm ban ngày,
rất nhiều bà con trong xóm và đồng đội đang chia vui nên chàng trai không thể
ôm lấy cô gái của mình để rồi không rời ra nữa. Tất cả những suy nghĩ từ bấy
lâu nay đã bị xoá hết để trở lại tình yêu và tình thương tha thiết như những
ngày nào.
Có lẽ trong thời gian chờ đợi người
yêu Nghi đã kể chuyện của hai người cho các anh trong ban chỉ huy nghe nên đơn
vị đã cho Hằng được miễn công tác và các phiên gác từ chiều hôm đó đến hết ngày
hôm sau. Từ lúc gặp nhau cho đến buổi tối hôm đó hai người đã ở bên nhau, câu
chuyện của họ vẫn như ngày chàng trai còn ở ngoài dân sự. Chàng trai vẫn chờ cô
gái trách móc về sự ra đi mà không cho mình biết để đến nỗi mình phải đi tìm
vất vả nhường ấy, nhưng trong suốt thời gian gặp nhau cô ấy hình như không có
một lời trách móc nào. Đến lúc ấy chàng trai mới hiểu người bạn gái của mình
thật là một người có nghị lực và có lòng vị tha to lớn. Với một trái tim như
thế, tấm lòng như thế thật khó có thể tìm được người thứ hai. Tại sao mình lại
không để lại cho cô ấy một chút kỷ niệm như mình đã nghĩ tới. Chỉ cần một lá
thư giới thiệu chắc mẹ mình sẽ chấp nhận cô ấy. Mình hiểu mẹ qua rất nhiều việc
mẹ đã làm, từ việc cụ nhận nuôi người chị gái mà cụ nhặt được trên đường tản cư
trong lúc bản thân cụ cũng phải lo kiếm ăn từng bữa, đến việc nuôi nấng bao
nhiêu đứa cháu cho người em họ của chồng, rồi còn biết bao những cái tốt trong
cư xử đối với mọi người trong họ nhà
chồng cho thấy cụ có thừa tấm lòng rộng mở nhất là mình lại có thư giới thiệu
rằng đây là dâu, là cháu của cụ.
Buổi tối gặp nhau sau gần bốn tháng
càng làm cho cặp tình nhân khao khát hơn cả trong những ngày tháng trước đó. Họ
ở bên nhau và quện chặt vào nhau, sao mà vui đến thế, sao mà đẹp đến thế nhưng
cũng thật đáng thương bởi chỉ sớm mai đây họ lại phải chia tay nhau không biết
đến bao giờ gặp lại, hoặc cũng có khi họ không bao giờ còn gặp được nhau nữa.
Chỉ còn một nửa của đêm nay nữa thôi,
từ phía cô gái dường như tất cả cũng đã rất sẵn sàng và những quyết định mới
nhất của chàng trai sẽ được thực hiện trong những giờ phút sắp tới. Đêm lặng lẽ
trôi để dần mất đi khoảng thời gian quý báu nhất mà hai người có được, sự quyết
định sao mà vẫn khó khăn đến thế… Điều gì đã ngăn trở họ có nhau, điều gì đã
ngăn trở họ làm cho nhau thoả mãn cả về những đòi hỏi bản năng lẫn những đòi
hỏi về trách nhiệm của một con người trong việc duy trì nòi giống, duy trì dòng
họ và duy trì phiên bản của chính họ trên cõi đời này? Xin tất cả mọi người
đừng bao giờ trả lời cho những câu hỏi vừa rồi. Bởi tất cả mọi câu trả lời đều
sẽ là rất khập khiễng và rất giáo điều.
Họ chia tay vào buổi sáng hôm sau với
bao lưu luyến không nói được thành lời. Người con gái thật là buồn thảm, còn
người con trai thì cũng chẳng hơn gì, mặc dù chàng trai đã cố gắng để không đến
nỗi quá buồn trên nét mặt, nhưng bên trong thì tựa như tất cả đang rớm lệ.
Nhưng dù sao thì chàng trai cũng đã chiến thắng được chính mình, nung nấu thêm
cái quyết tâm quên mình cho những người mình thương yêu nhất.
2
Vào những ngày cuối tháng chín năm
1970 đơn vị bắt đầu làm công tác chuyển quân từ khung huấn luyện sang cho các
đơn vị mới. Toàn đơn vị lúc này đang tập kết tại khu vực Đồng Nẻ địa điểm cũ
của cơ quan nông trường bộ, nông trường Yên Mỹ. Những buổi học tập chính trị
kéo dài đến cả tuần, nào là nghe nói chuyện về tình hình, nhiệm vụ mới, tình
hình chống Mỹ ngày một lan rộng trên thế giới, tình hình chiến sự miền Nam cùng
với những con số rất cụ thể. Rồi thì
những thành tích trong xây dựng hợp tác xã nông nghiệp ở miền Bắc, phong
trào tất cả vì miền Nam ruột thịt, tất
cả để chiến thắng giặc Mỹ xâm lược và còn rất nhiều chương trình khác nữa.
Không khí sinh hoạt trong đơn vị hết sức sôi nổi và hừng hực khí thế. Các chiến
sỹ háo hức ra mặt trận ngay để trả thù cho đồng bào và chiến sỹ miền Nam đang
bị kẻ thù đàn áp, ra mặt trận ngay để kịp đóng góp một phần xương máu của mình
cho chiến thắng của dân tộc. Người ta cứ nghĩ rằng nếu không nhanh thì không
còn cơ hội tham gia vào công việc chiến đấu của dân tộc. Tiếp theo đó là các
đoàn viên đăng ký làm đơn tình nguyện xung phong ra mặt trận.
Cuối cùng thì
ngày lên đường chiến đấu cũng đã đến sau mấy ngày tập dượt báo động chuyển
quân. Các chiến sĩ được lệnh bao gói ba lô vào các túi mưa để làm phao vượt
vùng nước dài gần năm cây số ngay từ sáng sớm. Những cơn mưa kéo dài gần cả
tuần lễ đã làm cho toàn bộ khu vực từ thung lũng dưới chân đồi Đồng Nẻ đến ngã
ba Chuồng đều ngập dưới hai đến ba mét nước. Đợt chuyển quân ngẫu nhiên lại hoá
thành một đợt thực hành chuyển quân trên đồng nước mà không phải lúc nào cũng
có được. Mặc dù chưa có kinh nghiệm lại thiếu thốn về phương tiện nhưng đơn vị
cũng đã hoàn thành công việc chuyển quân.
Gần hai tiểu
đoàn bộ đội đã tập kết về các khu vực quanh ga Thị Long nên hầu như nhà nào
trong vùng cũng đều có các anh bộ đội đến ở nhờ. Từ trước đó trên địa bàn đã có
một đơn vị công nhân đường sắt nên lại càng chật chội. Đôi chỗ cả công nhân lẫn
với bộ đội đều cùng trọ chung trong một nhà. Tiểu đội của Hằng có hơn chục
người cũng bị chia nhỏ ra để gửi vào các nhà dân. Nhóm của Hằng chỉ có hai
người gồm có Hằng và Liên tiểu đội trưởng đóng ở nhà của anh xã đội phó. Ngay
buổi chiều hôm đó vợ chồng anh xã đội phó đã tiếp hai anh em bằng những câu
chuyện hết sức vui vẻ. Anh kể rất nhiều chuyện về những vụ đánh án bắt bọn trộm
cướp ở ngay tại địa phương. Câu chuyện của anh ly kỳ như những trận đánh án của
công an trung ương vẫn được kể trên đài.
Sau khi ổn
định chỗ ở hai anh em cùng đi ăn cơm ở bếp đại đội. Mải chuyện với cánh cùng
tiểu đội đến khi về nhà trọ thì trời đã tối. Buổi tối hôm nay Hằng có cuộc họp
đoàn triển khai nghị quyết, hưởng ứng lời kêu gọi thi đua đánh giặc của quân uỷ
nên Hằng chào tạm biệt anh xã đội phó để đến một nhà ở đầu xóm hội ý với cán bộ các phân đoàn.
Trời tối quá
nên Hằng dò dẫm men theo con đường làng nhỏ hẹp lép nhép đất ướt đến một lúc
lâu mới đến chỗ tập kết cuộc họp. Vào đến sân Hằng chưa vào nhà vội mà đi tìm
chỗ có lợi gạch gõ cho bùn đất rụng ra để vào nhà cho đỡ bẩn. Ngay giữa sân có
đến bốn, năm người phụ nữ ngồi bóc lạc trong một cái thúng đều cất tiếng chào,
lúc ấy Hằng mới nhận ra đấy đều là những cô gái trẻ. Hằng đoán có lẽ họ đều là
các công nhân đường sắt ở nhờ. Hằng chào lại một cách chiếu lệ rồi đi vào nhà,
ngồi vào bàn triển khai chương trình họp. Thực ra thì chương trình và nội dung
họp đồng chí chính trị viên phó đã triển khai hôm trước rồi, việc các đơn vị
nhỏ lại phải tiếp tục họp chủ yếu là tập trung con số tránh để các chiến sỹ tự
do đi lại làm lộn xộn khu vực đóng quân, đồng thời cũng là cách ngăn chặn những
anh chàng thích tự do trốn về nhà để khi tập trung lên tàu vẫn giữ được đầy đủ
con số. Cuộc họp diễn ra không quá một giờ thì giải tán, các chiến sỹ lại ai về
nhà ấy để triển khai công việc gác sách.
Sáng hôm sau
các tiểu đội đi nhận quân trang, vũ khí mãi đến quá trưa mới xong. Vừa về đến
nhà đã thấy anh xã đội phó gọi ra cho biết có người đến hỏi thăm, chờ đợi khá
lâu không gặp nên đã vừa về rồi. Đang còn phân vân không biết là ai thì đã thấy
anh xã đội nói to từ ngoài ngõ:
- Cậu ấy vừa
về xong, cô vào ngay đi!
Vừa quay nhìn
ra cửa Hằng đã nhận ra không phải ai khác mà đó chính là Nghi, mặc dù cô che
mặt rất kín bằng chiếc khăn voan màu trắng. Cô nhẹ nhàng bước vào nhà và ngồi
vào cái ghế băng để kề bên cái bàn gỗ tạp kê ở giữa nhà. Hằng để cho Liên ngồi
tiếp hộ rồi xuống bếp rót nước vào cái ca men mang lên mời cô gái uống.
- Làm sao em
biết anh ở đây mà tìm đến?
Nghi mỉm cười
rồi nói:
- Anh thấy em
có tài không?
- Anh chịu!
Sau vài câu
chuyện mở đầu Hằng bắt đầu giới thiệu cho anh xã đội phó và Liên biết quan hệ
của hai người. Sau mấy câu hỏi xã giao, anh chủ nhà và Liên đều cáo từ rời khỏi
nhà có ý để cho hai người tự nhiên nói chuyện.
- Các anh còn
ở đây lâu không?
- Có lẽ đơn
vị sẽ ở lại đây gần một tuần gì đó.
- Sáng nay em
mới biết anh về đây qua cái Ngọc kể lại, thế là em đã xin nghỉ mấy ngày để tiễn
chân anh.
- Làm sao
Ngọc biết được anh đến đây mà anh lại không thấy cô ấy nhỉ?
- Tối qua nó
nhìn thấy anh tổ chức họp ở ngay nhà nó trọ thế là nó bảo cho em biết.
- Thế mà nó
chẳng thèm chào anh một tiếng, hay là nó giận gì anh không biết?
- Nó không
dám nhận anh vì nó sợ bọn trong tiểu đội trêu anh là người yêu của nó, hơn nữa
nó cũng sợ mọi người biết quan hệ của anh với em rồi suốt ngày trêu cợt không
làm sao mà chịu được.
Ngừng lại một
lúc Nghi lại nói tiếp:
- Chiều mai
em định tổ chức liên hoan chia tay anh, có cả các anh trong ban lãnh đạo tiểu
đoàn của anh cũng tham dự anh nhớ đến nhé!
- Mấy ngày
tới có lẽ anh bận giải quyết một số thủ tục về giấy chuyển sinh hoạt đoàn cho
một số anh em còn thiếu để kịp lên đường nên chưa chắc anh đã đến được đâu.
- Thế thì em
tổ chức vào buổi trưa vậy, có được không anh?
- Để anh xem
thế nào đã, buổi trưa đơn vị tập trung điểm nghiệm quân tư trang, có lẽ anh
cũng không sắp xếp được...Thôi để khi nào có điều kiện anh sẽ bảo cho em biết
sau vậy!
- Mặc anh!
Nhất định anh phải đến đấy! Em sẽ báo cáo lãnh đạo hộ cho anh.
Chia tay với
Nghi rồi mà Hằng vẫn cảm thấy không yên, những dự định và sự quyết tâm khi hai
người gặp nhau lần trước đang có cơ bị thất bại. Lại một lần gặp nhau ngẫu
nhiên khác! Hằng không sao giải thích nổi, có lẽ số phận đã không cho họ rời
nhau ra được. Suốt cả buổi chiều hôm đó rồi cả buổi tối khi hai người ở bên
nhau Hằng vẫn cố gắng xây dựng quyết tâm thêm một lần nữa. Những lúc gần nhau
Hằng đều tránh để không chạm vào người của Nghi, cho dù cô luôn áp sát vào anh
như mọi khi. Cứ mỗi lần vô tình chạm vào nhau Hằng lại lựa khéo để hai người
cách xa ra thêm một chút.
Để có thể giữ
vững quyết tâm của mình trong việc rời xa cô ấy để cô ấy giận dỗi từ bỏ mình để
tìm một tình yêu mới. Để cô không phải chịu hoàn cảnh cô đơn và héo hắt trong
chờ đợi như những người chị của cô, Hằng đã quyết định sẽ không gặp cô nữa.
Ngay lúc đó trong đầu Hằng đã hình thành một kế hoạch tránh gặp mặt Nghi. Suốt
ngày Hằng đi hết chỗ này đến chỗ khác để nhắc nhở các phân đoàn tổ chức họp
triển khai nghị quyết của chi đoàn. Hằng nhờ Liên chuẩn bị quân tư trang và mọi
thứ hộ còn mình thì luôn vắng nhà để cô ấy không tìm được. Cuối cùng thì Hằng
cũng đã thực hiện được kế hoạch của mình một cách hoàn chỉnh. Hằng đã lên tàu
rồi mà cô ấy vẫn không tìm gặp được. Cẩn
thận hơn, Hằng cũng không về chỗ tập trung của tiểu đội mà ở lại chỗ của trung
đội trưởng Nhận là người cùng quê Đông Anh với Hằng.
Cuộc chia tay
ban chiều không biết có được tổ chức hay không, nhưng Hằng đã không đến. Cô ấy
chắc sẽ vô cùng nóng ruột trong suốt thời gian chờ đợi và sẽ đau khổ biết bao
khi thời gian đã quá muộn mà chàng trai của cô vẫn chưa chịu đến hay nói cho
thật đúng là chàng trai của cô đã không đến. Có một điều mà cô ấy sẽ không bao
giờ hiểu được đó là trong mỗi giây phút mà cô ấy đau khổ thì chàng trai của cô
ấy cũng đang chịu bao sự dằn vặt, đớn đau.
Mặt trời đã
khuất sau những ngọn núi phía xa, hoàng hôn màu tím lan toả trên khắp sân ga.
Từ bên hàng cọc gỗ làm rào ngăn cách nhà ga với làng xóm, có một người con gái
đứng lặng lẽ nhìn lên những toa tàu đầy chặt những chàng trai màu xanh áo lính
mà không làm sao tìm thấy được chàng trai của riêng mình. Cũng trong thời gian
ấy từ trên một ô cửa sổ của con tàu có một người lính cũng cố gắng thu vào tầm
mắt như muốn ghi sâu vào trong tim mình hình ảnh nhỏ bé, cô đơn của người con
gái mình yêu trong những giây phút cuối cùng trước lúc đi ra mặt trận.
Những bánh
thép từ từ lăn về hướng Nam
xa tắp chở theo trong đó hàng ngàn những chàng trai đang cất cao từng đoạn
những ca khúc rực lửa chiến đấu. Trong đó chắc không thiếu những người lính
đang nhẩm đọc những vần thơ bi tráng, thấm đẫm tình yêu vĩnh cửu của riêng
mình...
3
Công việc bàn
giao quân thật nhanh chóng vì rất nhiều đơn vị sau chiến dịch xuân 1968 đã mất
nhiều quân số, cho nên số tân binh đã được huấn luyện chu đáo cả về kỹ năng sử
dụng các loại vũ khí và thông thạo về kỹ chiến thuật lại được rèn luyện mang
nặng, đi dài là rất quý cho các đơn vị nhận quân. Số quân của Thanh Hoá lần này
được giao cho sư đoàn 320, một trong bốn sư đoàn cơ động của bộ quốc phòng. Nói
là chỉ có bốn sư đoàn cơ động nhưng thực ra thì không biết lúc đó có mấy sư
đoàn cơ động, bởi vì mỗi sư đoàn chỉ mang một số hiệu nhưng nó còn có thêm
những chữ A, B, C, D, E, gì đó. Chính vì vậy mà quân địch rất khó biết ta có
thực lực quân số là bao nhiêu.
Trừ các cán
bộ khung huấn luyện ở lại, quân số của tiểu đoàn được chia nhỏ ra để bổ sung
vào các trung đoàn và các đơn vị trực thuộc ngay tại khu ga Thị Long. Toàn bộ
đại đội huấn luyện của Hằng được bổ sung vào tiểu đoàn 25 trực thuộc phòng hậu
cần sư đoàn. Tiểu đoàn 25 là một đơn vị vận tải bộ, nhiệm vụ chính của cả tiểu
đoàn là vận chuyển vũ khí đạn dược từ các kho của quân khu về, rồi lại chuyển
đến các mặt trận tiếp tế cho các đơn vị chiến đấu. Ngoài vận chuyển vũ khí đơn
vị còn làm công tác chuyển thương từ mặt trận về các đại đội quân y của các
trung đoàn hoặc chuyển về tiểu đoàn quân y của sư đoàn. Ngoài các công việc
trên, đơn vị còn thực hiện các công việc khác nữa mà phòng hoặc sư đoàn yêu cầu
đột xuất.
Những ngày
đầu tiên về đơn vị mới lại là các việc học chính trị và rèn luyện. Cán bộ cấp
trên luôn lấy việc chấp hành quân phong, quân kỷ là mục tiêu giáo dục các chiến
sĩ. Cùng với những nội dung trên là hàng loạt các hoạt động như việc làm báo
tường, xin vật liệu về làm các giá đỡ súng, thậm chí là vào rừng chặt cây về
làm nhà, làm bếp. Tất nhiên là các đồng chí lính mới rất hăng say làm suốt ngày,
suốt đêm mong sao để được đẹp hơn các tiểu đội, đẹp hơn các trung đội khác. Họ
cũng không ngờ rằng tất cả những công việc ấy chưa kịp hoàn thành thì đã lại
phải báo động chuyển quân đi nơi khác. Đương nhiên là lãnh đạo cấp trên họ đã
biết rất rõ là như thế những họ vẫn phải triển khai. Cũng có nhiều cán bộ cấp
trên nói rằng cứ phải bắt làm cho thật nhiều để tránh cái việc “nhàn cư vi bất
thiện”. Tất nhiên là như các cụ ta xưa đã nói một câu cưả miệng là “nước sông
công lính” nhưng nghĩ cho cùng thì từ cách nghĩ, việc làm như trên cũng là một
cách giữ gìn bí mật. Biết đâu trên địa bàn chả có các nhóm gián điệp hàng ngày
chỉ thăm dò hiện tượng chuyển quân để mà dự đoán ra kế hoạch tác chiến để bố
phòng lực lượng đối phó làm thất bại kế hoạch của ta.
Ngay khi rời
ga Thị Long đơn vị của Hằng đi một mạch vào tận xã Quảng Hưng, Quảng Trạch,
Quảng Bình. Ngay những ngày đầu tiên đơn vị đã triển khai công tác huấn luyện.
Thao trường luyện tập là một cánh đồng cát trắng bao la bát ngát của xã Quảng
Hưng. Bài học chủ yếu là cách cứu chữa, băng bó cho các chiến sỹ với hầu hết
các dạng vết thương trên mọi chỗ của cơ thể. Tiếp theo là cách buộc võng cáng
thương binh kết hợp vận động trong các tình huống. Gian nan nhất là việc khênh
thương binh chạy trên các địa hình với quãng đường đủ dài để rèn luyện sự dẻo
dai của chiến sỹ. Việc khênh nặng chạy trên cát quả thật là một việc không phải
dễ dàng. Cứ mỗi bước chân lên được hai mươi phân thì khi bàn chân tiếp cát lại
lún xuống mất mười phân. Nhưng mệt nhất là việc mỗi bước chân lại phải kéo theo
lượng cát nằm trên mu bàn chân. Nhiều lần kéo cát như thế bàn chân cứ như muốn
rời ra khỏi ống chân.
Từ mấy tháng
nay chính quyền nguỵ nhiều lần hô hào
trên các phương tiện phát thanh và báo chí về
kế hoạch Bắc tiến. Chúng đưa hai chiếc tàu khu trục ra vùng biển ven
vịnh Bắc Bộ làm như sẽ chuẩn bị tiến công ra miền Bắc. Mặc dù chúng đã nhiều
lần gào thét như vậy nên chả ai thèm quan tâm đến những điều chúng nói. Người
ta thừa hiểu rằng ngay trên mảnh đất chúng còn đang chiếm giữ, chúng đã chẳng
thể nào giữ nổi huống gì chúng lại mưu toan làm những việc tầy đình này. Mặc dù
vậy nhưng hình như lần này cấp trên có vẻ rất chú trọng và có phần nào khẩn
trương trong tổ chức phòng thủ dọc bờ biến suốt từ Quảng Bình ra mãi vùng Quảng
Ninh, Uông Bí.
Tiểu đoàn 25
vận tải cũng được huy động vào công tác phòng thủ cùng với các đơn vị khác
trong sư đoàn. Sau đợt chuyển các hòm gỗ dùng để đựng đạn pháo và đạn cối ra
vùng biển Cảnh Dương xong thì cả đơn vị lại lên xe hành quân ra Thanh Hoá. Khi
hành quân vào các đoàn xe đều buông bạtT, còn khi ra thì chẳng thấy nói gì về
việc giữ bí mật mà có vẻ như cấp trên còn muốn khoa trương thanh thế cho mọi
người cùng biết rằng ta đang phòng thủ đây. Đồng thời cũng ngầm răn đe kẻ địch
về sự chuẩn bị này để chúng hiểu rằng tiến ra Bắc là sẽ chỉ có con đường chết.
Những ngày
cuối năm đang đến gần, hôm nay đã là ngày tết ông Táo hai mươi ba tháng chạp
rồi, không khí tết đã rộn rã trên khắp các vùng quê. Từ các ngả đường thôn xóm
người đi lại có vẻ gấp gáp và khẩn trương hơn. Các chợ trong vùng đông đúc, tấp
nập khác hẳn những ngày thường. Nhiều mặt hàng ngày thường không có hôm nay
cũng bày bán khắp cả chợ. công việc chặt
cây rừng về làm nhà cũng đã gần hoàn chỉnh. Một số trung đội đã cắt đủ tranh để
lợp nhà. Cứ tưởng chuyến này sẽ được ăn tết ở vùng rừng núi Như Xuân, vậy mà
sớm nay đại đội lại phải lên đường để vào lại Quảng Bình. Lần này thì đơn vị
tập kết ở vùng Tuyên Hoá, miền tây của Quảng Bình.
Công việc
chính của đại đội 2 là nhận hàng từ kho
của sư đoàn về trang bị cho trung đoàn 64 đi B dài trong thời gian tới. Kể ra
cũng lạC, bởi quân tư trang của 64 lần này không giống với đồ dùng của các đơn
vị đi B dài khác. Những bộ quần áo mới thì chẳng nói làm gì bởi nó vẫn như quần
áo mọi khi. Nhưng tăng võng và các trang bị khác như thuốc men và các thứ hàng
hoá cấp kèm theo thì rất sơ sài. Nhiều người nghĩ rằng có lẽ nhà nước mình có
khó khăn do kháng chiến kéo dài nên cũng thiếu thốn hơn chăng.
Chỉ đến khi cuộc chiến đã mở ra và
toàn thắng ở vùng đường 9 Nam Lào người ta mới hiểu rằng mọi công việc mà cánh
lính tráng hậu cần chúng tôi làm trong mấy tháng qua chỉ là động tác nghi binh
trong chiến thuật mà thôi. Người ta càng không thể ngờ rằng sư đoàn trưởng Kim
Tuấn đã vào khảo sát vùng chiến trường từ trước đó khá lâu. Người ta càng không
thể ngờ rằng trung đoàn 64 của sư đoàn 320 chẳng đi B dài mà là vào đón lõng
tại một vùng hiểm yếu để tiêu diệt toàn bộ quân địch định bất ngờ đánh vào hậu
phương của ta mà chúng đặt tên là chiến dịch Lam Sơn 719. Có một điều càng
không thể ngờ được đó là kẻ địch tưởng ta đã bị chúng nghi binh thu hút lực
lượng vào cuộc phòng thủ miền Bắc. Chúng có biết đâu rằng ta đã chờ chúng hàng
mấy tháng trời tại cái nơi mà chúng tổn hao không biết bao sức lực vào đó để
rồi hàng ngàn quân, hàng ngàn ô tô, xe tăng, trọng pháo và cả những máy bay lên
thẳng đã không kịp chạy thoát thân. Bản tin chiến sự đã mô tả cuộc rút chạy hỗn
loạn ấy không khác nào một đàn vịt bị săn đuổi. Hàng ngàn những ô tô, xe tăng
vẫn đang nổ máy còn bọn lính lái xe đã tháo chạy không biết tự bao giờ. Cả đống
những phương tiện chiến tranh bị bỏ lại trên đoạn đường dài mấy cây số. Trong
cái mớ hỗn độn ấy người ta còn thấy cả những chiếc máy bay lên thẳng hạ xuống
rồi không kịp bay lên trốn chạy. Trung đoàn 64 là một trong những đơn vị lập
công lớn trong chiến dịch. Có một điều đặc biệt hơn là trung đoàn còn bắt sống
được đại tá Thọ lữ đoàn trưởng lữ đoàn dù, một trong những người đứng đầu chiến
dịch Lam Sơn 719 của quân địch. Nghe đâu Thọ còn là một nhân vật của CIA, cục
tình báo trung ương Mỹ.
Sau khi hoàn thành cuộc nghi binh
chiến thuật, khối hậu cần trong đó có tiểu đoàn 25 vận tải và một số các đơn vị
chiến đấu của trung đoàn 48 được điều vào tiếp ứng để chặn đánh một số bộ phận
quân địch chạy tán loạn khắp vùng lân cận. Đại đội 2 của Hằng được đưa lên xe
chở vào vùng Cự Nẫm của địa phận của tỉnh Quảng Bình rồi sau đó hành quân bộ đi
sâu vào miền rừng khọc của Tỉnh XaVaNakhệt trên đất của nước bạn Lào. Cuộc hành
quân của đại đội 2 dừng lại ở vùng Na Thông, Na En để phối hợp với các đơn vị
chiến đấu tiến đánh các cứ điểm ở khu vực Pha Lan, Đồng Hến. Cho đến tháng 6
năm 1971 thì tất cả mọi lực lượng tham gia cuộc tập kích của quân địch ra đường
9 năm 71 mà chúng lấy con số năm 71 cùng với địa danh đường 9 ghép lại đã hoàn
toàn bị tiêu diệt.
4
Những ngày đầu tháng sáu âm lịch vừa
mới bắt đầu thì cũng là những ngày mở màn cho những trận mưa đầu mùa trên đất
bạn. Cả đại đội hàng trăm người vừa mới mạnh khoẻ là thế mà giờ đây đang lên
cơn sốt rét run lên cầm cập. Ban chỉ huy đại đội 2 cả từ chính trị viên, đại
đội trưởng đến các thành viên khác cũng bệnh tơi bời. Hai cậu liên lạc trẻ Tâm
và Luận khoẻ thế mà cũng nằm rên hừ hừ mỗi thằng một xó. Cũng không biết thế
nào mà Hằng lại nằm ở con số bốn người trong đại đội không bị sốt. Ba trong số
bốn người không bị sốt thì đều đã từng sốt ở Thượng Lào năm trước còn có thể
nói là có sự miễn dịch chứ Hằng thì đâu đã sốt bao giờ. Sau nhiều năm nghiên
cứu về bệnh nhiệt đới nhiều học giả người nước ngoài đã cho biết Nam Lào là
vùng tập trung của các loại bệnh sốt rét do muỗi gây ra vào diện đứng đầu thế
giới, thế mà Hằng lại không bị sốt thì quả thật là lạ.Tất nhiên là không sốt
thì phải cáng đáng toàn bộ mọi việc cho những người ốm. Đâu là việc chăm lo cơm
nước, giặt dũ áo quần, thậm chí cả việc gác sách đêm hôm cũng phải cáng đáng
nhiều hơn. Cũng may là cụm công tác của Hằng chỉ có mỗi một anh Nhu đại đội phó
cùng với mấy người, chứ nếu ở đại đội bộ phía trong bãi đá Na En thì chắc là
cậu chạy tướt bơ cả ngày sang đêm không hết việc.
Còn đang dọn dẹp một vài thứ vũ khí
của anh em để bên miệng hầm kèo thì đã nghe có người gọi từ bên hầm của đại đội
phó, Hằng đứng lên thắt lại dây lưng quần rồi chạy sang nhận lệnh. Vừa thấy mặt,
tham mưu trưởng sư đoàn Phát đã giao cho cậu một thư lệnh bảo phải gấp rút đưa
vào cho tiểu đoàn trưởng Nguyễn Quý ở mãi tận Na En. Nhận thư xong Hằng nhét
thư vào ngực áo rồi chạy về hầm của mình để chuẩn bị lên đường. Đường đi vào Na
En chỉ độ hai chục cây số và hầu như cũng rất an toàn, nên Hằng cũng không cần
chuẩn bị gì nhiều. Vừa khoác khẩu AK báng gấp lên người định đi thì đại đội phó
gọi lại bắt mang thêm khẩu K54 với đủ ba băng đạn nữa rồi mới cho đi.
Cũng thật may cho Hằng là hôm nay trời
tương đối khô ráo nên đường xá quang đãng có thể nhìn thấy tất cả mọi thứ ở khá
xa nên không lo bị địch phục kích. Mặc dù vừa đi vừa chạy gằn nhưng Hằng không
khỏi lo lắng sợ rằng mình đến không kịp thời gian quy định. Trong suốt thời
gian tập luyện các cán bộ khung đã nhấn mạnh đến trách nhiệm hoàn thành nhiệm
vụ của người chiến sĩ trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Đặc biệt là nhiệm vụ giao
thông liên lạc, chuyển mang tài liệu trong chiến đấu. Các tài liệu phải được
bảo đảm hoàn toàn bí mật, không để lọt vào tay kẻ địch, phải mang đến nơi nhận
đúng địa điểm, đúng thời gian. Đây cũng là lần đầu Hằng làm nhiệm vụ này nên
trách gì không khỏi lo lắng dọc đường.
Đang vừa đi vừa suy nghĩ, chợt Hằng
thoáng nghe trong gió hình như có tiếng người từ phía trước mặt vọng lại. Nhanh
như một vận động viên chạy việt dã Hằng vượt qua khoảng trống để lẩn nhanh vào
khu vực cây cối um tùm của một ốc đảo. Dựa mình vào một cái rễ cây khá lớn đủ
che khuất người rồi tập trung quan sát ra bốn phía xung quanh. Ngón tay cái khẽ
khàng ấn khoá hãm của khẩu AK báng gấp
rồi đặt ngón trỏ vào vòng cò súng. Có lẽ là số lượng của nhóm người này khá
đông nên tiếng ồn ào nghe khá rõ. Cũng không phải đợi lâu thì người đi đầu đã
xuất hiện. Một người đàn ông mặc áo rằn ri, tiếp theo là một người đàn ông mặc
một cái áo cộc ba lỗ, bên dưới quấn xà rông, kế đến là hai người phụ nữ mặc váy
hoa. Phía sau hình như còn có mấy đứa trẻ con lũn cũn sau đám cỏ tranh. Đã gần
lắm rồi, có lẽ chỉ còn cách hai trăm mét là cùng! Một trăm rưởi mét! Một trăm
mét! Gần quá rồi, có lẽ phải bắt đầu thôi. Nhưng sao thế nhỉ? Tất cả họ đều
không mang súng hoặc một thứ vũ khí gì mà chỉ có các loại dao, gùi, ống nước!
Có lẽ đây là một gia đình người Lào đi thăm người hoặc ra nương thì phải. Chỉ
còn độ năm mươi mét nữa là chạm nhau rồi. Chợt ba đứa trẻ con vùng chạy đuổi
nhau lao nhanh về hướng Hằng phục kích. Chúng chạy nhanh quá và chợt đứng sững
lại vì chúng đã nhận ra có người lạ ở bên gốc cây trước mặt mình. Cả ba đứa
cùng la eo éo và chỉ tay về phía Hằng báo cho những người lớn biết. Nói thì lâu
chứ thực tế thì từ khoảng thời gian Hằng phát hiện ra nhóm người đó cho đến lúc
lũ trẻ vọt chạy đuổi nhau kéo dài chỉ độ năm sáu phút. Ngay cả những ý nghĩ chợt đến, sự liên
hệ tình hình ở trong đầu đến khi đánh giá xong sự việc để đi đến hành động cũng
chỉ nhanh chóng lướt qua trong vài mươi giây là cùng.
Những người
lớn trong nhóm sau khi nghe lũ trẻ la lối cũng dừng lại cả và thận trọng nhìn
về phía Hằng. Họ đứng nguyên với tư thế khi họ bất chợt dừng lại mà không dám
thay đổi tư thế khác vì sợ bị đối phương hiểu lầm về hành động của họ. Họ có vẻ
lo lắng hoảng sợ khi thấy Hằng hướng mũi súng về phía họ. Sau giây phút bị bất
ngờ vì lũ trẻ phát hiện ra mình thì Hằng cũng đã trấn tĩnh lại và quan sát kỹ
cả nhóm người đứng trước mặt, trong khi tay vẫn chạm sát vòng cò súng. Trong
lúc cả mấy người vẫn đứng nguyên tại chỗ Hằng đã nhìn lại người mặc áo rằn ri,
người này vào khoảng bốn mươi, còn người già thì không thể đoán ra tuổi được
bởi mặt mũi thì nhăn nhúm, lưng lại còng gập xuống. Cái áo rằn họ mặc cũng đã
quá cũ, nhiều chỗ trên vạt đã rách sơ ra chỉ còn cái vệt xanh đen khoang khuở
thì vẫn còn nhìn khá rõ. Cũng giống như Hằng, sau cú chạm mặt bất ngờ làm cho
nhóm người ấy sợ sệt đôi chút nhưng họ thấy người cầm súng không có ý làm hại
đến họ thì họ có vẻ an tâm hơn. Sau một lúc cả hai bên im lặng nhìn nhau thì
chợt nghe thấy cả mấy người trong nhóm léo xéo với nhau mấy câu gì đó rồi thì
tất cả bằng ấy người nối theo nhau rẽ xiên về phía bên trái để vòng xa người
cầm súng một chút. Hai người đàn bà có vẻ rón rén hơn, vừa đi vừa túm tay lũ
nhỏ lôi theo làm cho chúng không còn chạy nhảy được như lúc trước. Hằng thở
phào nhẹ nhõm khoá súng lại rồi đi tiếp khi nhóm người của gia đình người Lào
ấy đã đi khuất hẳn phía sau.
Gần một giờ
đồng hồ vừa đi vừa chạy Hằng mới đến được bờ một con suối lớn. Nghe số các đồng
chí đã đi qua nói lại thì con suối này là điểm chia đôi khoảng đường từ trạm
trung chuyển nơi Hằng ở đến bãi đá Na en là nơi tập kết của cả đơn vị. Con suối
mà anh em kể nghe thật nhỏ bé, còn con suối Hằng gặp sao lại lớn quá thế này.
Thậm chí nó có thể là sông chứ không còn là suối, bởi chiều ngang mặt nước rộng
đến hơn bốn mươi mét. Còn dòng nước của nó thì cuồn cuộn chảy trông thật hung
hãn và đầy thách thức đối với những người muốn vượt qua nó. Cùng với những xoáy
nước đục ngầu là những đợt sóng chồm lên vật xuống lao đi với hàng ngàn tiếng
ồn ào đinh tai nhức óc. Tuy nhiên điều đó còn không đáng sợ bằng những những
cây gỗ, cây tre và hàng ngàn các vật nhọn có, kềnh càng có đang thi nhau vun
vút lao đi trên khắp mặt nước với tốc độ ghê người.
Sau một
thoáng phân vân lo là mình bị lạc đường thì Hằng cũng nhận ra dấu của anh em đi
công tác hàng ngày để lại như lời dặn lúc ra đi. Thế là bây giờ chỉ còn mỗi một
việc là làm thế nào để vượt sang bên kia nữa mà thôi. Việc phải bơi qua là điều
tất nhiên rồi nhưng mà có thể qua được bên kia không hay là bị gỗ thúc vào
người và vĩnh viễn nằm lại ở đáy sông mới là điều cần phải nghĩ đến. Thời gian!
Thời gian không cho mình nghĩ lâu hơn nữa và việc phải bơi qua sông đã được dự
kiến trong đầu. Kiểm tra lại công văn một lần nữa rồi thắt lại bao súng ngắn. Khẩu AK
báng gấp cũng được quàng qua người rồi lại buộc vào ngang lưng bằng một đoạn
dây dù.
Một gốc cây
lớn với những khúc rễ, cành cồng kềnh vừa trôi tới. Không còn nghĩ gì nữa Hằng
lao người thật nhanh ra mặt sông men theo những cành cây rườm rà trước mặt.
Thật không thể ngờ được là Hằng không thể bám kịp được vào đám cành rễ đó bởi vừa khi chuẩn bị
bám vào đám cành lá thì một súc gỗ ở đâu đó bất ngờ nổi lên theo xoáy nước lao
thẳng vào Hằng. Ngay lúc đó Hằng buộc phải láng về bên phải để tránh khúc gỗ ma
quái kia. Một xoáy nước rút Hằng xuống khỏi mặt nước, Hằng vẫn còn cảm thấy
hình như bề mặt vỏ xù xì của khúc gỗ
trượt qua mạng sườn bên trái. Cũng may cho Hằng là cái xoáy nước sau khi lôi Hằng
xuống khá sâu thì nó lại thả Hằng ra để cho Hằng trồi được lên mặt nước. Đến
lúc này thì đành phải mặc kệ mọi điều
nguy hiểm ở cả hai bên người, Hằng chỉ còn biết bơi và bơi cho nhanh bất chấp
điều gì có thể xảy ra.
Có lẽ khi đã
là một vật như bao vật khác cùng trôi trên sông thì tốc độ của mọi vật cũng
ngang nhau mà Hằng có khác gì một vật đang trôi nên ngay phía trước, phía sau,
bên trái, bên phải Hằng ngồn ngộn là những vật lớn có, nhỏ có mà vẫn không thấy
chạm vào người. Hằng nhận ra rằng mình không nên cố vượt các vật cản mà nên lựa
theo chúng rồi tranh thủ né mình hướng về bờ sông bên trái, đồng thời cố gắng
tránh xa các đợt sóng cùng những xoáy nước thỉnh thoảng xuất hiện ngay bên cạnh
là sẽ thành công. Cũng không biết thời gian kéo dài bao lâu, chỉ đến khi áp sát
vào bờ sông bên kia Hằng mới tin là mình còn sống. Sau khi cởi tất cả quần áo
ra để vắt bớt nước, ngồi nghỉ một lúc cho lại sức, Hằng mặc lại bộ đồ ướt rồi
tiếp tục lên đường. Hằng đi ngược lại theo chiều nước chảy có lẽ phải đến gần
nửa cây số mới gặp lại con đường mòn đơn vị vẫn đi công tác hàng ngày. Như vậy
thì quãng đường mà nước cuốn Hằng đi cũng khá là xa đấy chứ!
5
Sau khi trao
công văn cho lãnh đạo, lại kể cho bọn Tâm và Luận nghe câu chuyện vượt sông
xong mới thấy mệt và đói. Vừa mỉm cười nghe ông anh “đường nhựa” nói về cái
việc vượt sông chả lấy gì làm ghê gớm âý, Luận vừa vào bếp mang ra một cái
xoong đựng cơm và nưng bát thịt kho lõng bõng. Đặt xoong cơm và bát thịt trước
mặt Hằng, Luận bảo:
- Anh may nhé!
Hôm nay bắt được một con nhím nên nấu hơi nhiều cơm! Biểu dương thành tích bằng
bát thịt nhím này đấy nhé!
Vừa cơm nước
xong thì đã thấy bên trung đội ba của anh Giao hò la ầm ĩ. Hằng chột dạ hỏi Tâm
và Luận:
- Này! Không
sợ lộ bí mật nơi đóng quân à!
- Bọn nguỵ
chạy sạch cả rồi! Làm gì còn thằng nào mà phải bí mật.
- Này, tớ vừa
gặp một gia đình Lào lúc đi vào đây, tý nữa thì tớ xả súng diệt gọn. May mà
trong đám ấy có ba đứa trẻ con chứ không thì …!
- Dân ở đây
lỳ lắm, họ còn vào cứ điểm vừa đánh xong để vét chiến lợi phẩm đấy anh ạ!
Đang còn nói
chuyện với nhau thì đại đội trưởng đã về đến. Vừa vào đến lán anh đã hô bọn Tâm,
Luận thu dọn quân tư trang. Cả bọn còn đang ngơ ngác chưa biết gì thì đã nghe
đại đội trưởng bảo:
- Thế nào? Có
ra không thì bảo!
Luận nhanh
mồm hỏi lại:
- Ra hẳn hay
tạm thời hả thủ trưởng?
- Đã ra lại
còn có cả ra tạm thời nữa à? Riêng cậu ra tạm thời còn chúng tớ thì ra hẳn.
Cũng chỉ đợi
có thế là Luận vỗ tay hét lên ầm ĩ. Thì ra không biết nghĩ thế nào mà trưa nay
Luận bảo không nên giặt quần áo để tránh phải bỏ quần áo ướt vào ba lô. Còn Tâm
thì không nghe, đã đem cả hai bộ nhúng nước giặt phơi ngoài bờ suối bây giờ vẫn
còn ướt rườn rượt.
Đến lúc này
thì Hằng mới biết công văn mà mình mang vào lúc nãy là lệnh rút quân mà trên
đưa xuống. Hằng vội gặp đại đội trưởng trình bày về tình hình sông nước vừa gặp
lúc đi vào. Nghe xong đại đội trưởng bảo:
- Không sao
đâu! Có khi mình ra đến nơi thì suối đã cạn khênh rồi ấy chứ. Vùng này thỉnh
thoảng nước lũ vẫn tràn về như vậy nhưng chỉ ba bốn tiếng là lại cạn ngay.
Dừng một lúc
đại đội trưởng lại hỏi Hằng:
- Thế vừa rồi
cậu đi vào bằng cách nào?
- Đành phải
nhảy xuống mà bơi thôi chứ còn biết làm thế nào hả thủ trưởng!
Nghe đến đây
thì đại đội trưởng ngạc nhiên thực sự, anh vừa quét mắt nhìn khắp một lượt trên
người của Hằng vừa bảo:
- Thế mà cậu
chả dìm luôn cả người lẫn công văn xuống suối để chúng tớ lại bị một phen đi
tìm bở hơi tai thì mới vừa.
- Làm thế nào
được! Ông Phát bảo phải kịp thời, không thì ông ấy cho ra bã!
- Mà cũng
phải…! Thôi cậu dẫn đường đi, cậu giúp thằng Tâm mang mấy bao gạo ra luôn ngoài
ấy.
Không lâu sau
toàn bộ lực lượng của sư đoàn đã rút quân ra tận Kỳ Tây, Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Tiếp
tục những ngày học tập và huấn luyện, chuẩn bị cho những nhiệm vụ tiếp theo ở
một mặt trận nào đó mà không ai có thể dự đoán được.
Về Kỳ Tây mới
chỉ được mấy hôm đơn vị đã lại bắt đầu đi vào học tập và rèn luyện. Những bài
tập bắn bia được ôn lại từ đầu như khi mới vào bộ đội. Từ bia số 4, số 6 đến
bia số 7, bia thằng còm di động, chả thiếu loại bia nào. Các buổi tối không
sinh hoạt thì tập bắn đèn ở sân kho của hợp tác xã. Cũng chẳng biết thế nào mà
ngay hôm tập bắn đèn đầu tiên cậu Long ở trung đội 2 lại cho nổ một viên đạn.
Cũng may là viên đạn không gây sát thương cho ai mà chỉ làm vỡ cây cột cái bằng
luồng của một nhà dân ở bên trái sân kho. Làm mất công trung đội phải đi thương
lượng xin lỗi gia đình bị nạn. Sau vụ này đơn vị họp lên họp xuống để tìm
nguyên nhân mà vẫn không tìm ra nguyên nhân của sự việc. Trung đội trưởng trung
đội 2 nói anh đã cho khám súng rất cẩn thận trước khi vào huấn luyện lại có cả
chính trị viên phó cùng tham gia buổi tập xác nhận. Mãi về sau này, khi sự việc
đã dần lãng quên rồi người ta mới đoán rằng có lẽ có cậu nào đang ở phiên gác đã
đi qua bãi tập rẽ vào rồi để lẫn súng gác với súng tập. Những người gác hôm ấy
thì cũng có đến mấy người, nhưng người làm lẫn súng thì mọi người cũng đã biết.
Có điều sự việc đã nhạt rồi nên ban chỉ huy chỉ gọi cậu ta lên để phê bình rút
kinh nghiệm một lúc rồi cũng thôi không kỷ luật nữa.
Công tác đoàn
cùng với các chương trình văn nghệ đã làm cho Hằng bận suốt ngày không hết việc,
nay lại càng bận thêm với cái chức phó chủ tịch hội đồng quân nhân của đại đội
mà Hằng vừa được bầu vào trong đợt củng cố đơn vị lần này. Nào là tổ chức dạy
những bài hát truyền thống, nào là viết kịch bản và dàn dựng các vai kịch cho
tổ văn nghệ, rồi thì tập huấn diễn viên. Lại còn khổ hơn khi chả có ai muốn
đóng vai cố vấn Mỹ vừa nham hiểm, độc ác, vừa đểu giả với các cô gái trong cốt
kịch do Hằng viết ra. Thế là Hằng đành phải vào vai kịch này vậy.
Cuối cùng thì
đơn vị cũng tổ chức thành công buổi biểu diễn văn nghệ với hàng chục các tiết
mục từ tấu nói đến ca hát tập thể, ca hát cá nhân và cuối cùng đêm diễn là vở
kịch viết về các chiến sĩ biệt động miền Nam tổ chức đánh Mỹ ngay tại nội đô
Sài Gòn, Chợ Lớn. Ngoài các khán giả là cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị ra còn có
rất đông thanh niên và nhân dân của địa phương cũng đến xem. Mỗi tiết mục kết
thúc là tiếng vỗ tay lại vang lên không ngớt, làm cho không khí của một vùng
quê như bừng dậy sau rất nhiều thời gian im lìm vắng lặng của những năm chiến
tranh bom đạn.
Suốt trong
mấy ngày nay trên đài nói nhiều về mức nước sông Hằng, sông Đuống ngày một lên
to. Những người quê ở gần các vùng sông này luôn lo lắng về một cuộc vỡ đê có
thể sảy ra. Trong những năm Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc, chúng
cũng đã nhiều lần đánh vào đê đập và các công trình thuỷ lợi. Nhiều chỗ mới chỉ
kịp hàn vá mà chưa củng cố được nên rất xung yếu không biết vỡ lúc nào. Thế rồi
cái việc luôn lo lắng ấy cũng đã sảy ra ở đê sông Đuống. Đê làng Tình Quang
thuộc huyện Gia Lâm chính là điểm vỡ lớn nhất. Cả một khu vực rộng lớn bao gồm
cả mấy huyện của Hà Bắc, Hải Hưng và Hà Nội đều bị ngập lụt có chỗ sâu tới ba,
bốn mét nước. Đơn vị cũng có rất nhiều chiến sĩ quê ở trong vùng bị lụt nên
cũng đã báo cáo lên cấp trên cho về phép đặc biệt. Các đề nghị cũng đã được sư
đoàn chấp nhận và giao cho các đơn vị bố trí.
Sau cuộc họp
điểm danh buổi tối xong anh Huynh chính trị viên phó nháy Hằng ra cổng doanh
trại không biết để làm gì mà nghe có vẻ rất bí mật. Đoán chắc lại bàn về công
tác thanh niên nên Hằng lừng chừng mãi không chịu ra. Vừa lúc ấy hai cậu liên
lạc cùng với y tá Cứ lại rủ đánh bài bôi nhọ nồi thế là Hằng quên luôn không ra
cổng nữa. Chờ mãi không thấy Hằng, anh Huynh lại quay trở vào nhà kho. Vừa thấy
Hằng đang quỳ trên chiếu anh liền dùng hai đốt ngón tay dọi cho một cái vào đầu
rồi bảo:
- Lúc họp nói
thế nào mà lại không ra thế hở?
Lúc ấy Hằng mới
nhớ ra, bèn xếp bài lại tiện tay đưa cho anh nuôi trưởng Toán rồi theo anh
Huynh ra ngoài cổng. Thì ra anh Huynh gọi Hằng ra để báo cho biết là cậu được
về phép đặc biệt vào sáng ngày mai. Hằng vừa nghe được đã định hét toáng lên
thì anh Huynh giơ ta bịt mồm lại:
- Này cả đơn
vị chỉ có mỗi một mình cậu được đi thôi đấy! Đừng làm ồn lên ảnh hưởng đến đơn
vị.
Ngừng một lúc
anh lại nói tiếp:
- Xuống ngay
chỗ cậu Binh quản lý thanh toán tiền đi đường cho kịp mai đi sớm. Chốc nữa tớ
gửi mấy bức thư mang về ngoài đó bỏ cho nhanh.
- Thủ trưởng
yên tâm em sẽ bỏ ở nơi bưu điện lớn nhất tỉnh để thư đến cho nhanh.
- Thôi không
phải về tỉnh mà chỉ cần bỏ ở Hà Nội là được, Hà Tây nhà tớ ở ngay cạnh Hà Nội
còn gì!
Công việc
thanh toán cũng chả lâu la gì vì hình như Anh Binh quản lý đã được biết trước
nên đã chuẩn bị sẵn rồi.
Đêm sao mà
dài thế đến thế! Hình như Hằng chưa thấy có một đêm nào dài đến thế bao giờ.
Vừa thao thức nhớ về nhà vừa bị mấy cậu liên lạc lạo xạo viết thư trong góc nhà
không sao yên tĩnh được nên Hằng đành giương mắt thao láo ra để chờ sáng.
Thực ra thì
có rất nhiều người quê ở vùng lụt nhưng chỉ mỗi một mình Hằng được về thì đó
quả là một điều đặc biết. Có lẽ Hằng là người ở trong đại đội bộ nên các thủ
trưởng cũng tin tưởng hơn số anh em khác. Bởi vì khi cho một chiến sĩ về nhà
cách xa đơn vị đến hơn bốn trăm cây, rồi chiến sĩ ấy có trả phép đúng hẹn hay
không hoặc giả có thể cậu ta đảo ngũ không trở lại thì sao? Có lẽ ngoài lý do
trên các thủ trưởng cũng như có ý thưởng công cho Hằng vì những cố gắng trong
mấy tháng qua về công tác đoàn, công tác báo chí và công tác hoạt động văn
nghệ. Thôi thì vì cái gì cũng được miễn là mình là người được về thăm nhà thế
là quý lắm rồi.
Trời còn chưa
sáng rõ mặt người, Hằng đã ba lô khăn gói từ biệt các thủ trưởng và các bạn
trong đại đội bộ lên đường. Chặng đường từ Kỳ Tây lên thị trấn Kỳ Hoa cũng khá
dài và lại chẳng có loại xe chở khách nào nên Hằng đành phải đi bộ. Chưa đi
được năm sáu cây số Hằng đã gặp đến năm, sáu cái ngầm. Ngầm nào cũng ngập nước
thế là Hằng cũng chẳng buồn thay quần nữa mà cứ mặc ướt để đi. Đang mừng vì sắp
đến Kỳ Hoa thì lại gặp ngay một cái ngầm nữa. Ngầm dài đến hơn ba chục mét mà
nước thì lại có vẻ rất sâu. Những khối nước không biết từ đâu dồn về lao đi
cuồn cuộn va vào bờ đá tung bọt trắng xoá, cùng với những khối nước sẵn có từ
trước xoáy cuộn ào ào chảy từ bên này đường rồi đổ xuống bên kia đường với độ
cao đến năm sáu mét. Chẳng dễ gì trụ lại trên những xoáy nước mặt đường mà
không bị khối nước kia hắt xuống bên kia đường rồi trôi tuột đi đâu không biết.
Thế là lại phải đợi mất mấy tiếng đồng hồ chờ nước cạn. Chắc chắn lại nhỡ
chuyến xe đêm nay rồi, thật là ngán ngẩm hết chỗ nói.
Dòng nước vẫn
chảy dường như không có dấu hiệu của sự thuyên giảm. Đường đồi vắng ngắt không
một bóng người. Từ trên một sườn núi cách đó không xa vẫn còn đó hai sợi dây
cáp của cây cầu treo thời đi bộ hành quân vào Nam . Thực ra cái thời vừa nói đến
cũng chẳng xa gì bởi con đường 559 cũng mới được bắt đầu khai thác trong vòng
sáu năm đây thôi. Bởi con đường từ KỳTây đi lên Kỳ Hoa cũng vẫn còn nguyên màu
tươi mới của đất đồi đỏ dọi. Đâu đây hình bóng những cô gái mặc áo phòng không
vẫn còn đâu đó ở trên đường cùng với những cuốc xẻng, quang gánh bên một đoạn
đường đầy hố bom sâu hoắm. Những người con gái chỉ mới vừa mười sáu tuổi
đã bước chân vào cuộc chiến với sự quả
cảm ít người sánh nổi. Trên đoạn đường ngầm này thôi, không biết đã có bao
nhiêu người đã ngã xuống, không bao giờ còn trở lại quê hương được nữa.
Đang mải nhìn
lên những sợi dây cáp trên đỉnh núi cao và suy nghĩ linh tinh nên Hằng không để
ý từ phía bên kia ngầm đã xuất hiện hai người đàn ông, một già, một trẻ, đang
đứng ngó nghiêng quãng đường ngập nước. Sau khi nghe hai người ở phía bên kia
vừa trao đổi với nhau mấy câu bằng cái giọng của địa phương miền trong vừa sắn
quần, sắn áo thì Hằng đoán rằng họ đang định vượt sông. Đến lúc này thì Hằng
chăm chú theo dõi xem họ sẽ vượt sông như thế nào để rồi mình cũng sẽ bắt
chước. Dù sao thì những người sống ở những vùng quê như thế này chắc họ sẽ biết
được độ sâu nông, mạnh yếu của dòng nước hoặc ít ra thì họ cũng có kinh nghiệm
vượt ngầm hơn mình.
Chưa đi được
mấy bước thì cả hai người đã ngã nhào xuống mé đường, cũng may là đầu đường bên
ấy khe nước không sâu lắm chứ không thì họ đã gặp nguy hiểm. Lóp ngóp lên bờ
trong bộ quần áo ướt, trông họ thật đáng ngại. Cũng còn may là hôm nay trời
không mưa rét chứ không thì họ cũng gặp nguy hiểm không kém. Mình thật là hy
vọng hão huyền!
Còn đương dõi
mắt nhìn về đầu ngầm bên kia thì đã có mấy người từ phía đằng sau tiến lại.
Cũng không hiểu họ rẽ ra từ con đường nào mà trong đó lại có một cô bé mang
theo một chiếc xe đạp. Có lẽ họ ở một khu nào đó ở giữa khoảng đường từ cái
ngầm trước cái ngầm lớn này. Vừa nhìn thấy Hằng thì một người có độ tuổi trung
niên cất giọng ồm ồm hỏi:
- Anh bộ đội
đã đến đây lâu chưa hè?
Có lẽ người
ấy muồn hỏi thế để dự đoán thời gian nước sẽ cạn xem có nên chờ hay là quay trở
lại. Hằng chưa kịp trả lời thì người ấy lại hỏi tiếp:
- Rứa anh bộ
đội đã có cách chi đi qua chưa?
Khi nghe hết
hai câu hỏi vừa rồi Hằng chỉ mủm mỉm cười đáp lại và chỉ sang phía bên kia ngầm
vừa kể cho cả mấy người nghe về vụ vượt ngầm không thành của hai người ở bên
kia ngầm.
- Bác thấy
đấy! Cháu cũng chưa nghĩ ra cách nào để vượt qua được đâu.
Nghe thấy
Hằng nói vậy khuôn mặt người ấy cũng như buồn hẳn đi. Tuy vậy ông vẫn cất tiếng
như là nói với mình:
- Chả lẽ phải
quay trở lại…Thế thì nhỡ hết cả việc!
Chính trong
lúc Hằng cùng người nhiều tuổi nói chuyện thì cả nhóm người vừa đến cũng rì rầm
trao đổi với nhau. Cho đến khi câu chuyện của Hằng cùng ông già vừa kết thúc
thì tất cả cũng đồng loạt im lặng, làm cho không khí càng nặng nề hơn. Cũng
phải mất mấy phút không ai nói với ai lời nào mà chỉ còn mỗi tiếng nước chảy
của con ngầm như sôi lên trong lòng mọi người.
Có lẽ mọi
người đã chẳng còn hy vọng gì vào việc vượt ngầm nữa nên họ lại quay ra để hỏi
thăm nhau. Người này thì hỏi người kia là người ở đâu đến người nọ thì hỏi
người này là sẽ về đâu. Chỉ có mỗi Hằng cùng ông già là đứng im lặng nhìn dọc
cái ngầm đang sôi lên từng đợt sóng. Vừa lúc đó ông già lại cất giọng ồm ồm lên
cắt ngang dòng suy nghĩ của Hằng:
- Làm sao mà
kỳ ni nước lâu rút vậy hè!
Trong khoảng
thời gian tư duy ngắn ấy Hằng chợt nảy ra một ý nghĩ khá táo bạo, thế là Hằng
trao đổi với cả sáu người mới đến về cách vượt ngầm của mình. Thực ra cũng
chẳng có gì phức tạp lắm về cách vượt ngầm mà Hằng đề xuất. Cái chính là Hằng
muốn lợi dụng việc người nọ lấy người kia làm cọc chống để chống lại sức nước
mà thôi.
Nghe xong
phương án vượt ngầm của Hằng, ông già lúc nãy liền đồng ý ngay. Tức khắc ông
lại cất cái giọng ồm ồm lên để đôn đốc
mọi người:
- Choa biết
các anh bộ đội là giỏi lắm he! Bây chừ tui sắp thế ni! Tui với anh bộ đội đứng
ở mạn nước xuôi, cậu thanh niên tê thì đỡ cái xe đứng vô giữa, còn lại thì
người ni nối người tê rồi cùng xuống một lượt nghe!
Ngay khi vừa
mới xuống mọi người nghe có vẻ rất chới với, nhất là cô gái có cái xe đạp thì
hình như run bắn cả lên. Thế nhưng đi được độ mươi bước thì cái vòng người có
vẻ ổn định trở lại. Trong vòng tròn thì chỉ có tiếng của ông già, còn từ đầu
bên kia là tiếng của hai người đàn ông hô hoán ầm ĩ át cả tiếng nước chảy.
Cuối cùng thì
tất cả mọi người cũng sang được phía bên kia, mặc dù tất cả đều ướt như chuột
lột. Nghỉ được một lúc, mọi người định đi thì lại phát hiện ra hai người ở bên
này còn chưa đi được, thế là cả nhóm, trừ cô con gái, còn tất cả lại phải đưa
hai người quay sang bờ bên kia rồi mới quay trở lại. Cả sáu người bắt tay chào
nhau xong là hối hả lên đường. Nhìn những khuôn mặt hể hả vui tươi chào mình
Hằng chợt nhớ lại lời ông già nói trước lúc chia tay:
- Choa biết,
cứ khi nào có khó khăn mà gặp các anh bộ đội là choa không lo chi hết mô! Cách
chi các anh ấy cũng vượt qua được!
Dù sao thì
cũng phải có mọi người cùng chung sức, chứ nếu chỉ có một mình thì anh bộ đội
của ông cũng cứ là phải chờ thôi đấy ạ! Một loạt những ý nghĩ trong đầu về dân
vận và về nhiều điều khác nữa trong những năm tháng quân ngũ cứ lướt qua như
những trang sách. Tất cả hầu như đều là những điều tốt đẹp và thật cao thượng.
Hằng đến Kỳ
Hoa vừa kịp mua vé xe ra Bắc và chỉ sau một đêm quãng đường đã được rút ngắn
lại, cho dù tầu hoả cũng vẫn chậm rề rề như mọi khi. Lọc cọc suốt hai ngày đêm
rồi Hằng cũng đã về đến Hà Nội. Xuống tầu thì trời đã chiều nên Hằng không vào
chỗ thím Đối mà về ngay nhà. Từ ga về nhà có lẽ cũng phải hơn chục cây số.
Quãng đường như vậy đối với một đồng chí bộ đội đã từng rèn luyện đi Nam lại đã trải
qua chiến đấu trên mặt trận Nam Lào thì mười cây số có đáng kể gì.
MẶT TRẬN
1
Cũng thật là
may cho đồng chí bộ đội vì vừa bước chân lên cầu Long Biên thì gặp ngay một ông
cán bộ dân sự quần áo trắng tuốt đang cưỡi trên chiếc xe máy JaVa dừng lại ngay
trước mặt mời lên xe cùng đi. Cho dù chiếc ba lô cứ giật bình bịch sau lưng mỗi
khi xe đi vào các ổ gà nhưng Hằng cũng chả để ý. Trong đầu cậu chỉ còn nghĩ làm
sao để có thể về nhà gặp mẹ và mọi người trong nhà nhanh hơn mà thôi. Vừa đi
người cán bộ vừa hỏi anh bộ đội về tình hình chiến trường trong thời gian vừa qua.
Suy nghĩ một thoáng rồi Hằng cũng kể một vài chi tiết về chiến thắng của quân
ta cho người cán bộ vừa lòng. Có lẽ Hằng cũng chỉ có thể nói ở mức như đài đã
nói mà thôi, vì nếu nói nhiều hơn nữa có khi lại vi phạm kỷ luật giữ bí mật của
quân đội thì thật là không đáng. Đã có không ít những câu chuyện về giữ gìn bí
mật trong tiết mục kể chuyện cảnh giác ở trên đài mà mọi người vẫn được nghe.
Có điều để đối xử với một người tốt với mình như thế này thật không thể không
làm cho họ có một chút hài lòng về những điều mà họ đang mong mỏi muốn biết.
Chả lẽ mình lại có thể máy móc đến mức quá đáng thế chăng. Dù sao thì mình cũng
là một quân nhân, kỷ luật buộc mình phải nghĩ và làm như vậy, cũng mong đồng
chí thông cảm cho.
Vừa bắt đầu
vào Ô Cách đã thấy quang cảnh lụt lội hiện ra ngay trên đường quốc lộ. Hàng
ngàn những bao tải đất, cùng với những hòn đất nặn tròn như những cái bánh tàu
hoả nằm rải rác trên khắp cánh đồng trước mặt và cả hai bên đường quốc lộ. Đây
đó ngay bên vệ đường cũng xếp từng đống lớn những thứ mà nước đã cuốn chúng từ
chỗ đê bị vỡ về đây. Có lẽ các địa phương có sông đi qua đã được lệnh chuẩn bị
những thứ như vậy để phòng lụt và bây giờ đã được mang ra sử dụng. Có điều đáng
lẽ tất cả những thứ này phải nằm ở chỗ đê bị vỡ thì mới chặn được nước, thế mà
lại bị đẩy đi xa đến hàng chục cây số thế này thì chắc là chỗ vỡ to lắm. Bất
chợt Hằng nghĩ không biết ở nhà có ai làm sao không? Căn nhà tranh nhà mình ọp
ẹp quá không biết có bị trôi đi hay không? Gần cả đời mẹ mới có một căn nhà cho
mình và các con, nếu lại bị đổ nát hoặc bị nước cuốn trôi đi mất thì chắc là bà
buồn lắm.
Cuối cùng thì
Hằng cũng về đến nhà, sau một hồi lặn lội từ đường quốc lộ vào làng. Có lẽ cũng
phải đến gần một cây số Hằng phải đội ba lô lên đầu rồi dò dẫm trong nước mãi
mới về được đến cổng làng. Ngôi nhà tranh nhà Hằng chưa bị đổ nhưng nước ngập
ngang cột hiên. Cả khu xóm mới này vắng ngắt không một bóng người, không biết
hỏi ai được về tình hình mẹ và em gái ra sao. Nghĩ lại trận lụt năm 1957 Hằng
tin rằng có thể mẹ và em vào ở nhà anh Chìu chị Mão vì nơi này cao nhất làng từ
trước đến giờ. Hằng đang bươn bả đi vào nhà anh rể thì gặp chị cả đi từ trong
nhà anh rể đi ra. Hai chị em mừng rỡ túm lấy nhau hô hoán ầm ĩ cả lên. Thì ra
chị nghe tin trên nhà lụt to nên cũng vội vàng thu xếp việc nhà rồi vội vã theo
tàu lên từ mấy hôm trước.
Hai chị em
vào nhà thì thấy mọi người tập trung khá đông đủ ở đây, mọi người hỏi thăm lẫn
nhau ồn ã đến một lúc lâu mới tạm lắng đi. Lên thăm lụt kỳ này còn có ông bố và
người anh chú Thành, chồng cô Hà cũng từ Thái Bình mới lên sớm nay. Cũng may
cho kỳ phép đặc biệt lần này mà Hằng gặp được người nhà chú Thành, bởi khi hai
người tổ chức cưới nhau Hằng ở chiến trường nên chẳng được biết tý gì.
Ngay hôm sau
số khách các nơi ai nấy đều đã về cả bởi đã biết việc lụt lội cũng đã khá ổn
định lại rồi huống gì việc ăn ở cũng rất chật chội. Hằng ở lại nhà mấy ngày với
mẹ và em rồi lại cùng anh cả về Nam Định. Việc về Nam Định lần này là do anh cả
đề xuất nhằm mục đích tìm cho Hằng một cô vợ để sau này Hằng sẽ ở lại quê để
gây dựng cuộc sống cùng với anh cả gánh vác việc họ, việc nhà. Cũng thật không
may là anh cả lại dính vào dịch đau mắt đỏ thế là chả đi được đến đâu, mọi dự
định đành phải bỏ dở lại cả. Hai chú cháu Hằng rong chơi quanh làng, ngoài chợ
vài ngày cho đến hết mấy ngày phép rồi Hằng lại lên đường về đơn vị.
2
Gần một tuần
lĩnh nhận quân tư trang và các loại nhu yếu phẩm, thuốc men, súng đạn kết hợp
với học tập chính trị, toàn đơn vị đã bắt đầu lên đường làm nhiệm vụ. Vẫn là
tiến vào vùng Cự Nẫm để rồi lên xe đi vào tuyến lửa. Những năm chiến tranh kéo
dài không riêng gì các miền đất phải đương đầu với bom đạn là gặp khó khăn gian
khổ. Những vùng quê miền trung quanh năm hạn hán kéo dài cũng khó khăn không
kém những miền quê khác. Mỗi ngày các ông già bà cả, kể cả bọn con nít cũng chỉ
có khoai và sắn. Vậy mà cả khoai và sắn cũng phải ăn dè, hạt tiện mới có thể
tùng tiệm qua ngày. Cứ sau mỗi đợt chuyển quân Hằng lại đến một gia đình và
Hằng lại thấy những người giống y như thế. Khó khăn là thế nhưng mỗi khi các
gia đình có một vài anh bộ đội đến ở thì cả nhà náo nhiệt vui không thể nào nói
hết. Có lẽ vì thế mà mỗi ngày xa gia đình những người lính phần nào vơi đi
những nỗi buồn để phấn chấn hơn chuẩn bị cho những ngày ra đi sắp tới.
Nhớ lại ngày
đầu tiên khi Hằng đến ngôi nhà lá của cụ Thêm ở Kỳ Thượng lại thấy buồn vui lẫn
lộn. Khi Hằng và anh Như người Thái Bình vác ba lô đến thì chỉ thấy cụ chủ nhà
đi thoáng qua rồi không trở lại. Thế là hai anh em phải chờ gần ba tiếng đồng
hồ vẫn chưa có chỗ nghỉ ngơi, trong khi cả đại đội đều đã ổn định xong chỗ ở.
Mỏi quá Hằng để cả ba lô trên hè rồi ngồi dựa vào bờ vách bằng gỗ ngủ thiếp đi.
Khi thức dậy không thấy anh Như đâu cả đang định đi tìm thì thấy ba lô của anh
vẫn để ngay bên cạnh. Đang chưa biết làm thế nào thì anh Như lò dò về đến sân,
cùng đi với anh còn có trung đội trưởng Giao vừa đi vừa cười rổn rổn. Không
biết có chuyện gì mà vui đến thế không biết, trong khi các tướng đã ăn ngon ngủ
yên còn hai anh em người ta vẫn loay hoay ở một đầu hè.
- Tất cả là
tại cậu đấy!
Thấy anh Giao
vừa nói vừa nhìn vào mình, Hằng đâm nghi hoặc hỏi lại.
- Cái gì mà
tại em hả anh Giao?
- Tại cậu là
dân Hà Nội.
- Hà Nội thì
làm sao?
- Chả là mấy
năm trước có mấy toán thanh niên xung phong đến làm đường, họ chơi bời phóng
túng quá mà bọn này toàn là dân Hà Nội thành ra cụ ấy có ác cảm với dân Hà Nội
của các cậu.
- Nhưng mà em
đã gặp …ông cụ ấy bao giờ đâu!
- Thì thế mới
nên chuyện! Chả là khi phân phối nhà ở ông Nhu nhà mình lại còn giới thiệu thêm
những cái tốt của cánh lính tráng chúng ta. Đâu là có văn hoá, có trình độ,
sinh ra lớn lên ở những nơi có truyền thống để cho bà con dễ chấp nhận, nào ngờ
nói đến cậu sinh ra lớn lên ở thủ đô thì ai cũng ngài ngại. Ông cụ chủ nhà các
cậu lại đang ở đó thế là ông cụ kiên quyết tẩy chay, thế mới chết chứ!
Ngừng lại một
lúc để lấy hơi vì sợ người khác chê nói dài, mà quả là cũng dài thật còn gì,
anh Giao lại tiếp tục giảng giải
- Chỉ tý nữa
là cụ chủ về thôi, chúng tớ đã giải toả tâm lý cho cụ ấy rồi, cứ yên tâm chờ
đợi! Thế thôi tớ về nhé!
- Thế còn cơm
nước thế nào?
- Thì tý nữa
sang nhà trung đội ăn cơm! Lâu nay cậu có háu ăn, háu uống như thế bao giờ đâu?
Nay mai vào trong ấy có khi còn nhỡ bữa đôi ba ngày là chuyện thường ấy chứ!
Lại tràng
giang đại hải, hỏi mỗi nửa câu mà trả lời đến mấy câu liền, khiếp thật. Ông ấy
mà là chính trị viên thì chỉ những họp rồi lê thê mà mệt chứ chẳng chơi. Nghĩ
vậy nhưng thật ra trong lòng Hằng, anh Giao là người mà cậu rất tin yêu và quý mến. Từ ngày về trung đội của anh, Hằng
chưa bao giờ thấy anh nóng giận ai bao giờ. Cho dù là mấy cậu lính đồng hương
Hải Phòng của anh luôn trốn trại đi chơi làm anh mất mặt, đến cánh lãnh đạo cấp
trên ít tuổi hơn anh hay làm phách phê phán này nọ anh cũng chỉ cười ồ ồ rồi bỏ
đi nơi khác. Anh có biệt tài hoà giải mọi người trong khi bất đồng quan điểm,
kể cả khi bàn công việc lẫn khi đỏ mặt tía tai trên những bàn cờ đang vào nước
bí. Cũng không biết thế nào mà khi các đối thủ đang căng nhau anh lại đưa tay
vào bàn cờ của họ để rồi gỡ hộ bên này một nước, hoặc mách cho bên kia một vài
nước mà họ lại đều để mặc cho anh thao túng. Cứ như thế cho đến khi các đối thủ
say sưa trở lại cuộc chơi một cách êm thắm. Chuyện ngày thường là thế nhưng khi
vào nhiệm vụ thì anh lại thay đổi khác hẳn. Từ việc phân công, giao nhiệm vụ
đến việc kiểm tra kết quả công tác anh không bỏ sót một chi tiết nào. Đôn đốc
nhắc nhở chi tiết, kỹ lưỡng đến chân tơ kẽ tóc, phê bình khiển trách cụ thể,
sát sàn sạt đến tận mặt không vị nể một ai. Vậy nhưng hầu như chưa ai bất bình
về những việc mà anh đã quyết định có liên quan tới họ, kể cả đó là những lời
phê phán khá là nặng nề. Mọi người thấy anh luôn tròn trặn và không bận tâm
nhiều về anh vì anh thật giản dị. Sự có mặt của anh trong đơn vị giống như là
khí trời vốn dĩ lúc nào cũng sẵn có trong tự nhiên vậy. Một người lãnh đạo như
thế tựa như của hiếm trong ngàn vạn con người. Ai sẽ là người nhận ra những
viên ngọc sáng đẹp ấy để mà xếp vào đúng cái vị trí của nó. Những người tuyển
ngọc vốn dĩ không là ngọc, thế thì họ biết thế nào về màu sắc, hình dáng của
ngọc!
Cơm nước xong
được một lúc thì đại đội tập trung điểm danh như thường lệ. Kể ra nếu như ở
vùng gần nơi phường phố thì cái sự tranh thủ te tắt để ngó nghiêng quang cảnh
một tý là cái việc thường xảy ra nên không hiếm những buổi đơn vị phải tổ chức
đi tìm người. Còn ở nơi xa lắc này, chỉ toàn rừng rú thì việc kiểm tra con số
cũng chỉ là làm theo nguyên tắc mà thôi. Thế nên cũng chỉ độ ba mươi phút là
đơn vị đã giải tán, ai về nhà ấy. Đang định theo anh Như về nhà trọ thì cậu
Luận xô đến bên:
- Thế nào rồi
anh?
- Thế nào thì
anh biết cậu hỏi cái gì?
Chưa kịp nghe
Luận giải thích về câu hỏi vừa rồi đã nghe từ phía sau có giọng nói cất lên:
- Thì cái
việc nhà trọ ấy?
Té ra là Kiệm
thư sinh, không biết cũng đã đến bên cạnh từ lúc nào.
- Xong rồi!
Xong rồi!
Cũng đã lâu
lắm mấy anh em không có dịp trò chuyện cùng nhau, nhất là vừa rồi Hằng lại vừa
về phép qua nhà vào. Sau một hồi trả lời hàng loạt câu hỏi của hai chàng trai
trẻ Hằng cũng kể thêm sự gặp mặt với mấy cô gái Hà thành làm cho các chàng trai
trẻ thích thú không khác gì nghe đọc tiểu thuyết tình yêu. Sau những câu chuyện
của Hằng, những câu chuyện riêng của từng cậu cũng được bộc lộ với vẻ lo lắng
bần thần.
- Không biết
cô ấy có còn nhớ em không biết!
- Mới xa nhau
chưa được một năm, làm gì mà đã nhanh quên đến thế!
- Anh không
biết đâu! Bên cạnh cô ấy có đến ba bốn đứa nhằm vào, em lại ở xa! Cự ly như thế
chắc là bất lợi rồi anh ạ.
- Đừng bi
quan và cũng đừng coi thường chị em phụ nữ. Một khi người ta đã yêu thì họ phải
say mình một điều gì chứ không phải họ yêu theo cảm tính đâu, thế nên các cậu
chỉ cần chăm viết thư về là được.
- Thế mà vừa
rồi em lại cứ phân vân mới chết chứ. Em sợ nói chuyện tình cảm nhiều rồi đến
khi họ lấy người khác họ đem ra đọc cho nhau nghe rồi họ cười với nhau thì chán
chết.
- Không bao
giờ đâu! Cậu chỉ lo bò trắng răng mà thôi. Một khi đã đi với người khác họ lại
lo cái người mới biết chuyện cũ còn hơn là lo gặp hổ đón hơi ấy chứ.
- Thế thì em
phải viết thư ngay hôm nay mới được anh ạ.
- Thế còn
thằng này thế nào?
Kiệm chậm rãi
trả lời:
- Em thì chỉ
mới thích cô ấy, chứ còn cô ấy thế nào thì em không biết.
- Thế thì đâu
đã có gì được. Này nhưng lúc cậu lên đường đi bộ đội cô ấy đối với cậu thế nào?
- Từ khi em
trúng tuyển nghĩa vụ, chiều nào cô ấy cũng sang chơi. Còn thằng Lượng ở ngay
bên cạnh cũng đi với em một đợt mà chả thấy cô ấy đến thăm hỏi lần nào.
- Thế là yêu
rồi! Sao mà dốt thế không biết! Người ta đợi cậu nói ra đến đỏ con mắt mà lại
không nói gì có chết không cơ chứ.
- Không biết
thế nào mà lúc chia tay em chỉ nói với cô ấy là thỉnh thoảng bạn đến chơi cho
mế tớ đỡ buồn, cô ấy nói đồng ý thế rồi cô ấy cũng buồn lây theo em mà rơm rớm
nước mắt anh ạ!
- Đồ con khỉ!
Cô ấy làm gì phải buồn lây vì cậu mà cô ấy buồn vì phải xa cậu! Hiểu chửa đồ
con khỉ?
- Thật thế hả
anh?
- Chứ còn sao
nữa!
Rõ là anh loà
lại dẫn anh mù! Một anh chàng chưa yêu nổi một mối tình nào cho trọn vẹn lại đi
hướng dẫn về tình yêu cho những người khác nghe thật tức cười. Nhưng dù sao thì
giữa xứ mù có một anh chột cũng đã là có sự hơn hẳn rồi, nhất là anh ta lại có
cái mốc tuổi đời nhiều hơn họ đến ba bốn năm chứ chẳng chơi.
Câu chuyện
của những chàng trai trẻ chưa vợ thì có rất nhiều, nhưng vốn dĩ vẫn là những
câu chuyện mang đề tài tình yêu là chính. Xin cũng đừng trách cứ họ thiếu bản
lĩnh, thiếu ý chí trong lúc đất nước đang từng ngày hướng đến một mục đích lớn
lao hơn, trong lúc xã hội đòi hỏi ở họ những điều to lớn hơn về trách nhiệm của
những người lính mà họ lại nghĩ nhiều đến cái sự tư riêng như vậy. Tuổi trẻ
thường là thế, cho dù bất kỳ ở thời nào họ vẫn luôn yêu hết mình, nhưng không
phải vì thế mà họ không dám quên mình cho sự nghiệp chung của đất nước. Cho dù
ngay sau những giây phút say đắm với những kỷ niệm thân thiết họ vẫn vững vàng
lao vào cuộc chiến cho dù họ biết họ có phải hy sinh.
Ngay từ những
ngày tập trung huấn luyện ở tỉnh đội bộ ba một già, hai trẻ này vẫn luôn gắn bó
với nhau. Cũng không thể nói họ gắn bó với nhau vì một lý do nào cả vì họ đến
với nhau rất tự nhiên không hò hẹn thề thốt kết nghì, kết ngãi. Tất cả sự gắn
bó tựu trung lại chỉ là sự đồng cảm nào đó mà mọi người và cả chính họ cũng
không thể nhận ra. Nhưng có một mối quan hệ mà ai cũng phải thừa nhận giữa họ
đó là những người đồng đội.
3
Mới
sáng ngày ra mà đã thấy cụ Thêm đi từ trên nương về. Chả biết có cái gì quan
trọng mà thấy cụ đặt cái rổ xuống bên sân một cách khá thận trọng, trước khi
vít cái cần tre cho cái gầu hạ xuống múc nước để rửa tay chân. Mặc dù cụ sống ở
vùng thôn bản khá xa chợ búa và các vùng phường phố nhưng cụ cũng biết khá
nhiều kiểu sống của các tầng lớp dưới xuôi. Qua câu chuyện cụ kể lại người ta
tưởng cụ chỉ là người vùng xuôi lên chơi với con cháu ở trên này mà thôi. Sự
kiện buổi đầu cụ gây ra cho anh Như và Hằng hầu như mọi người đã quên hẳn rồi.
Mấy ngày gần đây cụ đối xử với hai anh em khá gần gũi và thân thiện. Tuy vậy cụ
lại vắng nhà luôn nên cả hai anh em vẫn chưa có dịp ngồi với cụ, loại trừ vài
lần cụ mang nước chè xanh ra mời hai anh em uống. Nước chè xanh thì Hằng không
ham lắm nhưng anh Như thì có vẻ thích, nhất là vào buổi sớm và sau khi ăn cơm ở
nhà bếp về. Cụ bà mất cũng đã khá lâu, các con gái thì đã về nhà chồng cả cho
nên cụ chỉ có một mình. Sáng thì đi nương, trưa lại về nhà lo cơm, lo nước. Cái
vòng tròn ấy hình như đã theo cụ từ lâu, bây giờ đã thành nề, thành nếp mất
rồi. Những quan niệm về cách sống, cách cư xử của cụ giản dị như mọi người vùng
cao khác trên đất nước mình. Quan niệm ấy đã truyền từ đời này sang đời khác
cho dù nhiều năm gần đây phong trào Hợp tác xã đã mở ra nhiều mối giao tiếp
giữa những người trong cùng thôn bản và rồi cũng có nhiều đơn vị, cơ quan sơ
tán về cùng sống đưa đến khá nhiều kiểu văn minh và cũng mang đến khối chuyện
phiền toái và không hợp với đạo lý của vùng quê này.
Cũng
không biết thế nào mà cách đây mấy năm có một đơn vị Thanh niên xung phong nói
là ở Thủ đô vào ở nhờ một thời gian để chữa đườngC, đến khi rút đi rồi lòng dân
có vẻ bất mãn quá, đến mức chỉ nghe nói là người Hà Nội là đã mất hết thiện cảm
như cụ Thêm chủ nhà mà Hằng và anh Như trọ trong những ngày đầu khi hai anh em
mới đến.
Sau một hồi loay hoay cạnh cái giếng
cụ Thêm cũng đã vào nhà với cái rổ trong tay. Cụ đi thẳng tới trước mặt hai anh
em và chìa cái miệng rổ ra nói với anh Như:
- Bên vườn có
quả mít chín, ta mang về mấy ông con cùng ăn.
Anh Như vội
xua tay nói:
- Cụ để cho
các cháu bên các chị ấy dùng, anh em chúng con cũng đã ăn bên cụ Phúc hôm qua
rồi.
Cụ Phúc là
chủ nhà anh Giao trọ, cụ có đến vài chục cây cối các loại trong vườn, riêng mít
cũng có đến sáu bẩy cây. cụ Thêm biết vậy nhưng cụ vẫn cố ép hai anh em cùng ăn:
- Bên nhà
chúng cũng có, với lại hôm rồi ta cũng cho chúng một quả to rồi, cái này là cho
ông con mình nếm xem quả vụ này có khá hơn không.
Nói chưa dứt
lời cụ đã đi xuống bếp để lấy dao lên bổ mít.
Từ khi đến
đóng quân ở vùng này Hằng cũng đã nhận thấy đây là vùng quê có khá nhiều khó
khăn về kinh tế. Thóc gạo xem ra không có mấy, thức ăn thường ngày của cả vùng
là những bữa cơm độn một gạo có đến hai, ba ngô hoặc sắn khô. Thức ăn thì hầu
như không mấy khi mua ở chợ . Phần vì chợ xa, vả lại người dân ở đây cũng rất
hiếm tiền, chính vì vậy nên ra rừng kiếm được cái gì thì ăn cái đó. Khi thì là
con cầy, con rúi săn được, nhưng mà rất hiếm, còn lại chủ yếu là các con vật
nuôi trong nhà cùng với đôi ba vạt rau còi cọc vì thiếu nước trồng ở trong
vườn. Thoảng hoặc có thu hoạch được vài loại hoa trái thì lại đem xuống chợ bán
lấy tiền mua lấy ít muối, đường cùng các vật dụng cần thiết khác. Món mít xanh
cũng là một nguồn thức ăn dự trữ của mọi nhà ở các dạng muối, xào, kho để có
chút mặn mồm nuốt trôi đôi ba bát cơm độn thường ngày.
Mỗi lần qua
bếp anh nuôi ăn cơm xong Hằng cũng hay lọ mọ xuống chỗ anh Toán anh nuôi trưởng
ngồi chơi. Thực ra thì Hằng xuống xem có cái gì ăn được là Hằng xin về cho cụ
Thêm. Anh Toán cũng biết vậy nên hôm thì ít muối, ít mỡ xào rán còn lại, cũng
có khi là một phần của hộp thịt đã chia cho các mâm còn lại anh cũng đưa cho
Hằng. Những khi có chút gì Hằng mang về cho cụ Thêm đều cất đặt khá kín đáo rồi
cái thì đem cho mấy đứa cháu, cái gì ít ỏi một chút thì cụ để lại cho mình.
Cũng không phải ngay từ đầu cụ Thêm đã nhận những thứ Hằng mang về ngay đâu. Cụ
ngờ vực Hằng bớt xén để mang về rồi đơn vị sẽ phê bình, về sau nghe Hằng giải
thích mãi cụ mới thôi không cật vấn nữa.
Cũng phải đến
gần một tháng ở trong nhà cụ Thêm, giờ đây hai anh em mới lại tìm thấy nét tươi
vui hài hước của cụ. Những câu chuyện về gia đình và bản thân cụ lần lượt được
cụ kể lại cho hai anh em nghe. Đâu là chuyện đi săn thú trên rừng, chuyện vui
tết của ngày xưa, cả chuyện cụ phải lòng cụ bà như thế nào cũng được kể ra. Thế
rồi cụ lại nói đến đám người ngày xưa đã trọ trong nhà cụ, từ việc họ ôm ấp
nhau ra sao đến chuyện họ gần gũi quá đáng cùng nhau làm cho cụ thấy nó khó
nhìn và đáng xấu hổ. Mỗi lần nghe đến đó Hằng lại phì cười rồi bao biện cho đám
người nọ:
- Đó là bố
chưa quen gặp cảnh này bao giờ mà thôi! Người nước ngoài họ cho đó là chuyện
bình thường bố ạ.
- Đấy biết
ngay mà! Đã là dân Hà Nội anh nào chả thế! Chẳng qua là cánh Hà Nội kỳ này chỉ
có mỗi mình cậu nên cậu bất lực mà thôi. Cho dù thế nào thì bố cũng không tán
thành cách sống như vậy. Vừa lúc đó anh Như xen vào:
- Bố có biết
cái Xoan cháu ngoại của bố đang nhắm vào đứa nào không? Nó đấy bố ạ! Cậu ấy còn
phải trốn không dám gặp để tránh sự phê bình của ông Giao đấy!
Vừa nói đến
đây thì cụ Thêm bật quát lên:
- Này anh
đừng tưởng anh là người văn minh mà anh coi thường cháu tôi đấy nhé! Cả bản chỉ
có mình nó là xinh nhất thôi đấy, anh còn đòi gì hơn nữa nào.
- Thế nhớ!
Nếu mà mai đây nó lại mang văn minh đến cho cháu của bố thì làm thế nào?
- Cháu của ta
chắc hẳn là nó không như thế chứ…!
Cụ Thêm hơi
lưỡng lự vừa như trả lời anh Như, vừa như tự nói với mình về sự ngờ vực không
biết cháu mình nó có tránh được cái sự ấy không? Cái Huyền nhà bà Tám chả bảo
chín chắn đó sao thế mà rồi cũng trốn nhà đi biệt có thấy về đâu.
- Này thế mày
đã thế nào với cái Xoan hả?
- Bố cứ yên
tâm đi cô ấy còn ít tuổi, mà con cũng có người yêu rồi.
- Chả lẽ cháu
của ta không bằng người yêu gì đó của cậu à?
- Không phải
thế, chỉ là cháu làm sao lại có thể bội bạc với ngườì yêu của cháu được!
- Cậu ấy và
cô bạn gái đã chia tay từ nửa năm trước rồi, nó chẳng còn cô nào nữa đâu bố ạ.
- Thế sao cậu
lại dám dối bố thế nhỉ?
- Chả là tại
bố cứ lo cháu của bố hư hỏng nên…
Cụ Thêm vội
cướp lời:
- Này cái
việc ấy thì bố cũng đã xem trên chiếu bóng rồi. Liên Xô họ cũng thế thì chắc
cũng không có gì là xấu. Nhưng dù sao thì cũng ở chỗ kín chứ cứ đứng giữa đường
mà cũng thế thì người ta phải phê phán thôi.
- Có nghĩa là
bố đồng ý cho nó được ấy... chứ gì?
- Ấy là thế
nào? Chỉ được hôn nhau thôi nhưng mà không được cho ai nhìn thấy, nhỡ sau này
các cậu không về đây nữa, bỏ rơi nó thì làm thế nào?
Cụ Thêm nói
một thôi một hồi mà vẫn sợ hai người này không hiểu ý mình. Chẳng qua là cụ
cũng kết một cậu cháu rể như kiểu này rồi nhưng lại sợ cháu mình cũng quá yêu
rồi để quá ra thì mang tiếng nên cụ không biết nói như thế nào cho thoả đáng.
Thấy cụ có vẻ lúng túng anh Như cũng thôi không trêu cụ nữa, anh bảo với ông cụ:
- Bố yên tâm
đi, đơn vị chúng con là đơn vị chủ lực của bộ nên cán bộ, chiến sĩ không ai
được vi phạm kỷ luật đâu.
Mặc dù cái việc đơn vị chủ lực là gì,
nó có quan hệ thế nào đến mối tình của bọn con trai, con gái hay không thì đến
người nói ra cũng chẳng hiểu nữa là cụ Thêm, nhưng dù sao thì câu nói đó cũng
làm cho cụ yên lòng hơn.
- Chuyện rông dài mãi, ta phải đi mượn
cái thang để lấy cái gầu lên kẻo không có cái gì múc nước nấu cơm bây giờ đây.
- Sao bố không làm cái dây bằng sắt
cho chắc mà lại làm bằng dây rừng cho hay đứt.
- Dây sắt cũng không chịu được đâu, ta
cũng đã làm rồi mà không được vì nó cứ oải cái móc ra, thế là lại tuột.
- Không sao đâu, con đã làm cho nhiều
người rồi, múc cả thùng to vẫn không đứt, không tuột được. Con đã thấy bố có
đám dây thép tráng kẽm kia rồi, bây giờ chỉ cần một cái chạm chặt và một cái
búa là xong thôi.
- Các thứ thì có nhưng không biết cái
dây có chịu được không?
- Bố cứ yên tâm đi, con làm nhiều lần
rồi mà.
Thế là ông cụ bê cả đám đồ nghề bụi
bặm trong gậm giường ra cho cậu, tuy rằng trong bụng vẫn không tin là cậu có
thể làm được. Có lẽ cụ cũng định cứ để cho cậu thất bại, rồi quyết đoán là cậu
nói ngoa để rồi lấy cớ răn đe cô cháu gái nên cụ chấp nhận tốn ít dây thép mà
cụ nhặt nhạnh từ hồi còn chiến tranh để lại.
Hằng tìm trong đống đồ cũ đưa ra hai
đoạn sắt phi sáu dài đến mười phân rồi đóng xuống tấm gỗ dầy mà cụ Thêm vẫn làm
đòn kê. Từ một cái cọc sắt Hằng quấn một vòng tròn vào đó xong rồi kéo sang cái
cọc sắt thứ hai quấn tiếp hai vòng tròn
khác. Cứ như vậy mà quấn sau một hồi cậu đã có đến hàng chục đoạn dây thép với
hai vòng tròn ở hai đầu dính liền vào nhau. Sau khi đã quấn được nhiều các đoạn
dây giống nhau Hằng liền tháo các đoạn dây rồi chặt từng cái rời ra. Cứ để
nguyên như thế Hằng bẻ gập chỗ giữa của đoạn dây để hai vòng tròn hai đầu chập
vào nhau. Cứ hai vòng đầu của đoạn này móc vào đoạn uốn giữa của đoạn kia rồi
dùng búa gõ cho kín các vòng tròn đầu lại thế là các đoạn nối liên tiếp với
nhau kéo dài mãi ra. Hằng làm chỉ trong một buổi nghỉ mà được hơn mười mét vừa
đủ độ dài của giếng.
Cũng không ngờ cuộc thử dây lại náo
nhiệt đến thế. Hàng xóm có, bộ đội có, con cháu của cụ Thêm nghe tin cũng đến,
lẽ dĩ nhiên là có cả cô Xoan cháu gái của cụ Thêm với đôi mắt lúc nào cũng ánh
lên tia sáng như muốn thiêu cháy cái anh bộ đội ở nhà của ông mình. Sau khi đã
gắn vào dây cả cái thùng gánh nước, một chàng thanh niên thả thùng xuống giếng
rồi thì lắc, giật một lúc lâu mà cái thùng cũng chẳng chịu rời ra và thùng nước
đã được kéo lên đầy ắp. Cũng không thiếu những người còn chưa tin về sự chắc
chắn của dây, họ vẫn kéo giăng ra để tìm xem có chỗ nào khả dĩ có bị oải ra
không. Cũng không bao lâu sau người ta đã thừa nhận là cái dây có thể chịu đựng
được sức vóc của thùng nước và rồi họ cùng cười chia vui với cụ Thêm. Lẽ dĩ
nhiên là cụ Thêm đã quên từ lâu cái sự nghi ngờ đối với chàng trai nọ. Cụ không
còn ngại về cái việc cháu gái của cụ mê say anh chàng bộ đội quê ngoài Hà Nội
đang ở nhà mình nữa. Còn một điều mà cụ để ý kỹ hơn xem cái con cháu gái của cụ
có mê trai thật hay không. Tất nhiên là cụ phải thừa nhận thôi vì cụ đã thấy
cháu của cụ chả để ý gì đến thử dây mà suốt cả buổi con bé chỉ hút mắt vào cái
bóng xanh biêng biếc nọ. Cụ thở dài: Thế có chết không cơ chứ!
Không quá ba tháng sau đơn vị lại rời
quê hương của cụ Thêm để lên đường đi chiến đấu. Anh Như thì đã chuyển đơn vị
về tuyến sau, chỉ còn mỗi một mình Hằng chia tay với ông cháu của cụ Thêm. Câu
chuyện say đắm của cô Xoan cháu cụ Thêm cũng chưa kịp phát triển bởi Hằng luôn
cố gắng xa lánh cho dù cô Xoan đã cố tìm cách thể hiện mối cảm tình của mình mà
chàng trai nọ vẫn cứ lơ lửng vậy. Điều này thì Hằng biết nhưng mà Hằng có sự
quyết tâm từ nhiều lần trước đã thành kinh nghiệm rồi nên mọi sự rồi cũng qua
nhanh chóng. Cô Xoan cũng chỉ nước mắt lưng tròng một chút vậy thôi.
Chỉ còn ba mươi phút nữa là đơn vị sẽ
xuất phát. Trong mấy ngày qua Hằng đã thu thập được một số quần áo dư thừa của
mình và cả của mấy cậu bạn mà không phải thu cũ đổi mới gói vào một bọc khá to.
Hằng lại xin được một cái mũ cối còn khá mới gói vào một tờ báo cũ để lại trên
tấm phản mà Hằng và anh Như vẫn nằm ngủ. Bắt đầu nghe còi của anh Giao cất lên
ở đầu xóm Hằng mới gọi cụ Thêm lại để đưa cho cụ số đồ dùng nọ. Cụ cứ ngần ngại
từ chối, Hằng phải động viên mãi cụ vẫn chưa chịu nhận:
- Tất cả những thứ này cho dù có thu
về rồi cũng huỷ bỏ mà thôi, con muốn để lại cho bố và mọi người dùng cho khỏi
phí, huống chi ở mình còn nhiều người rách rưới quá, ngay bố cũng vá víu nhiều
như thế cơ mà.
- Bố ngại rồi trong thôn bản họ sẽ
không nghĩ như thế, họ cho là bố lợi dụng!
- Biết vậy nên con đã viết giấy nói rõ
việc này rồi lại còn có cả ý kiến của anh Giao trong ấy nữa đấy bố ạ. Ai hỏi bố
cứ đưa giấy ra cho họ là được.
Vừa lúc đó anh Giao cũng vào đến cửa:
- Thế nào! Hai bố con chia tay xong
chưa, ra tập trung thôi chứ!
Cả hai cùng chào ông cụ Thêm rồi bước
ra, cũng vừa lúc ấy ông trưởng thôn vào đến trước cửa, ông cất giọng nói với cụ Thêm:
- Việc này chúng cháu đã biết rồi, cụ
cứ nhận để mà dùng cụ ạ!
Từ trên khuôn mặt già nua của cụ Thêm
phảng phất một nỗi buồn mà cụ ít khi thể hiện ra ngoài mặt, cụ giơ tay lên như
vẫy chào tạm biệt hai người chiến sĩ, mồm mấp máy không nói thành lời, mắt thì
nhìn về một nơi xa đến vô cùng, vô tận. Có lẽ cụ nghĩ về cái nơi mà những người
chiến sĩ sắp đến, cụ hiểu rồi những con người tốt ấy sẽ gặp chuyện gì và rồi cụ
cầu khấn mong cho họ tránh được mọi sự nguy hiểm, luôn gặp được những điều may
mắn. Đoàn quân đã ra đi và chàng trai Hà Nội ấy cũng không có điều kiện để trở
lại vùng quê ấy nữa. Trong lòng của chàng trai ấy vẫn luôn nhớ về một vùng đất
nghèo về vật chất mà giầu tình người. Câu chuyện về tình dân như thế đâu có gì
đặc biệt và đâu chỉ có ở riêng một vùng nào.
4
Gần đến sáu giờ chiều đơn vị mới bắt
đầu tập kết về bãi xe để chuẩn bị lên đường. Suốt cả buổi chiều mọi người làm
các công việc chuẩn bị mà có vẻ như vẫn chưa xong. Đâu là vài cuốn sổ, cây bút
máy, đâu là mấy bộ quần áo lót, rồi thì tăng võng, hộp thuốc cá nhân. Vài anh
nghiện thuốc lào thì còn nhiều thứ nữa, đâu là cái bật lửa, bình xăng để tra
bật lửa. Những gói thuốc dự trữ được vò đi ép lại sao cho nhỏ nhất để ba lô còn
đựng thêm trăm thứ bà rằn khác nữa. Những thứ bắt buộc ai cũng có như súng đạn,
bao gạo thì không thể làm thay đổi khối lượng được nên mọi người chẳng để tâm
đến việc sắp đặt làm gì, chỉ cần khoác lên thế là xong. Hằng kiểm lại chiếc ba
lô của mình lần cuối để tránh bị bỏ lại những thứ cần thiết cho sau này. Hai bộ
quân phục, hai bộ đồ lót, cả cái áo sợi có hàng khuy trước ngực màu cỏ úa mà
anh em quen gọi là áo bà Định. Bà Định không là ai khác mà là bà Nguyễn Thị
Định Phó tư lệnh quân giải phóng miền Nam lúc bấy giờ. Cũng không biết cơn cớ
gì mà anh em chiến sĩ lại gọi đó là áo mang tên của bà. Những chiếc áo sợi kiểu
này khá giống những chiếc áo len hoặc sợi vẫn bán ở miền Bắc cho các bà các cô
dùng. Một mặt nó lại chỉ được cấp khi họ sắp làm quân giải phóng của bà nên có
lẽ vì thế mà họ gọi đó là áo bà Định. Ngoài những thứ của riêng, Hằng còn phải
mang cho đại đội một số quân cụ và còn có cả một bọc khá lớn mềm trơn. Có lẽ
đây là các loại cờ quạt, giấy má mà đại đội cần dùng cho các cuộc học họp. Công
việc chuẩn bị chỉ kết thúc khi tất cả đã lên xe để đi vào mặt trận.
Đoàn xe đã bắt đầu chuyển bánh từ từ
lượn trên những đoạn đường cuối của miền đất phương Bắc. Những bãi khách đã
không còn ai ở đang trơ ra những hàng cọc buộc võng mà mọi người để lại từ
những đêm trước. Không riêng gì đơn vị của Hằng ra trận, bởi có nhiều bãi khách
vắng như thế này.
Tất cả những người lính hầu như đều im
lặng ngồi trong xe và nhìn ra hai bên đường như cố thu vào tầm mắt những hình
ảnh thân thương của miền Bắc trước khi bóng tối che đi tất cả mọi thứ. Những gì
đã sảy ra trong những ngày gần nhất và cả những gì đã sảy ra trong quá khứ hầu
như đều hiện lên tất cả trong đầu. Thế rồi đến hình ảnh của những người thân,
những bạn bè và cả những người phụ nữ đã quen biết trong những ngày qua cũng
hiện lên cùng với những hình thân mật trìu mến nhất của họ mà Hằng đã cảm nhận
và có ấn tượng ở họ. Có rất nhiều cuộc ra đi đã từng sảy ra trong mỗi đời người
ví như rời nhà đi chơi đâu đó ở nơi họ hàng dăm ba ngày rồi lại về. Có những
lần ra đi xa nhà lâu hơn như đi học nghề, đi làm việc nhưng rồi cũng lại trở về
cho dù có lâu hơn một chút cũng đã làm cho ta xao xuyến, nhớ nhung.Tuy nhiên
những khoảnh khắc ấy nhanh chóng tan đi, nhường cho các trạng thái bình thường
trở lại để con người vui vẻ và cởi mở như trạng thái vốn có. Nhưng lần ra đi
này đã không như thế bởi ngoài cái xao xuyến, nhớ nhung còn một điều ta phải nghĩ
đến đó là lần ra đi này đã đành là rất lâu mới trở lại và rồi còn có thể trở
lại được nữa không mới là điều đáng phải nghĩ đến. Ta hiểu sự hy vọng vượt qua
được sự nguy hiểm và cái chết trong chiến tranh là điều không tưởng, sự hy vọng
ở đây chỉ còn là sự cầu may mà thôi. Tuy nhiên như vậy nhưng con người ta không
chỉ nghĩ về một điều đó, sự lôi cuốn của cả xã hội, sự hứng khởi vì một sự
quang vinh, sự thù hận vì một hành vi tàn ác đối với đồng loại, sự ganh đua cho
cái hơn hẳn của cá nhân, của đồng bọn, đồng phe với mình cũng là những xúc tác
để con người dẹp bỏ đi tất cả mọi điều để dành cho điều đó. Những lúc ấy cái
nguy hiểm và cả cái chết cũng bị coi là nhỏ, nhờ thế mà có bao sự tích anh hùng
làm cho chính ta và cho cả kẻ thù của ta cũng phải nể phục. Tất nhiên là họ
ngạc nhiên và nể phục bởi vì họ đâu có ở trong cái không khí đầy chặt ý niệm
như vậy, họ đâu có đau thương, đâu có mất mát gì để mà phải cố giành giật lại.
Cái của họ là chiếm lấy bằng sức mạnh, chiếm lấy để thoả mãn sự tham lam vô lối
mà thôi. Tuy vậy họ cũng không phải không cố sống, cố chết để giữ bằng được
những thứ mà họ sắp sửa chiếm được, vì họ cũng đã mất nhiều công sức cho cái
mưu đồ nhơ nhuốc ấy, họ cũng đã mất không ít của nả, công sức và cả sự sống
nhiều người của chính họ. Một điều đáng kể nữa là họ đã bị nhục nhã khi cái sức
vóc hổ, báo của họ lại bị thua bởi con giun, cái kiến và rồi còn bao con giun,
cái kiến khác đã ở trong tay họ, đang ở trong tầm ngắm của họ cũng sẽ tuột khỏi,
cũng sẽ coi khinh họ, như thế thì làm sao mà họ không cố sống, cố chết trong
cuộc chiến này… Cũng chỉ là tự mình nghĩ ra mọi chuyện như thế, rồi lại tự đưa
mình đến với cao trào của sự yêu thương, sự bất bình, sự căm thù và rồi chỉ còn
lại một điều duy nhất đó là sự quyết định rằng ta không thể tiếc xương máu
trong cái sự nghiệp lớn lao này của dân tộc. Ta sẽ chiến đấu thật dũng cảm và
không ngại ngần hy sinh một cách anh dũng như những người đồng đội đã đi trước
vì mọi người, vì gia đình và Tổ quốc.
Những chiếc xe Vọt Tiến của Trung Quốc
viện trợ dùng để chuyển quân cứ nối tiếp nhau lao đi trên những quãng đường
rừng, đường đèo tối om om dài như vô tận. Những quầng sáng đèn gầm chỉ nhỏ bằng
cái sàng làm sao có thể soi nổi con đường phía trước, thế mà những người chiến
sĩ lái xe vẫn chẳng cần giảm tốc độ. Có lẽ họ đi theo sự quen thuộc trong đầu
chứ không phải dựa vào bóng sáng nhỏ nhoi kia. Những cú xóc tung lên, hạ xuống
cứ liên tiếp xảy ra làm cho người ngồi trên xe cũng nảy lên, nảy xuống như xóc
ốc. Những cú ngoặt tựa hồ như muốn hắt người từ góc này sang góc khác nếu như
họ không bám chặt vào thành xe và không ngồi sát vào nhau. Ánh sao mờ tỏ trên
những khoảng rừng thưa như hé mở cho ta nhìn thấy sự nguy hiểm hầu như lúc nào
cũng có thể xảy ra, bởi khi đầu xe đã nhô ra sát mép bờ vực mà vẫn chưa thấy
đoạn đầu cua ở đâu. Quả thật nếu không quen thuộc chắc là cả xe và người đã
xuống thám hiểm đáy vực từ lâu rồi. Những gì có thể nói về người chiến sỹ lái
xe hết đêm này sang đêm khác vẫn đi, về trong hiểm nguy, trong bom đạn. Đâu có
phải cứ ôm súng lao vào cửa mở mới là những anh hùng!
Sau rất nhiều lần bò lên những cái dốc
dài vô tận đoàn xe cũng đã lên đến một đỉnh cao. Từ đây đã nghe thấy tiếng máy
bay L19 của địch lượn lờ, cùng những chùm đèn dù vàng ệch ma quái trên đầu.
Những đám cháy lân tinh xanh lét ngún khói trên những thân cây đen xì chồng
đống lên nhau. Cả một bầu không khí chứa đầy mùi thuốc bom khét lẹt.
Chỉ đi thêm một đoạn nữa thì cả đoàn
xe phải dừng lại vì phía trước con đường đầy bùn nước không sao tiến lên được.
Một khẩu lệnh nhỏ truyền từ người này sang người khác: Tất cả mang quân trang,
súng đạn xuống xe! Tất cả mang quân trang, súng đạn xuống xe!... Thế có nghĩa
là đã đến chiến trường rồi đấy! Có nghĩa nơi ta đang đứng đây cũng chính là
gianh giới của hoà bình và chiến tranh! Gianh giới của hoà bình và chiến tranh
chỉ là một quãng đường ô tô không quá ba tiếng đồng hồ vậy thôi sao? Thực ra
gianh giới của vùng này sang vùng khác cũng chỉ là ước lệ vậy thôi. Với từng
gia đình thì bên này hàng rào là sân vườn nhà mình, còn bên kia hàng rào là sân
vườn nhà khác. Thế nhưng gianh giới của hai làng, hai tỉnh, hai nước nhiều khi
chả có cái rào nào để mà ngăn chia. Gianh giới của hoà bình và chiến tranh cũng
vậy thôi. Mọi cái luôn ở cạnh nhau, mọi cái luôn ở trong nhau, luôn hoà trộn vào
nhau. Mái đồi bên này khô khan chết cây, cháy lá, mái đồi bên kia mưa chảy nước
trôi. Mái đồi bên này là hoà bình yên vui, còn mái đồi bên kia là chiến tranh,
bom đạn.
Có lẽ mùa mưa phía sau dãy Trường Sơn
đã bắt đầu khá lâu rồi nên ngay trên đỉnh đồi mà bùn vữa ngập ngụa đến là khủng
khiếp. Vừa mới đi được một đoạn ngắn mà anh nào anh ấy cũng đã thấm mệt. Mà
không mệt sao được khi mỗi bước chân đều ngập trong bùn sâu gần đến háng. Đang
mải miết bước lên cho kịp hàng quân phía trước thì nghe tiếng cậu Luận gọi réo
lên ở phía sau:
- Anh Hằng ơi lại kéo em một tý, chân
em mút chặt xuống bùn rồi!
- Đợi một tý, anh cũng đang dính chặt
dưới bùn rồi đây.
Không biết làm sao vừa mới bước đi
ngon thế mà mới chỉ dừng lại nghe cậu Luận gọi thì chân lại dính chặt xuống bùn
thế này không biết.
- Cậu phải tự tìm cách thoát lấy thôi,
ông anh của chú cũng như có nhựa gắn xuống bùn rồi đây này.
- Thế chả lẽ cứ đứng mãi ở đây hả anh!
Hằng đang cố sức xoay bàn chân cho đám
bùn vữa rộng ra nên cũng chẳng kịp trả lời Luận nữa. Hết ngả người ra phía
trước, rồi lại ngả người về phía sau mà đám bùn cũng chỉ rộng ra một chút. Dù
sao thì cũng cứ thử rút chân lên xem sao. Sau một hồi cố hết sức bình sinh thì
chân cũng đã rút lên được một tý nhưng mà chỉ là chân thôi còn giầy thì nằm lại
không chịu theo chân lên nữa.
- Này Luận ơi!
Cậu làm thế nào cho giầy nó tụt ra là rút chân lên được đấy.
- Thế thì làm
gì có giầy mà đi hả anh?
- Đành vậy
thôi, đơn vị đi xa quá rồi.
- Nhưng mà em
buộc chặt quá không sao rút ra khỏi giầy được.
- Thì cố xoay
cho bùn vào trong khe chân là nó tuột ra thôi.
Cũng phải mất
một lúc thì hai anh em mới thoát ra khỏi vũng bùn, đành chịu để đôi giày ở lại.
Cái lỗi này là do mình gây ra mà thôi, trách ai bây giờ. Thực ra thì khi sức
nặng cơ thể dồn vào chân làm cho nó lún sâu xuống bùn thì đồng thời cũng tạo ra
một cái lỗ, nếu ngay sau đó rút ngay lên thì không sao, nhưng nếu để một lúc
thì bùn xung quanh dồn đầy vào, một mặt chặn lên trên, đồng thời vùng đế giày
lại bị rút hết khí thành chân không, thế là lại bị ép mạnh hơn. Cách tốt nhất
là cựa chân sao cho có khe hở cho khí tràn vào là rút lên được. Có điều là
ngoáy mãi chân thì bùn vào cả khe chân và giày làm trơn tuột chân lên còn giày
thì nằm lại. Một cách lấy cắp giày của ông thần bùn thật là hữu dụng, không chê
vào đâu được.
Sau mấy giờ
đi bộ trong bùn vữa dưới ánh sáng lờ mờ của các vì sao thì trời cũng dần dần
sáng. Hết len lỏi qua các rặng cây lại leo thang qua các vách đá, hết bám dây
song co mình lên dốc đứng, lại sờ xẩm, dò dẫm lội dọc suối, rồi thì buộc phao
bơi vượt qua sông, mãi đến khi đi cắt ngang đường Chín thì trời đã sáng rõ. Nếu
không có tiếng máy bay ì ầm trên đầu thì với quang cảnh ấy cũng chỉ như đi dã
ngoại trong tập luyện ở ngoài Bắc mà thôi. Điều đáng để nói là từ đây mới thật
sự bắt đầu vào đường dây ra trận. Từ đây đã bắt đầu là chiến trường, mà chiến
trường thì không thể nói chơi được. Chiến trường là chiến đấu, là gian khổ, là
xương máu hy sinh, đâu có giản đơn như diễn tập.
Khi cả đơn vị
về đến bãi khách tiếp theo thì trời đã tối, mọi người vội vàng buộc tăng võng
lên những thân cây đã nhẵn thín vì các đoàn quân đi trước đã cọ quệt, đã chà
xát sau mỗi đợt quân vào. Sau bữa cơm dã chiến cả trung đội tập trung để nghe
quán triệt nhiệm vụ cho những ngày sau. Thật may là vị trí bãi khách của đơn vị
tập kết lại không gặp mưa nên các chàng trai đều đã lên võng nghỉ ngơi. Bộ quần
áo ngâm bùn đêm trước đã được gột sạch trong lúc lội suối giờ cũng đã khô và
cứng còng. Hằng nằm yên trên võng thả lỏng người để lắng nghe những âm thanh xung
quanh, mặc kệ các lớp vải cứng cứ cọ vào da thịt. Đôi chân đã rời rã sau một
ngày bươn trải với một cường độ cao nhất từ trước đến giờ cũng không thèm động
đậy. Tuy vậy nhưng Hằng cũng không thể ngủ ngay được bởi phiên gác đầu tiên nơi
bãi khách lại là phiên gác của Hằng và Lượng sẽ phải bắt đầu sau mươi phút nữa.
Những ồn ào
của hàng trăm người đã át đi mọi âm thanh khác của rừng đã có sẵn từ cái thời
nguyên thuỷ xa xôi nào đó, giờ đây chợt vang lên như một bản hoà tấu với trăm
ngàn cung bậc khác nhau. Rất nhiều âm thanh không biết của loài nào lại cứ ri
ri rỉ rỉ. Cũng có âm thanh cứ buông ra đều đặn tiếng một tựa như tiếng gõ nhịp
trong các bài hát dân ca. Cũng có nhiều âm thanh rất quen thuộc giống như những
âm thanh vẫn phát ra sau vườn nhà những khi còn nhỏ đã từng nghe thấy trong khi
chơi trò trốn tìm vào những đêm trăng sáng. Đôi chỗ vẫn còn vài cậu chưa chịu
ngủ, thoảng hoặc lại lào thào với nhau không biết chuyện gì đó bên cánh võng ở
cuối của bãi khách…
Đã hết phiên
gác lâu rồi mà Hằng vẫn chưa sao ngủ được. Những hình ảnh thân thuộc về quê
hương§, nơi người cha của cậu đã sinh ra và lớn lên ở đó. Cái làng Tây Lạc cùng
những cái ao đầy bèo tấm và khoai nước liên tiếp nối nhau vừa lướt qua, lại đến
những hình ảnh gần gũi về con đường đất với hàng xà cừ cao lớn, cùng với khu
đầm sen rõ rộng, luôn toả hương thơm trong những mùa hè đầy nắng và gió ở cái
làng Đồng Dầu, một vùng đất thuần nông của ngoại thành Hà Nội, nơi Hằng đã sống
cùng với cha mẹ và những người thân suốt cả một thời tuổi nhỏ.
Mảng trời sao
lộ ra từ tán rừng thưa cũng chả khác gì bầu trời sao của làng Tây Lạc trên quê
hương Nam Định, lại càng không khác với bầu trời sao của làng Đồng Dầu trên đất
ngoại thành Hà Nội. Từ trên những bầu trời sao ấy người lính thấy như lại được
trở về gần gũi với những người thân của mình vậy. Bầu trời sao ấy đã theo những
người lính ra mặt trận hôm nay và còn theo người lính trong những ngày sau nữa
để mà an ủi, để mà vỗ về trong khi họ xa vắng những người thân. Có thể cùng
trong lúc ấy người lính cùng những người thân của họ cũng đang nhìn lên những
ngôi sao để nhớ nhau, để nghĩ về nhau và nói cùng nhau những lời tha thiết
nhất. Chính vì thế nên không chỉ riêng ai, bầu trời sao đã trở nên thân thiết
với tất cả những người lính trong những năm tháng chinh chiến ở xa.
Giấc ngủ của
Hằng đến rất từ từ sau rất nhiều những hình ảnh thân yêu của mẹ hiện ra. Bà
lặng lẽ đi tìm những đoạn dây để nối dài ra, buộc vào bốn góc của cái màn xô
căng trên chiếc chiếu giải dưới sân nơi cậu con trai của bà đã ngủ quên không
chịu mắc màn…
5
Sau gần một
tháng, ngày đi đêm nghỉ đơn vị cũng đã vào đến nơi tập kết. Kể từ khi cả đoàn
quân vượt sông Xê Bang Hiêng thì tất cả những người lính chỉ còn biết rằng mình
đang đi vào hướng Nam
mà thôi. Những cánh rừng nghỉ tạm sau một đêm không tên không tuổi cũng tuột ra
khỏi bộ não mà chẳng để lại chút gì gọi là vương vấn. Nhiều chỗ đoàn quân đi
qua rồi mới nghe một đôi người kháo rằng đấy là vùng ngã ba biên giới hoặc một
địa danh nào đó do những người đã vào ra một đôi lần nói lại thế thôi. Thực ra
mấy người này cũng đoán già, đoán non khi thấy những khoảng rừng có vẻ giông
giống vậy thôi chứ cũng không dám khảng định một cách thật đúng. Chỉ có cái tên
bằng số là không có thể sai được bởi hàng ngày lãnh đạo cấp trên phát lệnh hành
quân đều nói đến trong lúc xuất phát.
Bãi khách T73
đêm mới rồi bị máy báy địch đánh phá nên cả đoàn lại phải đi thêm một quãng khá
xa để vào bãi khách dự phòng. Đây cũng là trạm cuối của đường dây Xã hội chủ
nghĩa mà đơn vị đi qua, ngày mai đoàn quân sẽ đến binh trạm 1 của đường dây
Giải phóng. Theo như dự đoán của mấy cậu thạo tin thì đơn vị còn phải hành quân
qua 15 binh trạm nữa thì mới đến hậu cứ của đơn vị. Thế thì đôi chân chưa thể
được nghỉ ngơi mà còn phải đi dài dài hơn nữa. Dù sao thì ở đâu cũng đều là đất
mình cả vậy thôi, chẳng có gì cần phải phân vân điều này, điều nọ cho mệt. Nói
như mấy cậu người Mường Cẩm Thuỷ thì (khắc đi, khắc đến). Đã lâu không thấy ai
hỏi đến ngày, tháng nên cũng chẳng biết khi đơn vị vào đến cứ là ngày bao nhiêu.
Có điều chắc chắn là vào khoảng cuối tháng mười một sang đầu tháng mười hai âm
lịch, vì suốt mấy buổi tối chẳng thấy bóng dáng ông trăng đâu cả.
Cũng không ai
ngờ được trong suốt thời gian ở Đường 9 Nam Lào Hằng không bị sốt rét, ngay cả
khi ra ngoài Bắc củng cố mấy tháng liền Hằng cũng không biết sốt rét là gì, thế
mà vừa đặt chân vào hậu cứ Tây Nguyên lần này thì Hằng lăn ra sốt. Việc đào hầm
hố Hằng chả tham gia được tý nào, từ việc đào đắp đất đến chặt gỗ làm nóc hầm
kèo đều dồn cả vào hai ông y sỹ là Cứ và Bình. Chẳng những thế hai ồng này còn
phải để mắt đến Hằng, sợ Hằng biến chứng sang sốt rét ác tính. Mấy ngày sau đó
Hằng cũng không cất mình lên được, việc ăn uống đều nhờ vào anh Toán là anh
nuôi trưởng của đại đội. Gần nửa tháng chiến dịch Hằng không được tham gia một
buổi nào cả bởi cơn sốt cứ kéo dài liên miên không dứt. Sau mỗi ngày đi chiến
dịch về Luận, Tâm và Kiệm lại sang hầm nói chuyện với Hằng về đánh đấm của các
tiểu đoàn mà đại đội 2 của Hằng phối thuộc. Công việc của đại đội vẫn chỉ là
tiếp đạn, chuyển thương là chính, thoảng hoặc có gặp địch thì lại phải lựa để
tránh không phải đọ súng, có thế mới bảo vệ được thương binh. Sau hàng loạt
những chuyện vui về chiến thắng, bao giờ về cuối các cậu ấy cũng tỏ vẻ bực dọc
vì khi ao ước làm bộ đội là để có dịp đánh giặc thế mà đến khi giặc ở ngay
trước mắt lại phải tránh đi thì cớ gì mà họ chả bực mình.
Hôm nay đã là
ngày thứ ba Hằng cắt cơn sốt. Đề nghị mãi đại đội phó Nhu mới cho đi chiến
dịch. Anh Nhu cho Hằng đi cũng chỉ là mang theo một khẩu súng đỡ cho vài người
khi phải khênh cáng quá nhiều và dự phòng khi có người bị thương thêm thôi chứ
không giao nhiệm vụ gì quan trọng cả.
Cao điểm 1049
cũng như muôn vàn những cao điểm khác
với tầng tầng, lớp lớp những cây cổ thụ, xen lẫn những vạt rừng le cuốn thành
những vòm mái che phủ kín cả mặt đất. Rồi thì các loại nứa tép, vầu, tre gai
cao vút trên khắp cả một dải rừng chuyển tiếp làm cho ta chẳng thể nhận ra đâu
là đỉnh của cao điểm. Thực ra cao điểm 1049 chính là đỉnh Ngọc Rinh Rua cao
nhất của cao nguyên miền Trung mà ngày còn học phổ thông có lần thầy Vũ Tú
Nguyên đã gọi lên chỉ nó trên bản đồ địa lý. Cao nguyên miền Trung còn có một
cao điểm nữa là cao điểm 1015, sách địa lý gọi nó là đỉnh Ngọc Tô Ba. Đây cũng
là một địa danh mà quân ta đã tiêu diệt mấy tiểu đoàn quân trong năm1968.
Kể từ ngày
vào chiến trường đến nay mọi người hầu như lúc nào cũng nhớ nhà, nhớ người
thân. Những người đồng đội nói chuyện với nhau cho dù là đề tài gì thì sau một
hồi thế nào cũng lại quay lại đề tài gia đình, bè bạn. Những câu chuyện cho dù
ở ngoài Bắc có kín đến đâu thì đến bây giờ cũng bị lôi ra để mà góp vào không
khí chung của mọi người. Có những người được tiếng là kín nhất như chính trị
viên Sinh và chính trị viên phó Huynh cũng đã tham gia vào tiết mục kể chuyện
này. Chuyện về người thân mà người chiến sĩ đề cập đến nhiều nhất là chuyện về
người yêu của họ. Cũng chẳng ai biết những người con gái ấy có thật xinh đẹp
hay không nhưng qua lời kể của các chàng trai đang yêu thì họ đều như tiên cả.
Tuy vậy cũng có những chàng trai đã bị lộ “bem” bởi người yêu cũng đã từng đến
thăm và lẽ dĩ nhiên là nhiều người đã gặp. Lại còn cái đám cùng quê thì họ chả
còn lạ gì những cô gái của nhau, thế nhưng họ vẫn muốn nói cho nhau nghe về
những cô bạn ấy với những tình tiết hết sức đặc biệt mà theo họ thì những tình
tiết của các cô ấy chỉ có thể dành riêng cho người con trai của các cô ấy mà
thôi. Những câu chuyện như thế thì thật là chỉ còn biết nghe kể và cười vui phụ
hoạ.
Cũng không
biết làm thế nào mà câu chuyện Hằng tránh gặp bạn gái trước khi đi chiến đấu
dạo nào cũng đã bị mấy chàng thạo tin kháo ra từ ngay những buổi đầu tiên có
tiết mục này. Trong rất nhiều những nhận xét mà Hằng nghe được thì hình như có
rất nhiều ý luôn đối nghịch lẫn nhau. Người thì cho đây là một mối tình cao
thượng hiếm có không mấy ai làm được. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng trong việc
này thì chàng trai là người đã quá tự đề cao mình mà phủ nhận những điều tốt
đẹp của người khác. Những ý kiến ấy nêu ra kèm theo hàng loạt những đánh giá
thật cao đẹp về người phụ nữ. Đâu là sự dũng cảm không thua nam giới, đâu là sự
hy sinh chịu đựng hết cuộc chiến tranh này đến cuộc chiến tranh khác. Nhiều đêm
Hằng nghĩ về điều này và tự vấn lòng mình về sự vô tư trong suy nghĩ. Đúng là
Hằng chỉ muốn làm sao cho người thân yêu của mình không phải côi cút như bao
người phụ nữ và bao đứa trẻ khi gặp cảnh éo le để rồi khốn khổ trong cảnh vợ nọ
con kia. Hằng đâu có tự đề cao mình lên như nhiều đồng đội đã đánh giá như vậy.
Có điều dù có nói thế nào đi nữa thì việc làm của Hằng cũng cứ lồ lộ ra dưới sự
xét đoán theo hướng như vậy. Sự thật thì Hằng cũng đã thấy, đã biết có đến hàng
vạn người phụ nữ của thời chín năm kháng chiến, hàng vạn người phụ nữ của cả
hai miền Nam Bắc đã mất chồng, mất con sống trong cảnh goá bụa mà đã có bao giờ
họ sợ điều đó đâu. Họ vẫn yêu, vẫn chờ đợi, vẫn hy vọng cho dù hy vọng thật nhỏ
nhoi. Họ đâu có cần những ai phải lo cho họ! Họ đâu có cần ai thương hại họ!
Cho dù những ý kiến này chưa ai nói thẳng với Hằng, nhưng Hằng nghĩ nếu có lần
thứ hai như thế thì nhất định Hằng sẽ phải cân nhắc sâu sắc hơn nữa. Nhưng thôi,
mọi sự đã xảy ra rồi làm sao có thể thay đổi được nữa.
Đơn vị chuyển
địa điểm đến một vùng khác sau mấy ngày đường hành quân bộ, để rồi lại tiếp tục
với việc phục vụ chiến đấu. Lần này đơn vị phải chuyên chở đạn, gạo qua sông
PôCô cho các đơn vị đánh vào phía Nam CôngTum nên gặp khá nhiều khó khăn vất
vả. Sau những trận đánh giằng dai giữa ta và địch thì sự ác liệt lại tăng lên
khi cả hai bên đều muốn đi đến những thắng lợi nhất định, bởi khi mùa mưa đến
việc di chuyển và tiếp tế lương thực, súng đạn sẽ bị cản trở. Lẽ dĩ nhiên là
khi chiến dịch càng ác liệt thì đơn vị của Hằng cũng chung chịu với các đơn vị
chiến đấu. Những trận B52 rải thảm, những trận pháo bầy liên hồi kỳ trận của
địch luôn chặn vào đầu và quét vào đuôi đội hình của các trung đội, tuy vậy đơn
vị cũng chưa có thương vong nào.
Đêm nay đơn
vị lại tiếp tục lên đường cùng với trung đoàn 48 để tiến đánh vào Công Tum. Đạn
cối 120 nặng đến 17 cân một quả, mỗi người phải mang 3 quả, đạn cối 82 mỗi
người phải mang đến 6 quả. Rồi thì đạn K56 dùng cho súng AK, đạn Nổ, đạn xuyên
lõm cho DKZ 75, DKZ 82. Cao cấp hơn còn có đạn pháo D74, DKB, hoả tiễn H12, Hoả
tiễn B72, mỗi loại đều khá nặng và cồng kềnh khó mang vác. Vũ khí bộ binh thì
có lựu đạn tấn công, thủ pháo, thuốc nổ TNT, CH4, đạn B40, B41 vv…Cũng không
thiếu mìn phóng MF 1A, mìn Định hướng DH
35 để phá hàng rào và diệt bộ binh địch.
Mỗi lần vận
chuyển cho dù cả đơn vị cố sức cũng chả được bao nhiêu, thế mà chỉ cạch, oành
một cái đã đi đứt một quả đạn cối. Thật là nhanh và tốn kém quá đi mất. Thôi
thì cũng đành vậy chứ còn biết làm sao cho được khi kẻ địch còn xài gấp cả chục
lần chúng ta xài. Chúng ta đâu có muốn làm như vậy trên chính mảnh đất của
chúng ta. Cuộc chiến như chúng ta biết thật là buồn, thật là tàn bạo và thật là
không đáng có. Chúng ta đã cố gắng hoà hoãn trong nhiều lần ký kết các hiệp ước
và gần nhất là ký kết hiệp định Giơ ne vơ của hơn mười năm trước. Tất cả đã
không thể dừng lại được và vận mệnh dân tộc lại phải trải qua những ngày tháng
đạn bom cực kỳ man rợ.
Những người
chiến sĩ phải hoàn thành nhiệm vụ của mình, đó là trách nhiệm lớn nhất. Còn
việc dũng cảm, xông tới và chiến thắng đối phương đó là công việc của người
lính, vì nếu không thế thì cần gì phải có họ. Tuy nhiên cũng nhờ thế mà họ bảo
vệ được đồng bào, bảo vệ được tổ quốc và tự bảo vệ được chính mình. Họ có quyền
tự hào vì sự hy sinh của họ cho dân tộc, cho đất nước vì điều đó là nhân văn
lớn nhất của thời điểm lúc bấy giờ. Còn trước đó và cả về sau này, mỗi thời
điểm lại có một mục đích ý nghĩa riêng của nó. Đừng bao giờ bắc đồng cân để mà
đong đo thời này, thời khác bởi như thế thì thật là khập khiễng, thật là không
phải.
Chiến dịch
ngày càng khốc liệt hơn trong những ngày đầu năm 1972. Đại đội 2 cũng đã di
chuyển chỗ đóng quân mấy lần liên tiếp. Hình như mặt trận ngày càng rộng ra nên
đơn vị cũng bị chia sẻ thành nhiều bộ phận để phối thuộc. Riêng đại đội bộ thì
vẫn tập trung ở một chỗ, khi có trận đánh lớn thì mới cử cán bộ trực tiếp chỉ
huy. Cơ bản vẫn là đại đội trưởng Điền và chính trị viên trưởng Sinh, còn chính
trị viên phó Huynh và đại đội phó Nhu thì đã đi chỉ đạo trực tiếp ở các trung
đội 1 và 2. Chỉ có anh Giao ở trung đội 3 luôn chỉ có một mình trong mọi việc.
Chiến dịch
dường như đã có những chuyển hướng khác với nhiệm vụ ban đầu. Nhiều đơn vị được
phân tán để căng địch ra làm cho chúng không thể tập trung được. Trong khi đó
các đơn vị luôn xuất hiện với đủ mọi cái tên vốn đã quen thuộc nhưng lại ở quá
nhiều địa điểm khác nhau, thành ra đi đến chỗ nào kẻ địch cũng thấy là quân của
sư 320, quân của sư 2, sư 10 và nhiều sư đoàn khác nữa. Kẻ địch chắc phải hoang
mang thật sự vì mới sớm nay chúng chạm mặt 320 ở Tây Nguyên thì ngay chiều hôm
đó chúng lại chạm mặt với 320 ở Quảng Trị. Chúng biết 320 có A, có B nhưng
chúng lại không biết họ có C, có D hay không. Điều này là một bí mật chiến lược
làm sao mà chúng biết được.
RA BẮC
1
Sáng mai Hằng
được phân công đi cùng trung đội 2 tách khỏi đại đội đến phối thuộc với trung
đoàn 52 về vùng dưới. Cũng may là ở trung đội 2 còn có Yên là người cùng sở
Điện Thanh Hoá với Hằng nên cũng đỡ buồn. Hai người vừa đi vừa nói chuyện về
gia đình của nhau trên suốt dọc đường. Yên không gầy nhưng khuôn mặt của Yên cứ
phô ra cái sự gầy bởi cái cằm của Yên cứ đua ra nhòn nhọn, hai má thì hóp vào,
hố mắt thì sâu thành ra ai cũng bảo Yên còm cõi. Không biết Yên có thêm gì của
riêng mà ba lô của cậu ấy cứ to kềnh, to càng ra làm cho bước đi của Yên
cứ nghiêng hết cả về phía trước.Vậy
nhưng Yên vẫn chuyện rất rôm rả, thoảng hoặc lại pha trò cười hin hít nghe thật
là ngộ.
Suốt từ hai
hôm trước Hằng lại lên cơn sốt, y sĩ Bình đã tiêm cho Hằng mấy ống thuốc trợ
sức và cả mấy ống Qui nin trị sốt rét vậy mà hình như cơn sốt vẫn không chịu
giảm cơn. Cũng không biết thế nào mà mỗi khi sốt rét thân nhiệt lên rất là cao,
có người lên đến 41 độ vậy mà xem ra cũng vẫn chẳng hề hấn gì. Còn chuyện 40 độ
trở xuống thì mọi người cứ coi như là không sốt, vẫn gùi gạo, gánh đạn và khênh
thương binh đi thoăn thoắt.
Chặng đường
đi có lẽ cũng đã được gần hai giờ đồng hồ mà Hằng vẫn không thấy đỡ. Trước mặt
lại là một cái dốc dựng đứng đầy bùn đất và lá khô vụn mủn, chỉ mới vòng qua
một đoạn cua ngắn đường bằng mà Hằng theo mãi vẫn chưa thấy đội hình, có lẽ
mình phải chạy mới theo kịp nhóm đằng trước. Chỉ mới kịp nghĩ lướt qua trong
đầu Hằng đã thực hiện ngay thế mà phải gần hai mươi phút sau Hằng mới bắt kịp
đội hình. Có lẽ thấy Hằng tụt lại lâu quá nên lãnh đạo đại đội đã cử y sĩ Bình
lùi lại để chờ Hằng chứ đơn vị thì đã đi xa rồi.
Vừa gặp Hằng
ì ạch chạy đến Bình đã sờ tay lên trán của Hằng để xem có nóng quá không. Mới
sờ vào trán Hằng đã thấy cậu ta rụt tay lại để lấy thuốc ra tiêm cho Hằng. Sau
phát tiêm vào cánh tay cậu ta lại bắt Hằng ngồi nguyên đó kéo quần xuống chọc
ngay Seranh thuốc vào mông. Có lẽ cũng đành tiêm ngồi như thế bởi đất dưới chân
chả khác gì bùn nhão thì nằm ra sao được. Không tiêm thì Hằng còn chịu được,
tiêm rồi thì mắt hoa đầu váng mỗi lúc một tăng làm Hằng không còn gượng dậy
được, thế rồi Hằng thấy tối sầm lại, không còn biết gì nữa. Cũng không biết sau
bao nhiêu thời gian Hằng mới tỉnh trở lại, chỉ đến khi mở mắt ra thì Hằng đã
thấy cả một đám đông vây kín lấy Hằng. Anh Điền đại đội trưởng cũng đang dòm
nom ngay sát bên cạnh. Cũng chỉ kịp thoáng nhìn thấy trong một vài phút rồi
Hằng lại lịm đi.
Cũng không
biết Hằng đã sốt như thế nào mà mấy ngày sau khi tỉnh lại chỉ thấy mỗi một mình
nằm trên một cái sạp nứa trải trong một căn nhà hầm ẩm thấp. Cuộc điều trị có
lẽ phải mất hơn một tháng mới đỡ, tuy là đã đỡ nhưng Hằng còn rất yếu nên cũng
chỉ chống gậy đi bộ xung quanh trước lán mà thôi. Mỗi ngày Hằng lò dò theo mọi
người đi qua lán nhà bếp để ăn cơm. Tiêu chuẩn của người ốm nặng khá hơn các
bệnh nhân khác ở chỗ có thêm mấy miếng thịt hộp của miền Bắc đưa vào còn lại
thì cũng chỉ có măng le, cá khô và ruốc bông. Hàng ngày Hằng ăn cũng không được
nhiều nên khi ốm Hằng ăn càng ít. Cơm canh còn lại đã có mấy cậu lính bị thương
giải quyết hết nên cậu cũng chả cần lo rửa, bát rửa đũa mà chỉ chào các bạn là
lại lò dò về lán.
Vừa qua bên
lán 6 chợt nghe thấy tiếng hò hét ồn ào náo nhiệt không biết là có chuyện gì.
Chờ mãi mới thấy mấy cậu bên khoa ngoại về qua cho biết bên ấy có một cậu sốt
rét ác tính nhiều lần biến chứng tâm thần. Nghe vậy Hằng càng lo không biết rồi
đây mình có thể lại như cậu ấy hay không. Cứ nghĩ đến mấy cô gái điên Hằng vẫn
gặp ở quê ngày nào Hằng lại thấy gai gai sợ. Tóc tai các cô ấy rũ rượi, mặt vêu
vao đầy ghét bám. Bàn tay khẳng kheo gầy giơ ra mò mẫm ở rãnh thoát nước, gặp
gì cho vào mồm ăn nấy. Những miếng vải xơ xưới lua tua không còn biết gọi là
màu gì choàng từ cái cần cổ cứ đuỗn đuồn ra lao về phía trước. Cặp mông lép kẹp
sần sùi những vẩy thoảng hoặc lại phơi ra khi cô ấy bước đi hoặc khi gió đánh
tạt về một phía. Cái thảm hại hơn có lẽ lại là việc mấy đứa trẻ con lúc nào
cũng theo đằng sau trêu chọc. Đứa lành hơn thì cũng lấy cái que đánh bò khều
vào bộ giẻ trên người cô ấy. Đứa dữ dằn hơn chúng chả nể nang gì mà không quất
một vài roi vào cái thân hình quắt queo đen đúa người không ra người, ma không
ra ma ấy. Chả lẽ rồi có một ngày ta cũng điên như thế bởi những cơn sốt rét ác
tính mà người bạn bên lán 6 vẫn đang gào thét ngoài kia.
Đang suy nghĩ
luẩn quẩn một mình chợt tiếng chân chạy huỳnh huỵch từ mé sau nhà vọng đến làm
cắt đứt luồng suy nghĩ của Hằng. Vừa chống cái gậy tre đi về phía sau nhà đã
thấy cậu bạn tâm thần đang vắt vẻo trên một cây bứa khá cao ngay đầu hồi phòng
làm thuốc. Vừa khoa chân, khoa tay cậu ta vừa hô xung phong ầm ĩ tưởng như sẽ
nhảy ngay xuống đất làm cho các y tá, bác sĩ đứng dưới luống cuống mà không
biết làm gì. Có một anh y sĩ đang đứng bên cửa nhà thuốc tay lăm lăm một cái
võng mồm thì gọi mấy anh từ trong nhà thuốc ra giúp sức. Cũng đã mấy lần anh
bạn tâm thần doạ sẽ nhảy từ trên cây xuống làm cho mọi người cứ cuống cả lên.
Những cành bứa xoè tán hết tầng này đến tầng khác đâm ngang ra xung quanh có
làm cản trở anh ta rơi xuống, nhưng thân gỗ của nó kiêng gì đầu, mình, chân,
tay mà không làm cho cái sự va chạm để rồi dẫn đến gẫy, vỡ, toác, để rồi có
thêm những chấn thương về thể xác hợp với sang chấn về tinh thần đưa anh ta đến
chỗ chết hoặc tàn phế hơn nữa. Những tiếng thét xung phong, những âm thanh giả
làm tiếng nổ của anh như cứa vào lòng mọi người. Một cái gì đó vừa bi thương,
vừa oanh liệt cứ như khía vào quả tim của những người đang đứng cùng anh ngay
phía bên dưới gốc cây bứa với những cành ngang vô cảm.
Sau mấy tuần
điều trị với đủ các loại thuốc, đâu là DDS, NIVAQUIN, B1, B12, KINACRIN rồi thì
tiêm QUY NIN đến ù cả tai mà sức khoẻ Hằng cũng chẳng thấy khá hơn. Đã hơn một
tuần nay uống viên phòng số 2 là loại khá mạnh trong thuốc điều trị mà cũng
chẳng khả quan hơn tý nào. Mãi đến hôm kia anh Điều y sĩ mới quyết định điều trị cho Hằng phác đồ mới là
viên phòng số 3 màu đỏ. Xem ra loại thuốc này hợp với Hằng hơn. Những ngày tập
đi với chiếc gậy tre rồi cũng đã qua, Hằng đã có thể đi lại bình thường. Cái
gậy tre mà anh Điều đưa cho bữa trước đã bị bỏ xó không còn cần đến nữa. Nói là
đã đi lại bình thường nhưng tốc độ di chuyển của cậu hình như vẫn còn rất chậm.
Mỗi lần đi lại cũng chỉ vài trăm mét cậu đã thấy mỏi chân giống như ngày nào
hành quân từ Bắc vào Nam.
Vừa cắt cơn
sốt là Hằng đã lang thang đây đó mà chẳng chịu ngồi yên một chỗ. Khi thì Hằng
sang chỗ đồng chí Điều bên khu quân y sĩ, khi thì Hằng sang khu thương binh hỏi
xem có ai là người Hà Nội hay không. Sớm nay đồng chí Điều xuống điều trị có
nói cho Hằng biết về kế hoạch giám định sức khoẻ cho thương bệnh binh trong kỳ
tới. Bên hành chính của viện đã lập danh sách báo về các bộ phận rất nhiều các
đồng chi thương binh bị mất hoặc hỏng các chức năng nhìn, nghe, đi lại, cầm nắm
và cả các trường hợp tâm thần. Phía các bệnh binh sốt rét quá yếu cũng phải
giám định một vài trường hợp. Hằng nghe nói vậy thì biết vậy, cậu cũng chẳng
hiểu cái việc giám định như vậy để làm gì. Có chăng là việc cậu mong sớm giám
định để kịp về với đơn vị không thì khi về đơn vị đã di chuyển là cậu lại phải
đi đơn vị khác thì thật là phiền. Nghĩ thế nào làm thế ấy, cậu liền hỏi thăm dò:
- Không biết
em đã được giám định chưa anh Điều nhỉ?
- Tớ thấy có
một Hằng trong danh sách nhưng không biết là Hằng nào vì ngay trong diện điều
trị của tớ cũng còn một cậu Hằng bên lán 4, lại còn có đến 2 Hằng khác ở nhóm
điều trị nội khoa khác.
- Em chỉ lo
khi về đơn vị đi vào sâu quá không còn tìm được, lại phải về một đơn vị nào đó
của miền thì chán ngắt. Dẫu sao thì làm quân chủ lực trong sư cơ động vẫn hay
hơn anh ạ.
- À không! Tớ
nói giám định đây là giám để đưa về hậu phương vì mất sức chiến đấu chứ không
phải giám để cho xuất viện.
- Lại hậu
phương, em đã chán với cái cảnh hậu phương, hậu cứ rồi. Đành rằng đâu cũng là
nhiệm vụ thế mà một đằng bom pháo hy sinh ở phía sau với lại một đằng trực tiếp
ngoài chiến hào đánh cho thật đã rồi hy sinh thì chỗ nào hơn?
Nghe Hằng nói
anh Điều chỉ mỉm cười lặng lẽ, khá lâu sau anh mới nhẹ nhàng nói:
- Thế cậu bảo
tất cả chúng tớ chả lẽ không nghĩ vậy hay sao...
- Nhưng các
anh lại có chuyên môn khác chúng em nên phải theo đúng chuyên môn chứ.
- Chả nhẽ
chúng tớ không trải qua bắn súng, ném lựu đạn và thả cối chắc? Chúng tớ cũng
muốn trực tiếp lập chiến công chứ đâu có muốn kể ra rằng chưa bao giờ cầm súng
xông lên đánh giặc trong khi mình là một người chiến sĩ ra đi chiến đấu để giải
phóng đất nước.
Có lẽ những
lời hùng hồn mà anh nói ra không phải chỉ để nói với Hằng mà hình như anh nói
với cả anh nữa. không khí im lặng đến không ngờ sau những tuyên ngôn của anh
Điều chợt bị phá vỡ:
- Mà cậu cũng
là một dạng chuyên môn đấy chứ?
- Không em
chỉ là bị bắt cóc lên làm trong thời gian nào đó mà thôi.
- Này, tý nữa
thì quên! Chỗ hành chính của viện họ nhờ hỏi xem cậu có cách nào hàn được cái
nồi cất bằng nhôm hay không?
- Hàn nhôm
phải có máy và môi chất, ở trong này chả có cách nào hàn được đâu anh ạ.
- Thế thì gay
go quá, không biết lấy gì để vô trùng dụng cụ mổ xẻ và hấp bông băng được. Hay
là cậu cứ xuống xem xem thế nào.
- Thế lỗ
thủng có to không anh?
- Chỉ là lỗ
của mấy viên bi xuyên qua, lỗ to thì lọt ngón tay còn lỗ bé thì vừa lọt chính
viên bi mà thôi.
- Thôi được
để em xuống xem thế nào.
Hai người đi
vòng vèo qua ba bốn cái lán cho đến khi gặp con suối nhỏ thì dừng lại trước một
căn nhà hầm nửa chìm, nửa nổi, bên trong khá rộng nhưng chỉ thấy dụng cụ, còn
người thì đi đâu không rõ. Loanh quanh một lúc lâu vẫn chẳng có ai về, anh Điều
bực dọc lẩm bẩm:
- Nói mãi mà
vẫn không rút kinh nghiệm. Đi đâu thì cũng phải có một mống ở nhà để mà gác
sách chứ, đừng tưởng đây xa địch mà chủ quan, đến khi thám báo nó đến tận nơi
thì mới trắng mắt ra!
Chờ mãi chẳng
được anh Điều đành vào trong nhà lôi ra vài thứ dụng cụ đun nấu. Trong số đó có
một cái nồi nhôm khá lớn, nắp đậy bằng nhôm đúc dày, có bốn cái đinh khuy kẹp
chặt với miệng nồi. Chỗ gần miệng có mấy lỗ nhỏ bằng đầu ngón út miệng loe ra
như hoa rău muống. Vừa lúc đang ngắm nghía cái nồi nhôm ấy thì anh Điều quay
trở lại.
- Cái này thì
làm được anh ạ! Em chỉ cần nói qua là họ làm được thôi. Trước hết anh bảo họ
lấy cái kẹp đạn mài sắc sau đó khoét hai bên miệng lỗ loe thêm ra, còn ở giữa
để nguyên sau rồi lấy đuôi cánh bom cắt lấy một đoạn nhỏ đập cho tròn rồi cho
vào lỗ tán hai bên cho chặt thế là xong anh ạ.
- Tớ sợ khi
áp lực cao chỗ ấy không chịu nổi.
- Không sao
đâu anh ạ.
- Ừ thôi thế
cũng được, lát nữa tớ bảo các cậu ấy làm thử xem sao.
Hai anh em
lại lọc cọc quay về lán điều trị, cả hai đều không nói gì nữa. Mỗi người đều có
những suy nghĩ của riêng mình .
2
Gần một tuần
vừa làm thuốc vừa ăn uống với tiêu chuẩn cao, sức khoẻ của Hằng đã khá hơn mọi
khi, nhưng nhìn chung thì cậu vẫn xanh và gầy. Kể ra thì cậu cũng mới chỉ cắt
sốt mấy hôm, trong thời gian ngắn thế làm sao mà béo tốt ngay được.
Chả biết có
chuyện gì mà sớm nay anh Điều bắt số bệnh binh tập trung về hội trường ngay từ
sớm. Hằng vì mệt mỏi hơn ngày thường nên đến khá muộn, khi đến nơi thì hội
trường chỉ còn độ ba chục bệnh binh với bốn ông bác sĩ còn ngồi ở đó. Hằng nghe
loáng thoáng hình như có ai đó gọi tên mình mà không biết có phải hay không.
Cũng chẳng biết thế nào mà sau khi uống mấy viên phòng số ba rồi thì tai ù đặc
hết cả.
Thế rồi cả
đám bệnh binh đều đã khám hết chỉ còn trơ lại mỗi mình mới thấy một ông bác sĩ
hỏi đến Hằng. Ông ta hỏi tên tuổi và cả quê quán của Hằng sau khi đã khám đi,
khám lại con người của Hằng sau đó thì ra hiệu cho Hằng về lán.
Vừa đi vừa
nghỉ rồi Hằng cũng đã về đến lán của mình. Vừa về đến lán đã thấy bốn năm anh
em chờ mình ở bên trong xô ra hỏi han loạn xạ chả hiểu ra thế nào. Người thì
hỏi kết luận của anh ở loại nào, người thì hỏi rằng anh có được ra không, cũng
chẳng biết cậu ấy bảo ra đâu. Cũng phải rất lâu Hằng mới hiểu ra những câu hỏi
của mấy anh em cùng cảnh sốt rét ác tính như mình. Nói là hiểu thế thôi chứ
thực ra Hằng cũng không biết mình ở loại ba hay bốn, chỉ thấy đồng chí viện
trưởng xem đi xem lại bệnh án rồi hỏi về tình hình ăn uống sinh hoạt của Hằng.
Cuối cùng thì đồng chí ấy ghi gì vào bệnh án mà thấy đầy những chữ là chữ. Một
lúc lâu sau đồng chí viện trưởng cũng ngẩng đầu lên rồi động viên vài câu đại
loại là “cố gắng ăn uống cho nó tăng hồng cầu lên một tý, không thì rồi đi cũng
không nổi đâu đấy...”
Hằng cũng
không ngờ lần đi viện này lại là lần xa đơn vị mãi mãi, bởi chỉ gần một tuần
sau đó Hằng đã phải chống gậy theo đoàn quân ra Bắc. Trên đường đi ra Hằng còn
phải vài lần cấp cứu nữa, mà lần nào cũng cứ mê man nóng rét rồi co giật làm
cho mọi ngưòi phát hoảng.
Cũng không
hiểu thế nào mà đến Binh trạm T. 14 ngoài bữa ăn khá thịnh soạn với rất nhiều
đồ hộp, mỗi người được phát một ít kẹo bánh và đường sữa, rồi thì còn có cả
thuốc lá bao miền Bắc hẳn hoi. Hỏi ra mới biết hôm nay chính là ngày mồng một
tết âm lịch năm 1975.
Thế là đã gần
năm năm trôi qua, năm cái tết chiến trường, năm cái tết giữa bom rơi đạn nổ.
Những gì là vui Hằng đã nếm qua, những gì là buồn Hằng cũng đã nếm qua. Cho dù
là thế nào thì những năm tháng này cũng là những thời khắc đặc biệt mang dấu ấn
trong cuộc đời. Những gì đã đi qua sẽ không bao giờ trở lại, cho dù điều đó là
khốc liệt, là tàn lụi, là chết chóc. Bởi chính từ nơi đó ta hiểu được cái “bản
ngã” của chính ta, nó là dũng cảm ngoan cường hay là sự run sợ yếu hèn mà bất kỳ
người nào cũng phải có trước cái sự thực chết chóc, hy sinh trong cuộc đấu
tranh một mất một còn của những người chiến sĩ. Qua những năm tháng ấy cho ta
nhận ra chính ta. Rồi đây sau bao năm tháng đã đi qua, có một khi nào đó ta
ngồi ta nghĩ về mình, ta sẽ nói gì với con cái. Ta có thể cao giọng dạy bảo
chúng rằng hãy sống cho ra sống như bố mẹ chúng đã từng sống.
Cũng nhờ có
cái đài của mấy anh cán bộ ở các đơn vị mặt trận cùng ra nên anh em trong đoàn
biết được nhiều tin tức về tết và đặc biệt là nhiều tin về chiến sự trên khắp
miền Nam. Không khí mấy ngày này có cái gì đó rất lạ, giống như cái không khí
hừng hực của bẩy năm về trước, không khí của những cuộc tổng tiến công nhằm vào
kẻ địch. Trên đường không chỗ nào không nói về điều đó cùng với những dự đoán khác nhau. Tuy nhiên tất cả các
dự đoán đều có ý như đây là cuộc chiến sau cùng để thống nhất đất nước giành
độc lập dân tộc, điều mà mỗi người con dân đất Việt đã mong đợi hàng ngàn năm
nay.
Bắt đầu ra
đến đất Bắc thì không còn phải hành quân bộ nữa mà đi bằng ô tô. Vẫn những cái
xe Gát mang nhãn hiệu Trung Hoa như ngày nào đã chở người vào, nay lại chở
người ra. Đường xá mấy năm giặc đánh phá vẫn chưa sửa được nên những cái xe chả
khác nào cái rổ cứ xóc những người ngồi trên nó như là xóc ốc. Qua trạm 10
Quảng Bình mấy ngày thì mọi người được nhận quân trang mới. Những cái màn vải
xô nhuộm xanh, những bộ quân phục cũng màu xanh, rồi thì mũ dày, ba lô cũng vẫn
xanh một màu như thế cả. Cũng từ đây người ta đã phân chia quân nhân tỉnh nào
về tỉnh ấy và rồi từng người lại đi tiếp về các đoàn an dưỡng của các tỉnh.
Hằng không kê khai nơi mình nhập ngũ mà khai nơi sinh và thế là Hằng được đưa
về Đoàn 869 của Hà Nội. Vừa về đến đoàn an dưỡng Hằng đã phải đi điều trị ở
Viện 12. Cũng vẫn bệnh sốt rét là chính, ngoài ra còn thêm cả bệnh sưng phổi đã
phát triển trên dọc đường hành quân trước đó.
3
Cũng do ốm
yếu quá nên dù rất gần nhà nhưng suốt từ ngày về đoàn an dưỡng Hằng vẫn chưa
dám về nhà gặp mẹ. Sớm nay chủ nhật, đại đội tập trung chiến sĩ phổ biến một số
nhiệm vụ sau đó công bố cho một phần ba số chiến sĩ ở gần được đi tranh thủ về
qua nhà.
Sau mấy tháng
vừa điều trị vừa an dưỡng, Hằng cũng đã cắt cơn sốt rét, nhìn người cũng đã
thấy có da có thịt. Hôm cân trọng lượng kiểm tra sức khoẻ cậu cũng đã đạt được
trọng lượng cân của ngày nhập ngũ. Cũng nhờ có nước da khá sáng sủa nên dù đã
gần ba mươi tuổi nhưng chợt nhìn người ta ngỡ cậu mới độ hai ba, hai bốn là
cùng.
Ba lô quần áo,
chăn màn và cả số bánh kẹo, đường sữa tiêu chuẩn đơn vị phát cho Hằng vẫn để
dành để làm quà khi về nhà cũng đã được gói buộc xong, vậy mà cậu vẫn chưa chịu
rời đơn vị ra về. Có bao nhiêu điều cậu tưởng tượng ra khi gặp mẹ và em gái.
Đâu là chuyện mẹ sẽ chạy vội ra để ôm lấy cậu, sờ nắn trên người cậu xem có bị
thương tích gì không. Còn cậu sẽ cũng chạy thật nhanh đến bên mẹ lau giúp mẹ
những giọt nước mắt sung sướng cứ chảy ràn rụa mãi không ngừng. Họ sẽ nói với
nhau những gì là thương nhớ thật tha thiết và cảm động...
Thế nhưng
ngay sau đó cậu lại phủ nhận tất cả những điều cậu vừa nghĩ ra trước đó. Bởi
cuộc đời mẹ đã có bao nhiêu lần gặp gỡ, bao nhiêu lần từ biệt người thân. Thậm
chí là bao nhiêu lần vĩnh biệt những người mà bà thương yêu nhất. Cùng với
những khổ cực về tinh thần và vật chất mà bà từng chịu đựng hết năm này qua năm
khác, làm cho bà thêm chai sạn, thêm cứng rắn và rồi mọi điều vui buồn trong
lòng bà được nhìn nhận ở mức độ trầm tĩnh đến không ngờ. Dù sao thì việc nghĩ
vẫn cứ phải nghĩ, bởi đó là thói thường của tất cả mọi người trước khi họ làm
một việc gì.
Cuộc gặp gỡ xảy
ra hoàn toàn khác với cả hai quang cảnh mà Hằng đã tưởng tượng ra, bởi ngay khi
mở tấm liếp tre làm cánh cổng rồi vào đến sân Hằng chẳng gặp một ai. Chỉ đến
khi bước vào căn nhà tranh tối tranh sáng, gỡ được hai quai ba lô đặt xuống mặt
giường Hằng mới kịp nhận ra có một người đang ngồi trên tấm phản kê ở gian nhà
phía hồi bên trái. Cũng phải mất một lúc Hằng mới nhận ra đó là một người đàn
ông lạ mặt có mái tóc bạc có lẽ cũng sấp sỉ ở tuổi bẩy mươi. Hằng vội cất tiếng
hỏi:
- Cụ ơi, cụ
có biết bà cụ chủ nhà này đi đâu không nhỉ?
Ông già tóc
trắng cũng bất ngờ không kém khi thấy có một chàng bộ đội tự nhiên cứ như vào
nhà mình vậy, đã thế lại còn hỏi chủ nhà đi đâu nữa chứ. Mãi đến khi bình tĩnh
trở lại cụ già mới thủng thỉnh trả lời:
- Cụ tôi vừa
ra chùa làm lễ anh ạ!
Nghe xong câu
trả lời Hằng cũng chào qua quýt cụ già nọ rồi cứ thế đi vội ra ngoài mà cũng
chả nói cho ông cụ biết mình là ai và đến để làm gì. Cuối cùng thì người Hằng gặp đầu tiên lại không phải là mẹ,
chả biết đó có phải là điều không may hay không.
Sau khi quét
quanh làng một vòng, gặp một loạt cả già lẫn trẻ cùng với hàng chục câu hỏi và
câu trả lời thì rồi Hằng cũng về gặp mẹ. Có lẽ khi về nhà nghe ông lão tóc bạc
kể lại chắc mẹ đã đoán được chàng trai bộ đội ấy là ai nên khi hai mẹ con gặp
nhau thì chỉ thấy mẹ đứng im để nhìn cậu mà chẳng vồ vập hoặc tỏ ra bất ngờ một
tý nào. Sau khi đã ngắm khá kỹ cậu con trai của mình rồi thì cụ cũng cất tiếng
nhưng là để nói với ông lão tóc bạc mà không phải là nói với Hằng:
- Đây là
thằng anh con Hà đấy!
Sau khi nghe
mẹ nói như vậy thì ông lão tóc bạc vội đứng lên như có vẻ muốn bắt tay Hằng.
Ông cất giọng chậm rãi nói:
- Thế thì con
phải gọi ông ấy bằng ông mới đúng.
Mẹ Hằng hình
như cũng cho là đúng mà không cải chính thêm điều gì. Đến lúc này Hằng mới biết
và mới gặp được một người cháu của mẹ mình.
Không giống
như nhiều nhà khác, cuộc trở về của Hằng thật giản dị, thật bình thường. Đó có
phải cách sống đúng, sống tốt hay không thì không biết, tuy nhiên với hoàn cảnh
ít họ hàng thân thích, lại khó về kinh tế thì có lẽ gặp mặt như thế là thích
hợp.
Gần một tuần ở nhà thật là vừa vui,
vừa buồn, vui vì được gặp mẹ, gặp các anh chị em và các cháu, rồi thì còn cả số
bạn bè cùng trang lứa, cùng học một lớp ngày nào. Còn buồn vì số đông bè bạn
đều bận bịu gia đình mà không qua lại
thăm hỏi chuyện trò lâu được. Bọn họ còn phải lo làm, lo nuôi con cái và cả lo
cha già, mẹ yếu.
Cũng may trong suốt những ngày nghỉ có
cậu Hợp thương binh cứng khớp hay đến chơi bời trò chuyện. Hợp còn ít tuổi bởi
cậu là em thứ ba của Thu, mà Thu thì cũng còn kém Hằng đến hai tuổi chứ có ít
đâu. Dù sao thì Hợp giống Hằng ở chỗ đang còn là trai tân chưa vợ đang ở vào
diện cần phải đi đây đi đó để tìm mối cho mình.
Trong đời bộ đội lúc nào cũng đều là
quân phong, quân kỷ, đêm thì hội họp gác xách, ngày thì ra thao trường, chí ít
cũng là tập đội ngũ, còn không thì lăn lê bò toài ngắm bắn bia, tập chiến thuật
vân vân và vân vân với mọi vấn đề. Chỉ có ở đoàn an dưỡng mới được thoải mái
đôi chút, nhờ đó Hằng hầu như chả ở đơn vị mấy mà chỉ ở nhà. Sau mấy tuần chơi
bời, Hằng bắt đầu tham gia làm hợp tác giúp mẹ kiếm thêm ít công điểm. Mùa vụ
thì cũng đã qua nên cũng chỉ còn mỗi việc gánh gạch vào lò, gánh gạch ra lò.
Thôi thì có tý việc làm vừa đỡ buồn lại có thêm công điểm cho mẹ.
Ngay từ nhiều năm còn ở độ tuổi trẻ
con Hằng chẳng mấy khi tiếp xúc với nhiều người lớn, hơn nữa lại xa làng xóm
ngay từ khi mới lớn, nên cậu ít hiểu về họ. Gần đây đi làm cùng với mọi người
trong làng Hằng mới có dịp ngồi lâu với họ và phần nào cậu đã hiểu về họ hơn.
Những câu chuyện chiến đấu mà Hằng kể cho họ nghe, làm cho họ thấy thật cảm
phục, còn những câu chuyện đời thường hài hước mà những người này kể về những
người kia không có mặt tại đấy nghe thật buồn cười thật là vui làm cho công
việc có phần nhẹ nhõm hơn nhiều.
Cùng đi làm hợp tác cũng còn có vài cô
bé người làng vừa mới lớn lên mà Hằng chẳng biết là con nhà ai. Ngay từ khi
bước chân ra khỏi nhà họ đã bịt kín mặt bằng những tấm khăn bông trắng nên Hằng
chỉ còn biết trả lời những câu chào của họ khi gặp mặt mà không thể chủ động
hỏi han gì họ được. Họ chỉ hơi hé mở ra lau mồ hôi những khi giải lao rồi lại
trùm kín lại nên đã mấy ngày rồi mà Hằng chẳng biết họ là ai. Tuy nhiên qua đôi
mắt của họ Hằng cũng đã nhận ra vài cô có cái nhìn hết sức ý nghĩa. Những khi
giải lao họ ngồi gần Hằng hơn và không ít lần chăm chắm nhìn sang hoặc vội vàng
nhìn ra phía khác khi bất chợt gặp ánh mắt dò hỏi của Hằng nhìn vào khuôn mặt
họ.
4
Không phải chỉ riêng Hằng thấy được ý
tứ ấy ở các cô gái mới lớn kia mà cả mấy ông bà già cũng đã nhận ra được những
ánh mắt đưa tình ấy. Cũng chả ngại ngần gì mà họ không cất lời trêu chọc các cô:
- Chiến sĩ đấy! Đứa nào có cảm tình
thì ra mặt đi chứ không lại lỡ mất thời cơ.
Vừa nghe đến đấy các cô liền ngúng
nguẩy ra vẻ thẹn thùng kéo nhau bỏ chạy ra xa rồi cấu chí nhau la oai oái, họ
giống như một bầy trẻ nhỏ vô tư lự mà ta vẫn gặp trên đường. Trong số đó có một
cô bé không cao lắm có vẻ dạn dĩ hơn, các bạn vẫn gọi tên là Mận thường phải
đổi vai với Hằng. Cũng chính nhờ thế mà hai người có điều kiện nói chuyện với
nhau nhiều hơn so với những cô khác. Chả biết cô ấy có cảm tình như các bạn vẫn
trêu hay không nhưng Hằng cũng cứ hẹn cô ấy ra chơi và cô ấy đã đồng ý.
Ngay tối hôm đó và liền mấy tối hôm
sau Mận đã ra nơi hẹn để gặp Hằng, họ đã đi chơi nói chuyện hàng mấy tiếng đồng
hồ mỗi ngày trên dọc con đường từ nhà Hằng xuống đình làng. Tất cả những câu
chuyện hai người nói với nhau trong
những lần đầu tiên đi chơi ấy thật chả ăn nhập vào đâu. Tuy nhiên đó lại là
những cuộc gặp gỡ mở đầu cho mối quan hệ sau này của hai người.
Mất mấy hôm Hằng phải về đơn vị để duy
trì con số theo quy định. Chiều nay anh Đạt đại đội phó lại cho cậu tranh thủ
về nhà. Cơm nước xong có lẽ cũng đã gần tám giờ tối, Hằng đang định đi vào phía
trong làng thì thấy Mận bước vào cổng thế là Hằng đành phải quay trở lại. Ánh
đèn dầu vang khè không đủ để soi rõ khuôn mặt của cô gái nhất là cô ấy lại hơi
có ý đi vào góc khuất làm cho việc nhìn rõ khuôn mặt của cô càng khó khăn hơn.
Tuy vậy bà mẹ của Hằng đang ngồi giần gạo ở giữa nền nhà vẫn nhận ra cô bé và
cất tiếng chào trước:
- Cái Mận ra
chơi đấy hả cháu?
- Vâng ạ!
- Cứ ngồi
chơi nói chuyện với anh nhé, bác phải giần nốt mẻ gạo để mai có cái thổi cơm
cháu ạ.
Sau khi chào
hỏi mẹ của Hằng cô gái ghé mình ngồi xuống chiếc giường gỗ kê ở gian nhà phía
bên trái. Hằng đi rót nước từ cái ấm tích ra để mời cô gái thì mẹ Hằng cũng
mang cái đèn dầu nhỏ ở gần chỗ cụ đang giần sảy đến để vào cái ghế đẩu đặt
trước mặt hai người. Thấy chỗ làm của mẹ bị tối và cũng muốn để cho cô gái tự
nhiên hơn Hằng lại mang cái đèn trở lại cho mẹ nhưng bà bảo bà không cần đèn
vẫn làm được, thế là Hằng lại mang cái đèn ấy về chỗ cũ. Câu chuyện giữa hai
người dường như có sự dè dặt, đôi lúc họ hoàn toàn im lặng không biết nói với
nhau điều gì. Những lúc như thế bà mẹ Hằng lại chen vào một câu hỏi để cho
không khí cởi mở hơn. Điều làm Hằng khó nói chuyện nhất là cô gái không cùng
lứa tuổi với Hằng, chính vì vậy mà khi Hằng hỏi một vài thông tin về các bạn
của mình cho có chuyện thì cô ấy chả biết tý gì. Cũng phải thôi, vì khi cô ấy
lớn lên Hằng đã không còn ở quê nữa. Hằng đã rời quê khi cô ấy mới độ sáu bẩy
tuổi đến nay đã mười năm có lẻ, lẽ nào cô ấy chả lạ lẫm. Hằng cảm thấy buồn vì
sự dè dặt và không hiểu biết của cả hai người. Nhìn kỹ cô gái dưới ánh đèn Hằng
càng thấy ngần ngại khi mình đã trót mời cô ấy ra chơi. Sau một loạt những
khoảng trống kế tiếp nhau thì Mận cũng thấy ái ngại, cô đứng lên chào mẹ Hằng
rồi xin phép ra về. Hằng xin phép mẹ rồi ra đưa tiễn Mận về nhà, hai người vừa
đi vừa tiếp tục câu chuyện đang dở, cách nhà khoảng độ gần ba trăm mét, cậu
đang định chào lần nữa rồi về nhưng cậu thấy hình như Mận chưa muốn ra về thì
phải. Chính cái lúc Hằng định nói lời cuối thì cô ấy lại hỏi rất nhiều chuyện,
đâu là chuyện chiến đấu ở miền Nam rồi chuyện học hành ngày bé của của Hằng.
Quãng đường hai người đi dần dần càng gần vào đoạn cổng chính của làng, dự đoán
nơi ấy chắc khá đông thanh niên nam nữ nên hầu như cả hai đều có ý đi chậm lại,
nếu không nói là đã dừng hẳn lại để nói chuyện mà không đi nữa. Ngay lúc đó có
mấy người đi ngược ra bắt gặp hai người, tuy họ không biết hai người này là ai
bởi trời quá tối, nhưng họ cũng có ý đi gần hơn xem bọn này là con cái nhà ai
mà lại chuyện trò đêm hôm như thế. Có lẽ Mận cũng không thích cảnh này nên cô
khẽ nói:
- Mình ra xa làng một chút anh ạ!
Đến đây thì Hằng nhận ra rằng Mận chưa
muốn ra về, việc chào mẹ Hằng để về chẳng qua là muốn hai người nói chuyện được
tự do hơn mà thôi. Thế là hai người lại quay lại con đường cũ và lần này thì họ
vượt qua nhà Hằng để tiến ra xa làng thật sự. Đêm nay trời trở gió làm cho
không khí khá lạnh, có lẽ đây là đợt rét cuối cùng của mùa đông mà ta quen gọi
là rét Nàng Bân. Hằng luôn đi về phía bên phải của Mận có ý như muốn che đỡ cho
cô những cơn gió lạnh thỉnh thoảng quét qua hai người. Chả biết đi đi lại lại
thế nào hai người lại dừng ngay trước cái lò gạch mà ban chiều hai người đã
cùng làm ở đó. Hằng vẫn đứng che gió cho Mận như khi nãy, mặc dù anh chẳng thể
nào che hết được những cơn gió ngày càng mạnh hơn thổi từ đầm nước trước mặt.
Đi qua, đi lại một lúc thì họ cũng tìm ra được một chỗ khuất gió đó là cái ô
cửa đốt lò phía nam dài, rộng mỗi chiều chừng hai mét. Họ ngồi sát nhau trên
một khúc gỗ đốt lò tìm được ở gần đó và tiếp tục câu chuyện. Câu chuyện ở nhà
miễn cưỡng bao nhiêu thì bây giờ lại say sưa bấy nhiêu. Những câu hỏi và những
câu trả lời với nhiều đề tài khác nhau nhưng có vẻ đã rất gắn bó mà không còn
rời rạc như trước. Chả biết lúc ấy do lạnh hay do ít ngồi gần bọn con trai mà
mỗi lần người Hằng chạm vào thấy Mận cứ run rẩy đến lạ, Hằng vội hỏi khẽ bên
tai của Mận:
- Em có lạnh không?
- Không anh ạ!
Bàn tay Hằng đặt nhẹ lên vai Mận khi
thấy cô phả hơi thở nóng hổi thì thào trả lời câu hỏi bên tai của anh. Có lẽ cô
ấy xúc động về bàn tay của Hằng đang đặt trên vai cô và hình như bàn tay ấy
đang từ từ nắm chặt hơn. Sự gần gũi của hai người làm cho họ như trôi đi trong
cảm giác thật đặc biệt, mở đầu cho một điều gì đó mới mẻ dường như không cưỡng
lại được và nó sắp phải xảy ra. Bắt đầu là bàn tay, rồi đến cả cánh tay của
Hằng đã vòng qua vai của Mận, vẫn không thấy cô có một sự phản đối nào. Chả bao
lâu sau cả vòng tay của Hằng đã ôm cả thân hình nóng ấm của Mận vào lòng, còn
Mận thì thả lỏng toàn thân dựa hẳn vào Hằng. Một cái hôn thật dài như chưa bao
giờ dài thế khởi đầu cho một cuộc yêu đương đã phải xảy ra.
Sau giây phút ấy Hằng cứ tự trách về
sự quá dễ dãi của mình, cùng với ý nghĩ đó là sự phân vân về sự quá nhanh, quá
gấp gáp khi cô ấy chấp nhận những gì vừa xảy ra giữa hai người. Cô ấy còn quá
trẻ, cô ấy có thể yêu nhưng chắc gì đã đủ chín chắn để trở thành một người vợ,
một người bạn đối với một người đàn ông hơn cô quá nhiều tuổi. Cô ấy sẽ hành
động ra sao khi những điều tình tứ, hoa lá, tươi trẻ trong yêu của những tâm
hồn trẻ như cô ấy còn chưa được phát tiết hết? Sự nuối tiếc về những gì mà con
người ta chưa được một lần hưởng thụ có thôi thúc cô ấy quay trở lại khi cô ấy
đã làm vợ, làm mẹ hay không? Cái gia
đình nhỏ bé ấy rồi sẽ ra sao? Có lẽ cũng cần phải xem lại cho thật cẩn thận! Họ
ra về cùng với những lời hẹn gặp lại đêm sau khi đã cảm thấy quá khuya và trời
thì ngày một lạnh thêm gấp bội.
Hằng khẽ kéo cánh cửa bằng liếp ra rồi
nhẹ nhàng lách người vào nhà. Anh cố hết sức tránh gây ra tiếng động để mẹ khỏi
thức giấc vì người già thường ít ngủ, nếu mẹ bị thức dậy là mẹ sẽ không ngủ lại
được nữa. Một điều thật bất ngờ là vừa mới chui vào nhà còn chưa kịp nhìn rõ
những gì trong nhà, anh đã nghe tiếng của mẹ cất lên:
-
Nhà ấy nó không chịu cho con nó về nhà mình đâu!
Hằng thật
không thể ngờ anh đi đâu mẹ anh cũng biết, chưa chừng bà cụ thức từ tối đến giờ
đợi anh về cũng nên.
- Mẹ vẫn thức
từ tối đến giờ cơ à?
- Tao cũng đã
ngủ được một giấc rồi, nằm mãi nhạt mồm tao dậy ăn miếng trầu cho ấm.
- Sao mẹ lại
nghĩ là nhà họ sẽ không đồng ý?
- Tao ở làng này mấy chục năm nay rồi,
ai thế nào mà tao chẳng biết.
- Nhưng nếu cô ấy quyết không nghe thì
sao?
- Con bé ấy đần đần là, bố mẹ nó quát
một tiếng là im như thóc, chả dám hé răng đâu!
Dừng một lúc
bà lại nói tiếp:
- Nhà nó chỉ
ưa giầu sang phú quý, chứ nghèo như nhà ta thì ...
Nói đến đây
thì bà dừng lại, liền sau đó là một tiếng thở dài thay cho phần câu nói còn
dang dở.
- Đi ngủ đi,
mai là thứ hai lên đơn vị cho sớm không người ta lại phê bình cho đấy.
Hằng làm theo
lời mẹ như một cái máy mà không nói lại điều gì. Nằm xuống giường đã lâu nhưng
anh cũng vẫn chưa có vẻ buồn ngủ. Những câu nói của mẹ vừa rồi làm cho anh rất
phân vân và không biết tin vào lời mẹ hay tin vào tình cảm của Mận với những gì
mà cô ấy đã hưởng ứng với Hằng trong buổi tối hôm nay.
Ông Chắn bố
của Mận là một người còn trẻ, ông thích văn nghệ và đã từng đứng ra làm trưởng
đoàn cải lương của làng. Ông là người thích làm các công việc có tính tươi vui
trong cuộc sống và lúc nào cũng tỏ ra vồn vã cởi mở đối với mọi người. Ngày xưa
mỗi lần Hằng đến nhà ông xem tập cải lương ông vẫn tươi cười đón tiếp và còn
rất muốn Hằng tham gia vào đội của ông. Một người vui vẻ hoà nhã như vậy chả
nhẽ lại thủ cựu đến mức có thể bắt con gái mình từ bỏ tình yêu chỉ vì người nó
yêu không giầu có hay sao?
Cứ nhắm mắt
lại Hằng lại tưởng tượng ra trước mắt hình ảnh ông Chắn luôn tươi cười khi anh
cùng một người bạn cùng tuổi gọi ông Chắn là cậu ruột đến chơi nhà. Rồi còn
những lần xem tập cải lương ở nhà ông, xem ông đi đánh lưới săn những con chim
giẽ kiếm ăn trên đồng làng. Có cả những đêm các cậu còn theo ông ra tận đồng
Thốp để rình săn lũ chim lạc sau khi được thả bay trong hội không tìm được
đường về đã hạ xuống đó để kiếm ăn và uống nước.
Từ mấy hôm
trước Hằng chỉ ngại ngần về việc Mận còn quá trẻ, hơn nữa từ trước đến giờ anh
vẫn gọi bố mẹ Mận là anh chị, nếu bây giờ phải đổi cách xưng hô thì cũng đáng
ngại thật. Ngờ đâu điều đáng ngại không phải là điều đó mà lại là chuyện mối
tình có thể bị ngăn trở của gia đình cô ấy. Càng nghĩ anh càng cảm thấy buồn
chán và bế tắc, lúc lâu sau anh chậc lưỡi thầm nói với mình: Thôi chẳng nghĩ
nữa, mặc kệ sự đời muốn ra sao thì ra! Cố chợp mắt để mai còn lên đơn vị.
Sau buổi tối
hẹn gặp Mận không thành Hằng có linh cảm câu chuyện mà mẹ nói có thể đã xảy ra,
tuy vậy anh vẫn hy vọng Mận sẽ xuất hiện đột ngột trước mặt anh như những câu
chuyện tình lãng mạn mà anh vẫn đọc hàng ngày. Nhưng rồi cái điều tưởng tượng
ấy chẳng bao giờ xảy ra vì Mận không biết đã đi đâu vắng biệt tăm hơi. Có lẽ cô
ấy đã bị giam lỏng ở đâu đó hoặc đã bị đưa đến nhà ai đó ở quê ngoại để cách ly
cô ấy với Hằng. Có một điều mà Hằng không tưởng tượng nổi là có lần Hằng kiếm
cớ cùng cháu của ông Chắn vào nhà chơi có ý xem Mận có nhà hay không thì vẫn
thấy ông niềm nở và chuyện trò rất thân tình như không có việc gì xảy ra. Đến
lúc này thì Hằng thấy mẹ đã đánh giá đúng con người ông Chắn, thế mới biết ông
quả là một người kín đáo và sâu sắc. Hằng không đến nỗi buồn bực quá lâu vì dù
sao câu chuyện tình của anh với cô Mận cũng chưa đến nỗi nào, hơn nữa với tính
cách của ông bố Mận đã làm cho anh thấy không còn muốn gần gũi với họ nữa.
Trong những
ngày tháng giêng, tháng hai âm lịch hàng năm của các vùng quê Kinh Bắc cũ vẫn
thường có lệ mở những hội hè đình đám. Trước hết là tế lễ Thành hoàng hoặc suy
tôn công đức của tiền nhân có công với làng với nước, sau đó là các trò vui,
mừng một năm làm ăn thịnh vượng. Bên cạnh đó nhiều làng còn có các lễ hội mang
màu sắc riêng khác ví như hội pháo mồng bốn tháng giêng của làng Đồng Kỵ, hội
hát Quan họ của bốn mươi chín làng Quan họ, mà hội lớn nhất là hội ngày mười ba
tháng giêng vùng chùa Lim. Ngoài ra trong hội còn có rất nhiều các trò chơi dân
gian náo nhiệt mà làng nào cũng có. Đáng kể nhất vẫn là nghi thức tế lễ của các
cụ trong trang phục tế với những chiếc mũ hình hộp, những bộ áo thụng đỏ, đen,
vàng, xanh tuỳ theo tục lệ của mỗi làng trông thật kính cẩn và trang trọng. Sau
mỗi câu xướng lên các vị chủ tế, bồi tế cứ lần lượt tiến lên dâng hương, dâng
các vật phẩm lên bàn tế.
Còn về phần
hội thì càng phong phú hơn với các trò vui gồm đủ loại, đâu là các sới vật với
đủ các giải lèo, giải chính. Cho dù giải chỉ là cái mâm đồng, cái chậu thau chả
lấy gì làm to lắm nhưng vẫn thu hút rất nhiều các đô vật ở khắp các vùng về
tham dự. Đâu là các đô Đình Sấm, các đô Gia Lược, đô Đồng Kỵ, đô Trung Mầu và
nhiều vùng tận Hải Phòng, Hà Nội, Hà Tây cũng về tham dự. Những trò vui này vừa
mang tính giải trí trong dân gian nhưng trong đó còn có ý muốn duy trì tinh
thần thượng võ của cha ông truyền lại.
Ngoài ra các
hội làng còn tổ chức chọi gà, đánh cờ, đốt pháo và cả tổ chức các vở tuồng đồ,
tuồng pho kéo dài hết cả ba ngày, ba đêm hội với những vở tuồng kinh điển như
Lã Bố hý Điêu Thuyền, Sơn Hậu đệ nhất, Sơn Hậu đệ nhị, Rồi thì Bao công xử án
Quách Hoè, Bao công xử án Bàng Quý phi vv... Ngoài tuồng cổ còn có cả các loại
chèo cổ, chèo cải biên và không hiếm các vở cải lương với nhiều tình tiết ly kỳ
anh hùng cái thế hoặc đầy nỗi niềm thương cảm cùng với sự chiến thắng của những
người hiền, những chính nhân quân tử cho dù trước đó họ có gặp bao nhiêu gian
nan, trở ngại. Hầu hết những vở hát dưới bất kỳ hình thức nào cũng đều phê phán
cái ác, cái sai trái, ca ngợi cái đúng, cái hiền, định hướng cho con người ta
về cách sống, cách suy xét sao cho phải ở đời. Mỗi vở diễn là một bài học nhân
văn lớn cho tất cả mọi người, mong sao cứ giữ mãi được nền nếp sinh hoạt như
vậy làm đẹp và làm vui cho đời trên những làng quê thanh bình yên ấm. Những
ngày hội, những đêm văn nghệ đã làm dịu đi nỗi buồn trong lòng của Hằng. Anh
quyết định sẽ dừng lại tất cả các việc yêu đương để tập trung vào việc lo công
việc làm sau khi nhận công tác mới hoặc nhận quyết định ra quân.
5
Rời sân khấu
tuồng của làng Nghĩa Vũ, Hằng lững thững theo đoàn người đi ra phía đầu làng để
ra đường cái chính. Làng Nghĩa Vũ cùng một xã với làng của Hằng nhưng ở cách xa
làng của Hằng gần một cây số rưỡi. Kể ra thì từ làng Hằng sang đó quả cũng quá
xa đối với những người nhiều tuổi, nhưng với lớp trẻ và lại trai tơ như Hằng
thì quãng đường ấy chả đáng là bao. Vừa đi vừa nghĩ về vở tuồng mới xem nên
Hằng chẳng để ý đến ai, mãi đến khi ra khỏi làng Nghĩa Vũ, Hằng mới thấy những
người đi xem xa như Hằng không phải là ít. Trời thì tối, với lại nếu có gặp ban
ngày thì chưa chắc Hằng đã biết ai là người làng nên Hằng cứ đi một mình như
vậy. Hằng rời nhà đi công tác lâu quá rồi, mà số các chàng trai, cô gái son rỗi
hôm nay thì lại vừa mới lớn lên, những thay đổi về vóc dáng làm cho người ta lạ
hẳn đi so với thời con trẻ. Nếu có người nào đó giống bố, giống mẹ thì khả dĩ
Hằng mới nhận ra, còn thì Hằng đâu có biết ai. Hằng thả lỏng mọi tâm sự, tạo
cho mình sự thoải mái rồi cứ thế lững thững đi trong bóng tối nghe các câu
chuyện của các cô, các cậu trêu chọc nhau trên dọc đường. Nhiều câu chuyện làm
Hằng rất muốn cười nhưng lại sợ các cô, các cậu chạm nọc nên đành cứ nín lặng
cố nhịn để đi. Phía trước Hằng là hai cô gái vừa đi vừa tâm sự, tuy chỉ nghe
tiếng được, tiếng không nhưng xem ra câu chuyện của họ có vẻ khá rôm rả.
Câu chuyện
của họ chỉ tập trung vào mỗi một đề tài là nói về các chàng trai mà họ cùng
quen. Hầu như họ chỉ nói với nhau những nhận định của họ về hình thức và tính
cách của các chàng mà không nói gì đến điều khác. Những nhận xét của họ xem ra
hết sức thật tình, tuy nhiên những người trong câu chuyện đều ở một cái tên bí
mật mà họ tự hiểu với nhau, còn tên thực thì ngoài họ chắc không ai biết. Sau
rất nhiều nhân vật mà họ nói ra Hằng chẳng mấy chú ý lắm vì Hằng đâu có biết họ
là ai. Nhưng đến một nhân vật bộ đội được nhắc đi nhắc lại thì Hằng giật mình,
linh cảm cho thấy hình như mấy cô này nói đến ai đó giống mình. Tất nhiên là
anh chẳng nghe rõ hết được mọi chi tiết câu chuyện của họ, còn những mẩu đối
thoại nghe ra rất suôn sẻ được viết ra sau này chẳng qua chỉ là sự góp nhặt
những điều nghe được rồi ghép lại sao cho hợp lý mà thôi.
- Chị xem cái
tay bộ đội mới về ấy trông cũng được đấy chứ?
- Hình như
hắn cặp với cái “mờ” ở xóm nhà mày hay sao ấy.
- Tắt rồi bà
chị ạ.
- Có chắc
không đấy?
- Gớm làm gì
mà tìm hiểu kỹ thế? Hay là đã kết người ta rồi đấy?
- Vớ vẩn,
biết người ta thế nào mà kết với chẳng quả, tao thì thụi cho mấy quả bây giờ.
Cùng lúc đó
hai cô gái díu vào nhau để cấu, véo trêu nhau rồi kêu la oai oái.
- Này im đi,
có người đằng sau đấy, khéo người ta nghe thấy người ta cười cho.
- Không phải
người làng đâu mà sợ.
- Sao biết?
- Người ấy đi
phía sau đã lâu lắm rồi, nếu người làng thì đã lên tiếng.
- ừ nhỉ! Có
lẽ là người ở xóm Lẻ mày ạ...Sao họ đi xem xa thế nhỉ?
Hình như cô
bạn kia chả nghe hay sao mà thay cho việc trả lời lại là một câu hỏi:
- Này hình
như ngày trước anh ấy học cùng với anh cả của chị thì phải?
- Có lẽ thế.
- Mấy đứa bạn
em nói ngày xưa anh ấy học giỏi lắm, mấy lần thi học sinh giỏi thành phố cơ đấy,
chắc vì nhà nghèo quá nên phải bỏ học để đi chuyên nghiệp chứ nếu không thì ...
- Không biết
anh ấy có bị thương không nhỉ?
- Chắc là có,
hình như anh ấy đang ở trạm an dưỡng trên huyện thì phải.
- Anh ấy
trông cũng được đấy chứ, chỉ tội chả có họ với ai trong làng cả. Hình như nhà
anh ấy ngày xưa nghèo lắm, toàn phải đi xin ăn thì phải.
- Em nghe mẹ
em bảo ngày ấy vùng mình có hàng trăm, hàng ngàn người ăn mày, ăn xin ấy chứ.
Lúc đó làm sao có thể sống được là quý, cần gì phải tính toán này nọ. Này thế
chị có kết không để em bảo mấy đứa ở gần đó nó giới thiệu cho.
- Sao mày
không tự giới thiệu cho mày ấy.
- Em chỉ sợ
em xấu xí quá anh ấy không để ý đến thôi chứ, nếu mà anh ấy đồng ý thử xem.
- Thôi chả
nói nữa nhỡ đến tai người ta thì xấu hổ chết mất... Không biết ông nào đi mãi
đằng sau mà không lên tiếng thế nhỉ?
- Chị thử
quay lại hỏi xem... em đố chị dám đấy.
- Sợ gì, mày
mất gì tao hỏi cho mà xem, tao cứ hỏi người ta về đâu là được chứ gì?
- Em chịu một
cái véo tai.
- Mười cái?
- Hai cái
thôi.
- Được, để
tao hỏi.
Sau câu
chuyện thách đố giữa hai cô gái là một khoảng thời gian im lặng không ai nói
gì. Phía trước hai cô có ý như đi chậm dần lại để chờ người đi sau tiến kịp.
Tựa như vô tình người đi sau vẫn giữ nguyên tốc độ nên chỉ độ mấy phút cả ba
người đã đi gần như ngang nhau. Cô có hình dáng cao hơn bất chợt quay hẳn lại
gần như chạm mặt vào người phía sau vừa tiến đến:
- Anh về...?
Cô gái định
hỏi anh về đâu để cho họ đi cùng nhưng chưa kịp hỏi phần sau của câu hỏi đã
giật mình sững người lại khi đã nhận ra người cô hỏi chả phải ai xa lạ mà chính
là cái anh chàng bộ đội mà họ đã bàn tán suốt từ nãy đến giờ. Tuy nhiên cô cũng
nhanh ý hỏi tiếp:
- Anh cũng đi
xem ạ?
- Vâng! Tôi
cũng đi sang đây lúc tối.
- Anh đi có
một mình ạ?
- Tôi đi với
mấy người nhưng sau đó không gặp lại, hình như họ đi trước mất rồi.
- Thế thì họ
bỏ rơi anh rồi, thôi anh về cùng với chúng em cho vui.
Vừa nói về
cùng với chúng em, cô nhìn lên phía trước có ý tìm cô bạn cùng đi với mình, nào
ngờ phía trước bây giờ chả còn ai nữa. Chắc rằng khi thấy tình huống vừa rồi cô
bạn của cô sợ lộ chuyện nên đã chạy trốn mất, để mặc bạn mình với cái người
đáng ngại nọ. Để chữa thẹn cô bạn đành nói với theo vào khoảng không một câu đe
doạ :
- Ngày mai
dứt khoát phải đòi nợ mười cái véo tai
- Làm sao mà
cô có vẻ tức tối với cô ấy thế?
- Nó dám bỏ
em lại một mình.
- Vẫn có tôi
cùng đi như vừa rồi đấy chứ?
Cô gái không
nói gì nhưng hai vai như đang rung lên và hình như cô đang cố ghìm lại tiếng cười
cứ muốn bật ra.
- Này nhưng
mà cô tên là gì ấy nhỉ?
- Em là
Phương.
- Có phải cô
là em của Cầu không nhỉ?
- Dạ phải ạ.
Sau mấy câu
hỏi vừa rồi hai người có vẻ bớt bỡ ngỡ hơn, vì dẫu sao thì ít nhất thì họ cũng
biết về nhau, với người này thì là bạn cùng học với ông anh của mình. Còn với
người kia thì đây là em gái của anh bạn cùng học với mình. Mỗi người đều có một
tự nhận như thế và cảm thấy như giữa họ có sự gần gũi lên rất nhiều và câu
chuyện hầu như cứ tràn chảy không ngừng. Hết người này hỏi về tình hình của
người kia lại đến người kia hỏi lại với bao nhiêu chuyện từ chuyện nhà đến làng
xóm rồi đến chuyện đi học, đi làm của cô gái, chuyện về đời lính của chàng
trai.
Câu chuyện có
lẽ sẽ còn dài nữa nếu như phía trước chưa phải là cái cổng làng sừng sững chắn
ngay trước mặt. Hai người dùng dằng một lúc rồi cũng đành phải từ biệt với lời
hẹn đến thăm nhau trong những ngày sắp tới.
Một buổi trưa
không hẹn trước, Phương và một người bạn gái nữa đột ngột vào chơi nhà Hằng.
Ánh sáng ban ngày giúp Hằng nhìn rõ Phương hơn. Cô ấy không đẹp lắm nhưng rất
có duyên, đôi mắt hơi sâu có viền đen làm cho người ta rất dễ có cảm tình. Hình
như cô ấy cũng đã một vài lần yêu nhưng không biết thế nào vẫn chưa chịu lấy
ai. Mấy ngày nay cô ấy đang học thêu ở dưới đình làng, nơi ấy lại khá gần nhà
Hằng nên tranh thủ về sớm kéo theo cô bạn vào chơi. Tính ra có lẽ cũng đến mười
năm Hằng không gặp cô ấy, nếu nói cho đúng thì có thể còn hơn mười năm vì hồi
Hằng đến nhà Cầu thì cô ấy mới mười hai, mười ba tuổi là cùng. Cánh thanh niên
thời ấy hầu như hơi ngố trong quan hệ với giới nữ và chắc chắn chả bao giờ để ý
đến các cô nhóc ấy làm gì. Trong bụng họ chỉ thấy khó chịu vì các cô em ấy chỉ
hay nhõng nhẽo và nhất là hay mách lẻo để bố mẹ mắng mỏ làm khó cho mình. Cuộc
viếng thăm dù rất ngắn ngủi với lý do về lo cơm nước để kịp đến lớp buổi chiều
nhưng vẫn đầy đủ thủ tục, ngoài ra lại còn hẹn gặp nhau buổi tối hôm ấy mới là
điều đáng nói. Linh cảm cho thấy cái số đào hoa của Hằng vẫn chưa cho dừng lại
được, đành phải chấp nhận vậy thôi.
Cuộc tình mới
với Phương đến cũng nhanh chóng và hầu như không có trở ngại gì đáng kể sau mấy
lần đi chơi tối cùng nhau. Mỗi ngày hai người vẫn gặp nhau mỗi khi Phương đến
lớp và cả khi Phương rời lớp học về nhà. Họ gặp nhau cả ở trên lớp thêu vì ngoài
thời gian lên lớp là thời gian thực hành học viên tự quản. Những người cùng học
với Phương đều là người làng cả, họ đều muốn vun vào khi thấy hai người nhiệt
tình với nhau như thế. Còn với những buổi tối thì hầu như họ không thiếu nhau
bao giờ. Những buổi tối say mê thường làm cho họ quên cả việc về đi ngủ, nhiều
hôm đi chơi về muộn Phương toàn về ngủ với cô em họ nhà cậu mợ của Phương ở ngõ
Ngách. Được cái cô em họ lại đồng tình với bà chị họ nói thác với bác là chị
Phương vẫn về ngủ với cháu nên bố mẹ Phương cũng quen dần với việc Phương luôn
không ngủ ở nhà.
Một buổi
chiều khi Hằng từ đơn vị về nhà thì thấy mấy cậu bạn bảo cái Phương nó tìm cậu
gắt quá không biết để làm gì. Đến ba giờ chiều hôm ấy thì hai người gặp được
nhau. Phương ôm chặt ngay lấy Hằng rồi hồi hộp nói với người yêu:
- Bố mẹ em
bảo anh đến nhà để nhà xem ý kiến anh thế nào.
- Thế em đã
nói chuyện của chúng ta cho bố mẹ em rồi à?
- Em nói bữa
trước...mà không nói thì chuyện cũng đã đến tai các cụ ấy rồi làm sao em giấu
được.
- Nhưng ý các
cụ ấy thế nào?
- Tối nay anh
cứ đến thì biết, em chả nói nữa.
Vừa nói
Phương vừa ngúng nguẩy bỏ đi giả như dằn dỗi. Mới được một đoạn đã thấy ngoái
cổ lại:
- Anh nhớ đến
sớm sớm đấy nhé, đừng để các cụ ấy phải chờ.
Nghe Phương
báo tin này Hằng thấy thật bất ngờ tự nhủ: Chả lẽ câu chuyện về số đào hoa đáng
ngán của mình đến đây là kết thúc được rồi chăng (?)
6
Ánh đèn dầu trong nhà có vẻ không được
sáng lắm nhưng từ ngoài cổng Hằng đã nhìn rõ trong nhà, anh tự hỏi:
- Sao lại chả
có ai ngoài bố mẹ của Phương thế nhỉ (?)
Nghĩ quanh
quẩn một lúc không ra cái gì cả, Hằng chỉ còn biết tin vào lời Phương và mạnh
dạn bước vào cất tiếng chào:
- Cháu chào
hai bác!
Hai bố mẹ
Phương có lẽ cũng bất ngờ ngước nhìn lên chào lạiH:
- Anh đến
chơi!
Vừa đáp lại
lời chào của Hằng, ông bố Phương xê dịch cái ghế để cho Hằng ngồi xuống, vừa
lúc ấy mới thấy Phương xách ấm nước từ nhà dưới đi lên. Đổ xong ấm nước nóng
vào cái phích sơn đỏ cô liền di chuyển sang đứng cạnh Hằng. Có lẽ cô nghĩ nếu
có cô ở bên cạnh thì người yêu có thể mạnh dạn hơn, hoặc giả cô định làm như
thế để khảng định về ý kiến ban chiều là hoàn toàn đúng đắn.
Vừa rót nước
ra chén ông bố của Phương vừa nhẹ nhàng nói với Hằng:
- Mấy hôm
trước tôi thấy cái Phương nó về nói với gia đình về việc anh và nó có sự tìm
hiểu với nhau. Chúng tôi cũng tán thành việc ấy, tuy vậy chúng tôi cũng phải
báo qua trong nội tộc rồi mới có ý kiến chính thức. Tôi định trong vài ngày tới
tôi hỏi ý kiến trong họ cho phải phép là được. Việc này chỉ là làm cho có lệ mà
thôi còn việc chính là chúng tôi đã quyết được rồi.
Ông bố Phương
đã dừng nói đã khá lâu mà Hằng vẫn chưa đáp lại được một lời nào. Sốt ruột quá
Phương đá vào chân Hằng mấy cái liền để nhắc nhở, đến lúc ấy Hằng mới chợt tỉnh,
anh dè dặt nói:
- Chúng cháu
còn ít tuổi lại chả biết thủ tục thế nào nên có gì thì hai bác chỉ dẫn.
- Thôi được
rồi, cứ đến thứ tư tới này rồi mọi việc sẽ đâu vào đấy cả thôi.
Câu chuyện
còn được tiếp tục thêm một lúc nữa về công ăn việc làm của Hằng cùng với một
vài câu hỏi về quê quán, anh em của Hằng nữa thì buổi gặp mặt kết thúc. Trong
lúc Hằng chào bố mẹ Phương thì Phương đã ghé vào tai Hằng nói nhỏ:
- Nhớ chờ em
ở đầu ngõ đấy.
Có lẽ chưa
bao giờ Hằng ở trong hoàn cảnh căng thẳng đến như thế, kể cả khi đến chơi và
tiếp xúc với bố mẹ của Dụng và bố mẹ của Nghi năm, bẩy năm về trước. Nên sau
khi chào bố mẹ Phương thêm một lần nữa thì Hằng đi nhanh ra ngoài cổng, vừa đi
vừa mong sao cho chóng thoát khỏi không khí căng thẳng vừa rồi. Theo lời dặn
của Phương, Hằng đứng chờ có lẽ phải đến gần nửa tiếng mà vẫn chẳng thấy Phương
ra, anh đoán là bố mẹ còn giữ Phương lại
để hỏi thêm nhiều chuyện khác nên chưa chắc Phương đã ra được, thế là Hằng cứ
một mạch đi thẳng về nhà không đợi nữa.
Về đến nhà
Hằng mới thấy vắng vẻ, anh cũng chẳng thắp đèn lên nữa mà ngồi yên lặng trên
mép giường như thế để nghĩ về những sự việc đã qua. Chiều nay mẹ vào chơi nhà chị hai rồi ở lại
trong ấy không về nên những điều vừa rồi Hằng chẳng biết nói với ai. Còn đang suy nghĩ miên man thì nghe
có tiếng bước chân từ phía ngoài sân, anh vội đứng lên xem đó là ai mà lại dám
vào nhà mình khi đang tối mò như thế, lại còn chẳng chịu đánh tiếng mới lạ chứ.
Vừa thò đầu ra ngoài còn chưa kịp hỏi thì anh đã nhận ra người đó là Phương
cùng với câu trách móc tuy rất nhỏ nhưng khá là gay gắt:
- Đã bảo chờ
em thế mà lại cứ đi tuột về nhà... sao mà nhà tối thế?
- Cứ đứng chờ
đấy để anh thắp đèn.
- Này, thế bu
anh đã ngủ rồi cơ à?
- Không, bà
cụ đi vào trong chị hai đến chiều mai mới về cơ.
- Thế thì
đừng thắp đèn nữa, cứ ngồi tối nói chuyện cũng được anh ạ.
Nghe theo lời
của Phương anh cũng không thắp đèn nữa, thế là hai người ngồi ngay xuống mép
giường của gian nhà bên trái để nói chuyện.
- Sao lâu thế?
Anh tưởng bố mẹ không cho em ra nữa.
- Em phải nói
khối lý do ra bố mẹ mới cho đi đấy.
- Coi chừng
cũng phải về sớm kẻo các cụ ấy lại tế cho một trận đấy.
- Không sao
đâu, em đã nói với bố mẹ là em sẽ về nhà cậu mợ để ngủ, các cụ ấy im lặng không
nói gì chắc là tán thành rồi.
- Này thế các
cụ ấy không nghi ngờ gì thật à?
- Có gì mà
nghi ngờ chứ, hơn nữa đã có cái Hoan nó xác nhận hộ nên chẳng có gì đáng ngại
anh ạ.
Buổi tối hôm
nay mặc dù không có trăng nhưng do bầu trời có khá nhiều sao nên ngoài trời
cũng không tối lắm. Tuy không nhìn thật rõ mặt nhau nhưng họ vẫn nhìn thấy hình
dáng lờ mờ của nhau. Trong một khoảng thời gian ngắn thôi nhưng họ đã nói với
nhau rất nhiều chuyện. Những chuyện về yêu đươngB, những kế hoạch về cưới xin
và nhiều nhiều dự định khác. Họ nói với nhau giống như một đôi vợ chồng vẫn bàn
bạc với nhau về công việc sau một ngày làm việc trở về. Có lẽ do mải mê nói
chuyện nên đến khi Phương chợt đứng lên đòi về Hằng mới nhận ra là trời đã quá
khuya, anh phân vân nói với Phương:
- Chắc em
Hoan không còn thức để chờ em nữa đâu, em cứ ngủ ở đây mai về sớm một tý là
được.
- Em sợ có ai
nhìn thấy thì chết mất anh ạ.
- Cũng chỉ
còn thời gian ngắn nữa là mọi việc đâu vào đó, lúc ấy chắc chả còn ai nói gì
nữa, với lại từ tối đến giờ chả ai thấy chúng mình ngồi với nhau thì còn sợ gì.
Những câu nói
vừa rồi chắc đã thuyết phục được Phương nên không thấy cô nói gì thêm nữa. Cùng
lúc ấy Hằng thấy hình như Phương không những đã ngồi sát mà còn dựa hẳn vào
người anh để ngủ. Hằng nhẹ nhàng đỡ cho Phương nằm xuống giường và buông chiếc
màn màu xanh phòng không xuống. Kế đó Hằng ra ngoài hiên kéo tấm liếp đóng kín
cửa rồi vào nằm xuống bên cạnh Phương.
Hằng cũng đã
nhiều lần nằm cạnh những cô gái mà Hằng đã yêu nhưng chưa bao giờ Hằng thấy cảm
giác lạ như lần này. Chả biết có phải anh cảm thấy yên lòng khi anh đã coi
Phương như là người vợ của mình thông qua cái quyết định của bố mẹ Phương lúc
tối hay là Hằng thấy mình nằm cạnh một cô gái ở ngay trong nhà mình với một ý
nghĩ hoàn toàn yên tâm rằng không có ai làm cản trở đến việc này.
Ngay sau khi
nằm xuống cạnh Phương với ý định ngủ lấy một lúc thế nhưng khi nằm cạnh cô ấy
hai mắt anh cứ dựng lên mà không sao có thể ngủ được. Anh nghiêng người về bên
trái vòng tay ôm lấy Phương và kéo cô ấy nằm sát vào với mình. Những cảm giác
đặc biệt cứ trào dâng lên làm anh thấy thật khó chịu, vòng tay anh cứ xiết chặt
dần thêm.
Mặc dù không
thấy Phương có một cử động nào có ý cưỡng lại nhưng cùng lúc ấy anh nghe thấy
tiếng Phương nhỏ nhẹ nhưng tỉnh bơ ngay bên má, chẳng có một tý dấu hiệu ngái
ngủ nào:
- Sao anh ôm
chặt thế?
- Em vẫn chưa
ngủ à?
- Ở bên cạnh
anh em chẳng thể nào ngủ được, chỉ khi về nhà thì ngủ lăn, ngủ lóc quên cả trời
đất.
Sau câu nói
vừa rồi hơi thở của Phương hình như gấp gáp hơn, cả Hằng hình như cũng hồi hộp
chả kém Phương là mấy. Trong một khoảnh khắc rất ngắn cả hai người họ chợt ôm
ghì lấy nhau và hai cặp môi của họ dính chặt vào nhau... Không biết từ lúc nào
mọi thứ vải vóc trên người của họ đã không còn nữa, chỉ còn da thịt ấm nóng
chạm vào da thịt ấm nóng. Hai bàn tay của họ thay cho ánh mắt thăm dò đến mọi
chỗ của nhau cùng với những cảm xúc thật là bay bổng. Những gì cần phải đến đã
đến với họ trong sự hưng phấn đến tột độ không cần phải miễn cưỡng bởi bất kỳ
một điều gì.
Họ giật mình
tỉnh dậy và thật sự lo lắng sợ rằng ngoài trời đã sáng, nhưng thật may mắn khi
Phương nhòm qua khe liếp thấy trời vẫn còn mờ tối. Họ thu dọn lại những gì bừa
bộn mà họ đã gây ra trong đêm qua rồi cứ ngồi như thế ôm nhau để mà chờ sáng.
Ngoài trời vừa mới mờ sáng Phương đã rời nhà để về nhà cậu, cô ấy sợ lúc về mà
cậu mợ gặp thì không biết nói ra sao. Còn Hằng cũng đóng cửa, đóng cổng lại rồi
đi lên đơn vị. Sớm nay đơn vị sẽ thông báo về việc tuyển dụng lao động của một
số đơn vị sản xuất ở quanh huyện và một số trường chuyên nghiệp đóng ngay trên
đất Hà Nội.
RA QUÂN
1
Từ sáng thứ hai đến hôm nay đã gần ba
ngày, có đến mấy đơn vị vào gặp đoàn mà Hằng vẫn chưa tìm cho mình được một
công việc vừa ý. Cũng có chỗ có công việc ngay như xí nghiệp ốc vít Tây Mỗ thì
công việc sản xuất ở đó nhàm chán, không phù hợp với tính cách của mình. Việc
chuyển sang học nghề sửa chữa xe máy thì họ đòi phải học lại từ đầu. Hằng đã
học nghề, đã làm bao nhiêu năm ở ngành điện rồi lại về làm quân giới mấy năm
liền ở sư đoàn, bây giờ lại đi học từ đầu thì sao có thể chấp nhận được.
Còn một chỗ
tuyển làm ngay là về làm nhân viên thuế vụ thì Hằng càng không thích. Đành rằng
đây cũng là công việc nhà nước, nhưng Hằng vẫn ngại công việc này từ xưa đến
giờ, bởi công việc này va chạm với rất nhiều người. Hơn nữa công việc này dễ
làm cho người ta thay đổi tính tình từ chỗ hiền lành trở thành ác độc, từ ngay
thẳng trở thành tham lam khi tiếp xúc với của cải vật chất. Chưa nói đến việc
có bao nhiêu kẻ dùng tiền của hối lộ nhờ cậy mình bỏ qua cho họ những việc làm
ăn phi pháp. Đến khi không thể mua nổi mình chúng có thể dùng các thủ đoạn ác
độc để ép mình đi vào con đường ấy. Bản thân mình đâu phải là người đã được
miễn dịch đối với các loại khuẩn độc đầy rẫy khắp nơi. Cho dù cái truyền thống
không tham của người, từ ông bố có di truyền lại và cả một quá trình tu dưỡng
của bản thân đã chắc gì vượt qua được cái bả vật chất mỗi ngày cứ gậm nhấm vào
mình trong khi mình đang vướng bởi cái nghèo, cái khó và vì nó mình đã phải bỏ
dở bao nhiêu điều tốt đẹp cả trong tiến thân và trong tình yêu hạnh phúc. Mình
đâu có phải là người có bản lĩnh siêu việt, để không phải bị quyến rũ vào cái
vòng đó. Điều tốt nhất là nên tránh xa những chỗ như thế thì hơn.
Đang lúc buồn
chán vì chưa tìm ra được công việc gì phù hợp cho mình thì Hợp đến. Mấy ngày
vừa rồi Hợp không phải ở lại đơn vị vì Hợp là thương binh bị thương cứng khớp
gối. Tất nhiên là những công việc kia Hợp không thể tham dự được, có chăng là
phải có một ngành nào đó có công việc ít phải di chuyển mà lại không cần đến
chân mấy thì Hợp mới làm được, vì vậy nên cậu ấy vẫn cứ phải chờ đợi.
Hợp đến lần này có vẻ không vui lắm,
hình như có chuyện gì đó phiền muộn mà Hợp không muốn nói ra. Hằng đoán chắc là
có việc gì nghiêm trọng nên cố gạn hỏi:
- Có gì không vừa ý mà bần thần ra thế?
- Cũng khá nghiêm trọng đấy anh ạ.
- Thì cứ nói xem nào.
- Em không biết anh với Phương quan hệ
thế nào nhưng xem ra có chuyện rồi. Buổi tối hôm thứ ba em qua đấy thấy nhà
Phương không biết có chuyện gì mà ầm ĩ
cả lên anh ạ.
Nghe Hợp nói vậy Hằng cũng chẳng biết
đầu cua tai nheo ra sao mà trả lời. Chuyện của hai người thì bố Phương đã nói
rõ rồi làm gì lại có thể thay đổi nhanh thế được, còn chuyện qua lại của hai
người thì không ai biết, với lại dẫu sao họ cũng sẽ lấy nhau, thế thì có gì
đáng phải làm cho lớn chuyện.
- Này thế cậu có nghe được cái gì
không thì nói cho tớ biết để tớ tìm cách xử lý chứ.
- Nói chung là rất tệ, những lời họ
nói chắc anh sẽ rất khó chịu.
- Thì cậu cứ nói cho tớ nghe xem nào.
- Họ nói thì nhiều nhưng có mấy ý này
là căng nhất. Thứ nhất là họ bảo nhà anh không có gốc ở đây, chẳng biết ở đâu
cả. Ngày xưa đã phải đi ăn xin, ăn mày, còn bây giờ hoàn cảnh vẫn quá khó khăn.
Nếu để con cái nhà mình vào đó thì chắc là sẽ khổ. Nhưng cái chính mà họ không
muốn nói ra ấy là hai nhà không môn đăng hộ đối.
Nghe Hợp nói từ đầu đến lúc ấy Hằng
chỉ lặng lẽ nghe mà không nói một lời nào, sau cùng anh thở dài và nói như
trong mộng:
- Cũng chả khác gì nhau cả...
Hợp thấy Hằng lẩm bẩm vội hỏi lại:
- Anh bảo cái gì cơ?
- Chả có gì
đâu, chú cứ về đi.
Vừa nói Hằng
vừa đứng lên đi về phía cổng của đơn vị, cũng chẳng để ý đến Hợp đang gọi ở
phía sau lưng. Mãi đến khi ra đến cổng mấy anh bạn đứng gác gọi lại rồi chỉ về
phía sau Hằng mới nhận ra. Anh đi vội trở lại phía Hợp, có lẽ anh không muốn để
Hợp phải cà nhắc đi đến với anh là chính, đến khi đối diện với nhau Hợp mới nói:
- Phương nhờ
em dặn anh là sáng mai cô ấy sẽ trốn nhà lên gặp anh, anh nhớ đón cô ấy ở cổng
chợ Sa đấy nhé.
Hằng nghe Hợp
nói xong chỉ gật đầu nhẹ rồi lại quay ra phía cổng doanh trại. Vừa bước chân
qua cổng mấy cậu gác lại hỏi giật giọng:
- Về nhà đấy
hở?
Vừa nghe hai
cậu gác đánh tiếng Hằng liền quay lại bốt gác, tay thì móc bao thuốc đã bóc dở
ném cho hai cậu này, miệng thì thủng thẳng nói:
- ừ, tớ về
qua nhà tý, anh Đạt C phó đồng ý rồi.
Thực ra Hằng
không về nhà mà đi lang thang dọc con đường từ doanh trại vòng ra đường chính
lên ngã ba Trạm biến thế 110 KV. Trong đầu anh có hàng chục giả thiết về nguyên
nhân sự việc và cùng với nó là hàng chục những phương án để nhằm cứu vãn mối
tình của hai người. Nhưng cứ nghĩ đến những người như ông Chắn và những người
trong họ nhà Phương anh lại bực giận về những lời nói của họ. Họ đâu có hiểu
được bố mẹ Hằng và cả Hằng nữa đã sống trong sáng đến thế nào. Họ đâu có hiểu
gia đình nhà Hằng thà sống khổ cực mà không cần nhận một tý vật chất nào của
làng xã cấp cho trong thời gian cải cách. Đành rằng có lúc những người thân của
Hằng đã phải chìa tay đi xin những phần vật chất rất nhỏ để độ thân, để tồn tại
trong cái thời cả dân tộc đói.
Trên đất nước
Việt Nam này có được bao nhiêu người từng phải sống như con vật trong suốt
những năm phong kiến, thực dân. Có bao nhiêu người từ kiếp tôi đòi giờ đây được
Cách mạng đưa lại cho quyền làm người. Họ đâu hiểu được đã có bao nhiêu người
từng một thời làm vua, làm chúa và rồi đã có lúc phải xuống làm nô tỳ, làm nàng
hầu, làm con sen, thằng ở sống nơi bếp gio, thùng trấu. Trên đời này còn có bao
người phải chết đói bởi không làm nổi một kiếp ăn mày.
Anh sẽ phải
từ bỏ con gái họ để họ hiểu rằng anh đâu có muốn đến làm thân với họA, đâu phải
vì cái đông đàn, đông lũ, vì cái danh giá tông tộc của họ. Nhưng còn Phương?
Phương sẽ thế nào khi trong lòng cô ấy đã hoàn toàn tin vào mối tình giữa cô ấy
và Hằng. Sự đổ vỡ khác nào xé nát cõi lòng cô ấy. Chả lẽ mình cũng trở thành
một người thù hận bình thường như những con người kia chăng, dù sao cũng phải
gặp Phương vào ngày mai đã. Những ý nghĩ tích cực trên đã giúp Hằng cảm thấy
nhẹ nhõm đi một phần nào. Anh quyết định gặp Phương vào sớm ngày mai như đã
hẹn.
Chợ Sa vào
đúng phiên nên khá đông, tuy vậy Hằng vẫn nhận ra Phương đang đứng với cô em họ
bên gốc cây đa đầu chợ. Khi hai chị em
Phương gặp Hằng rồi thì cô em họ chia tay vào chợ mua hàng. Hằng cầm tay Phương
đi qua chợ để lên khu đồi trồng cây nằm phía bắc chợ Sa. Thực ra khu đồi này
chính là dấu tích Loa Thành của vua An Dương Vương mấy ngàn năm về trước, giờ
đây người ta trồng những cây trám, cây mít, cây ổi và một vài loại cây ăn quả
khác. Bên dưới gốc các cây to ngưòi ta trồng một vài trăm hom sắn, mỗi năm thu
hoạch một ít củ để ăn. Ngoài ra đồi còn mọc tự nhiên lên một số loại cây hoang
dại làm thành những bụi rậm cao gần ngập đầu người vì thế nên Hằng và Phương đi
vào đó cũng ít có người nhìn thấy được. Hai người chọn một chỗ khá xa làng xóm
để tránh gặp người lui tới.
Cả hai người
cứ lặng lẽ đi mà chẳng ai chịu cất tiếng làm tăng thêm sự căng thẳng. Chỉ đến
khi dừng lại nhìn vào mắt Phương mới thấy hình như cô khóc quá nhiều. Cứ mỗi
lần nhìn vào hai mắt của Phương là trong lòng Hằng lại cảm thấy như có muối
xát. Chưa bao giờ anh lại cảm thấy lòng mình xót xa đến như vậy. Anh dùng cả
hai tay kéo Phương gần lại với mình, chỉ chờ như vậy là Phương ôm chặt lấy
người yêu rồi im lặng để cho nước mắt chảy dài trên má. Hằng cũng ôm chặt lấy
Phương để mặc cô khóc trong im lặng, anh nghĩ có như vậy cô ấy mới có thể trấn
tĩnh lại được. Quả nhiên anh đã đoán đúng điều đó, vì chỉ sau mươi phút thả
lỏng mình trong lòng người yêu cô đã không còn khóc nữa. Hai tay cô lỏng dần,
ngước lên nhìn vào mặt Hằng và nói chậm từng tiếng một:
- Em biết là
anh rất giận những người trong họ nhà em, mong anh thông cảm cho họ, để rồi em
sẽ nói cho họ hiểu ra.
- Anh cũng
mong là thế.
- Em cũng
không ngờ được anh ạ! Mọi việc tưởng như đã ổn thoả cả, vậy mà sau lúc em xuống
dưới bếp tự nhiên thấy ầm ĩ cả lên, thậm chí bố mẹ em cũng không còn bình tĩnh
được nữa.
- Sao anh
nghe nói cả bố và mẹ em cũng đã tuyên bố không chấp nhận quan hệ của chúng ta.
- Em cũng
không biết người ta đã nói những gì trong lúc em không có ở đó. Có lẽ có một
người nào đó đã khơi ra cái quy ước cũ của họ nhà em.
- Theo em thì nên làm như thế nào bây giờ?
- Em sẽ
thuyết phục bố mẹ em dần thôi anh ạ.
- Anh sợ em
không làm được, vì cái chuyện môn đăng hộ đối, rồi thì giầu nghèo từ lâu đã ăn
sâu vào họ.
- Chỉ cần anh
chờ đợi, mấy lại đừng nổi giận với họ là được.
Dù nói với
nhau như thế nhưng trong lòng họ cũng không tin lắm vào những dự kiến của mình.
Tuy nhiên trong lúc này thì họ cũng chỉ còn biết chờ đợi chứ còn biết làm gì.
Họ chia tay nhau sau rất nhiều cử chỉ âu yếm để tự động viên, an ủi nhau vượt
qua trở ngại.
Tuy rằng bố
mẹ Phương cấm cô gặp Hằng nhưng bằng cách này cách khác cô vẫn đến gặp được
anh. Khi thì tranh thủ đến lớp sớm hoặc về trước giờ để vào gặp người yêu. Mỗi
lần như thế họ lại hỏi về xem tình hình đã tiến triển đến đâu rồi và lại thở
dài chờ đợi.
Đã gần một
tháng trôi qua trong tình trạng gặp gỡ tranh thủ như vậy mà Phương vẫn chưa
thuyết phục được bố mẹ và những người trong họ. Mỗi lần gặp nhau họ cũng chỉ
còn dành cho nhau chút tình yêu như ban đầu vậy thôi.
Tuần này cũng
đã là bốn tuần Hằng lấy giấy giới thiệu đi liên hệ công tác. Anh đã đi đến hàng
chục nhà máy xí nghiệp mà vẫn chưa xin được ở đâu. Chỗ nào họ cũng đòi hỏi hộ
khẩu gốc ở Hà nội, mà hộ khẩu của Hằng thì lại ở Thanh Hoá.
Chiều nay anh
dự định sẽ vào Xí nghiệp sửa chữa thiết bị điện Đông Anh để xin việc, đây là
một đơn vị trong ngành điện, đơn vị cuối cùng có công việc hợp với ngành học cũ
của anh. Gần ba mươi phút chờ đợi mới thấy ông trưởng phòng tổ chức đi họp về.
Sau mấy câu chào hỏi thủ tục ông cầm đơn của Hằng lên xem rồi ông hồ hởi nói
luôn:
- Thế này nhé!
Tớ sẽ nhận cậu về làm việc được chưa nào. Hộ khẩu à, không cần đâu chỉ cần
quyết định ra quân và hồ sơ của cậu là được.
Hằng mừng quá
đến nỗi không biết nói gì với ông trưởng phòng có giọng nói miền Nam này, anh
cứ ú ớ trong miệng mà mãi không thoát ra được.
- Thôi cứ về
chuẩn bị đi, thứ tư này mang đến cho tớ xong là đi làm ngay đấy nhé, thôi về đi
bây giờ tớ cũng phải sang Hà Nội để họp
đây.
Nói xong ông
nhanh nhẹn bước ra khỏi phòng trước cả Hằng. Đến lúc Hằng quay ra thì chỉ còn
một người vẫn ngồi ở chiếc bàn kề ngay cửa ra vào. Anh cất tiếng chào chiếu lệ
rồi bước nhanh ra khỏi phòng lòng mừng khấp khởi.
Ra khỏi cửa
anh lại giật mình chợt nghĩ R: Lại thứ tư! Vừa mới thứ tư “khủng hoảng” xong
bây giờ lại thứ tư dễ lại xôi hỏng bỏng không lắm!
Thứ tư cùng
với sự mong đợi cháy ruột, cháy gan rồi cũng đã đến, Hằng đến cửa phòng tổ chức
sớm hơn đến gần ba mươi phút và phấp phỏng chờ đợi ở một cái ghế ngoài hiên.
Thời gian mỗi lúc một dài, từ lúc có đôi ba người đến các phòng ban bên cạnh
làm việc đến lúc các phòng ban này đã đầy người vẫn chưa thấy ông trưởng phòng
tổ chức ấy đâu. Nhìn đi, nhìn lại vẫn chỉ thấy có mỗi một ông nhân viên ngồi
gần phía cửa hôm trước đi vào mà chẳng thấy có ai vào thêm nữa. Đến lúc này thì
Hằng không còn cách nào hơn là vào hỏi ông nhân viên nọ xem sao. Bước chân vào
cửa phòng anh chợt nhận ra rằng ông nhân viên hôm nọ không ngồi ở chỗ cũ mà
ngồi ngay vào chỗ của ông Hược trưởng phòng vẫn ngồi. Hằng khẽ dặng hắng đánh
động để cho ông nhân viên ngẩng đầu lên, thế là Hằng tranh thủ ngay lúc đó để
cất lời:
- Anh cho hỏi
bác Hược hôm nay có đi làm không ạ?
Ông nhân viên
vừa ngắm Hằng như muốn cố nhớ xem người này là ai rồi từ tốn hỏi lại:
- Anh gặp bác
Hược có việc gì thế?
- Tôi được
bác ấy hẹn gặp để làm thủ tục xin vào xí nghiệp ạ.
- À thế thì
tôi biết rồi, hôm thứ bảy tuần trước anh đến làm việc với bác ấy có phải không?
- Vâng đúng
thế ạ!
- Rất tiếc
cho anh là bác ấy phải đi Nam để nhận nhiệm vụ mới từ chiều hôm trước mất rồi.
- Thế còn
công việc của tôi, bác ấy có trao đổi lại với ai không ạ?
- Hôm ấy tôi
cũng đã biết ý kiến của bác Hược nói với anh, nhưng do mới tiếp cận công tác
này nên tôi cũng chưa biết cách xử lý ra sao với trường hợp không có hộ khẩu
gốc ở Hà Nội. Tuy nhiên tôi có thể hứa với anh rằng tôi sẽ ghi nhớ việc này để
đưa vào kế hoạch xin điều động của công ty trong năm tới. Lúc ấy chỉ cần có
quyết định là có thể nhập khẩu được.
- Vấn đề là
từ nay đến sang năm tôi sẽ phải làm thế nào để có quá trình công tác liên tục
được.
- Có lẽ anh
cứ về đơn vị cũ sau đó để địa chỉ lại, tôi hứa sẽ giúp anh thật sự.
- Cũng đành
phải chấp nhận vậy thôi, địa chỉ đơn vị cũ tôi cũng đã ghi đầy đủ trong đơn và
hồ sơ rồi, xin gửi lại nhờ anh giúp hộ vậy.
Sau một vài
câu trao đổi và hứa hẹn, Hằng bắt tay ông trưởng phòng mới của Xí nghiệp thiết
bị điện Đông Anh rồi ra về. Trên dọc đường từ xí nghiệp ra đến đường chính Hằng
chợt lại nhớ đến sự linh cảm hôm nọ, anh cũng không hiểu thế nào mà sự việc lại
linh nghiệm đến thế. Thôi thì cứ trở lại Thanh Hoá để làm việc trong một thời
gian đã, vừa là để chờ đợi, vừa để cho có thời gian dài hơn một chút cho Phương
vận động gia đình. Rời khỏi Xí nghiệp sửa chữa thiết bị điện, Hằng liền về đoàn
an dưỡng đăng ký xin phục viên về đơn vị cũ. Ban chính sách cũng chẳng có khó
khăn gì khi ghi lại ý kiến của anh vào phần ghi nguyện vọng của quân nhân.
Anh về đến
nhà thì trời đã nhá nhem tối. Đặt mình lên chiếc giường xong liền ngủ thiếp đi
lúc nào không biết. Đến khi mẹ đi chơi trong chị ba về thì trời tối đã lâu rồi. Anh chỉ giật mình choàng dậy
khi thấy mẹ đang bỏ màn xuống cho anh, anh vội lên tiếng:
- Con chưa
ngủ đâu, mẹ cứ để đấy cho con.
Nghe nói thế
bà cụ lại vén màn trở lại rồi ngồi xuống bên cạnh con trai:
- Thôi con ạ!
Để rồi tìm chỗ khác. Khối người thiên hạ về làm dâu làng này chẳng những tháo
vát lại khéo cả đường ăn ở ví như mấy chị ở xóm Giữa, xóm Đình ấy.
Hằng không
nói gì về những lời khuyên của mẹ, anh buồn rầu nói:
- Sắp tới con
phải trở lại Thanh Hoá. Con chỉ mong có người đỡ đần mẹ trong lúc con đi vắng
là được.
- Chả lẽ lại
không xin ở gần được à?
- Con cũng cố
gắng lắm nhưng không được.
- Chắc anh
lại bực mình mà xin đi xa chứ gì!
- Không phải
đâu mẹ ạ!
- Thôi đấy là
tuỳ anh, bây giờ các anh đã có lông, có cánh bay đâu mà chả được, vợ con không
lo để trơ lại cái thân già này chết khô chết héo chứ gì?
Nghe mẹ nói
thế Hằng cũng cảm thấy cay cay ở sống mũi, anh cố trấn tĩnh vừa cười vừa trêu
bà cụ để cho không khí trong nhà đỡ nặng nề hơn:
- Cụ ơi! Chỉ
sợ rồi cụ lại réo lên rằng tôi mệt quá rồi, sao mà các anh, các chị đẻ nhiều
đến thế không biết được.
- Được thế
thì phúc nhà tôi đã to bằng cái đình.
Cứ nghe giọng
nói của cụ, Hằng đoán cụ không còn giận mình nữa, cụ chỉ nói dỗi vậy thôi. Biết
vậy là đã ổn, Hằng đứng lên chào mẹ rồi đi vào trong làng.
- Nhớ về mà
coi nhà đấy, tao đi ngủ sớm, mai còn phải vào trong anh Thiện để giúp cho vợ
chồng nó vài buổi cỏ.
Hằng mới đi
khỏi nhà chưa quá trăm thước đã gặp Phương chờ ở đó:
- Đã hẹn thế
sao mãi mới ra, tý nữa thì em về mất.
- Anh nằm chờ
tối hẳn rồi chợp mắt ngủ quên mất, bà già không động vào màn thì có lẽ vẫn đang
còn ngủ.
Thực ra Hằng
là người rất ít ngủ, mỗi ngày anh ngủ không quá sáu giờ đồng hồ nhưng vẫn thấy
bình thường. Có thời gian thức liền hai ba ngày sửa chữa nhưng anh cũng không
phải ngủ bù. Chắc do thời gian vừa qua gặp nhiều chuyện phải suy nghĩ căng
thẳng nên thần kinh có vẻ mệt mỏi mà thôi. Phương đâu có biết Hằng gặp bao
nhiêu là chuyện trong thời gian qua.
- Tình hình ở
nhà em bây giờ thế nào rồi?
- Vẫn thế
thôi, em muốn cho tình hình lắng dịu đi một chút anh ạ.
Hằng thấy sốt
ruột, tuy vậy anh lại không muốn làm Phương buồn nên anh chẳng nói gì thêm.
- Hôm nay anh
bị bà cụ mắng cho một mẻ tý nữa thì to chuyện, về sau anh phải tìm cách làm dịu
đi rồi mới ra đây được đấy.
- Mẹ anh mắng
vì lý do gì thế?
- Chung quy
vẫn chỉ là chuyện không chịu lấy vợ, với lại hình như hồi này cụ yếu hơn dạo
trước nhiều.
- Thế anh nói
với cụ thế nào?
Dù vẫn nghe
Phương hỏi nhưng anh lại không trả lời mà nói sang đề tài khác:
- Thực ra
việc ấy chưa hẳn làm cụ buồn phiền bằng việc anh phải quay lại cơ quan cũ ở
Thanh Hoá.
Vừa nghe Hằng
nói phải đi Thanh Hoá, Phương giật mình vội hỏi lại ngay:
- Anh lại đi
Thanh Hoá? Thế còn chuyện của mình anh tính thế nào?
- Anh cũng đã
đi xin việc khắp nơi mà không được, nên đành phải chấp nhận vậy thôi. Phần vì
anh muốn mình xa nhà một thời gian để em có cơ hội vận động bố mẹ và họ nhà em
khách quan hơn.
- Em sợ xa
nhau rồi mọi cái sẽ ...
Không để
Phương nói hết câu Hằng lại tiếp luôn cái kế hoạch mà anh chợt nghĩ ra:
- Anh định
vào đấy một thời gian, nếu công việc dễ xin thì xin cho em vào đó. Khi đã ở
trong cơ quan rồi mình tổ chức, chắc là
không ai ngăn cản.
- Em sợ, có
khi mình cũng phải...nhanh kẻo lỡ ra sẽ không kịp anh ạ.
- Chả lẽ em
đã...
- Kỳ vừa rồi
em không...với lại em thấy có vẻ khang khác thế nào ấy!
Câu chuyện
đến đây đã làm cả hai người lo lắng thực sự, tuy vậy Hằng vẫn động viên Phương:
- Nếu vậy em
cứ theo anh vào Thanh Hoá là mọi sự sẽ giải quyết được hết.
- Chắc nhà
chẳng chịu cho em làm thế đâu anh ạ.
- Em cố tìm
xem có cách nào không.
- Độ bao giờ
thì anh đi?
- Chắc là vào
đầu tháng mười tới, em sẽ đi tiễn anh chứ?
- Hồi này các
cụ ấy giám sát chặt lắm, không biết em có đi tiễn anh được hay không. Em sợ các
cụ ấy làm dữ rồi ảnh hưởng đến anh.
- Thôi thế để
sau viết thư cũng được.
Hai người
chia tay sau một loạt những đoạn kể lể và trêu chọc lẫn nhau không đầu không
cuối. Trời về khuya không khí đã hơi lạnh thổi vào cơ thể hai người, họ dùng
dằng một lúc rồi mới chịu rời nhau ra, mỗi người đi về một ngả.
2
Sau khi chen
chúc đến ngột thở Hằng cũng mua được chiếc vé tầu đi Thanh Hoá. Tiếp theo là
một cuộc vạ vật trên những bao ngô của một toa tầu có hai ghế chạy dọc thành
toa. Loại toa chuyên dùng cho những con buôn hàng cồng kềnh vào Nam ra Bắc.
Hằng xuống ga khi trời vừa sáng được một lúc, anh đi dọc con đường nhựa đã bong
gần hết để vào trụ sở của nhà máy điện. Ngày anh đi bộ đội nhà máy còn đóng nhờ
nhà dân nơi sơ tán, đến bây giờ thì nhà máy đã có cơ sở mới thật khang trang.
Các phòng ban làm việc ở trong những gian nhà ngói khá rộng và sạch sẽ, so với
thời chiến tranh thì bây giờ đã tốt lắm rồi.
Người tiếp
anh là ông trưởng phòng tổ chức mới mà anh không biết tên. Ông cán bộ này khá
niềm nở và nhiệt tình, ông nói:
- Anh chờ một
chút phòng sẽ viết quyết định tiếp nhận. Về công việc thì nhà máy có thể giải
quyết theo hai hướng, một là có thể về chính đơn vị cũ hai là bố trí về đơn vị
mới theo nguyện vọng.
Ông dừng lại
như có ý chờ xem anh có ý kiến gì không, thấy anh không tỏ vẻ khó chịu và xem
ra còn có phần ưa chấp hành hơn là đòi hỏi, ông liền cất tiếng tiếp tục:
- Nếu anh
thấy sức khoẻ không tốt thì có thể về làm nhân viên ngay ở phòng tổ chức, phòng
hiện vẫn đang cần bổ sung thêm vài người nữa.
- Báo cáo
đồng chí trưởng phòng, tôi vốn quen với công việc trực tiếp, có lẽ cứ cho tôi
về đơn vị cũ.
- Thôi thế
cũng được, anh cứ cầm giấy giới thiệu này về gặp ông Đính quản đốc phân xưởng
cơ điện ở khu Lán ổi cũ rồi chúng tôi sẽ gửi quyết định sau.
Hằng lại về tổ
sửa chữa máy của phân xưởng cơ điện, nơi ngày xưa Hằng đã làm việc tại đó, và
cũng từ nơi đó Hằng đã ra đi suốt sáu năm qua. Những người của tổ máy cả cũ, cả
mới, rồi thì cả phân xưởng đều đến thăm hỏi và chúc mừng Hằng. Những câu chuyện
chiến trường của Hằng thu hút mọi người suốt từ tối đến đêm khuya. Những bác
thợ già tóc bạc, những người bạn cùng trang lứa với Hằng, cả những bà chị trong
khu công nhân còn đem cả lũ trẻ đến chơi. Những thay đổi từ ngày Hằng đi vắng
được dịp nói ra để cho Hằng và tất cả mọi người cùng nghe. Cuối cùng thì cũng
có người đặt ra một câu hỏi về chuyện vợ con của Hằng. Câu hỏi tuy rất thông
thường nhưng lại hoá ra quan trọng, quan trọng đến nỗi có người suýt xoa rằng:
- Đấy, bao
nhiêu là chuyện mà vẫn quên cái đoạn này đấy nhớ!
- Thì cũng
phải dần dần chứ, một lúc nói sao cho hết được.
Hằng còn chưa
kịp trả lời câu hỏi đã có người đã tiếp ngay:
- Chắc là có
rồi chứ? Ba mươi rồi còn gì!
- Dạ... cũng
do cứ ở chiến trường suốt nên vẫn chưa có gì cả ạ.
- Thế thì
phải nhanh lên chứ không lại cha già con cọc như tớ thì chán chết.
- Số cùng lứa
với cậu có đứa đã hai con rồi đấy.
Những đợt
thăm hỏi và những câu chuyện rồi cũng thưa dần. Hằng đã trở về với hình ảnh cũ,
còn mọi người rồi cũng bận với công việc chung, công việc riêng nên không còn
quan tâm mãi đến Hằng được. Xung quanh Hằng bây giờ chỉ còn những người bạn
cùng khoá và những người cùng làm trong một tổ sản xuất. Có chăng thêm vài
người cũng quan tâm đến Hằng là mấy cô, mấy chị ở tổ sửa chữa điện; những người
hàng ngày vẫn làm cùng một chỗ với tổ của Hằng.
Điều làm cho
họ gần gũi với Hằng vì một lý do rất dễ hiểu đó là tình thương luôn đầy đặn của
người phụ nữ nói chung với những người có hoàn cảnh éo le và không may mắn cũng
như những người luôn bị thiệt thòi, kém cạnh do đồng loại gây ra. Đối với những
người bị thiệt thòi, kém cạnh do phải hy sinh quyền lợi của mình cho dân cho
nước thì lại càng làm họ yêu quý và cảm thông dẫn đến thương yêu nhiều hơn nữa.
Cũng chính vì điều đó nên ở đâu và bất cứ chỗ nào họ cũng cố tìm ra trong bè
bạn, trong đồng đội xem có ai đó có con gái, em gái để mà giới thiệu cho Hằng.
Họ mong sự giúp đỡ của họ phần nào đó để Hằng cũng có hạnh phúc như họ. Thế còn
những người đồng giới với Hằng họ có ý nghĩ đó không? Cũng có đấy, thậm chí
những điều họ muốn tạo ra cho Hằng những gì là hạnh phúc còn cao hơn, nhiều hơn
những người phụ nữ.
Người ta gắn
bó với nhau, thân quý nhau và nhớ mãi về nhau cũng bởi cái tình đồng cảm và cao
hơn là sự lo lắng cho nhau, quan tâm đến nhau mà chẳng ai phải yều cầu, chẳng
ai phải ra lệnh. Đó chính là cái người nhất của con người vậy! Hằng cảm thấy
mình thật hạnh phúc, thật biết ơn mỗi khi nghĩ về điều ấy. Có lẽ đấy là chất
xúc tác nuôi lớn thêm lòng yêu người, lòng vị tha của Hằng trong những năm sau
này.
Cũng từ những
quan tâm của mọi người mà lắm phen Hằng rối hết cả lên và rồi chẳng còn biết
thế nào mà hưởng ứng nữa. Hôm thì phải tiếp cô Mão cháu bà Nhung làm ở Đường
sắt, lúc lại phải tiếp cô Lạn trưởng cửa hàng thực phẩm. Lắm người còn rỉ tai
bảo Hằng đến tán tỉnh mấy cô bé con của mấy anh chị cùng trong phân xưởng mới
độ mười bẩy, mười tám tuổi vẫn gọi Hằng bằng chú mới chết chứ. Họ dẫn ra khối
cặp vợ chồng lệch nhau đến hai mươi tuổi để bảo rằng việc đó là không sai.
Những lúc như thế Hằng chỉ còn biết cười tủm, gật đầu lấy lệ rồi chào mà đi chứ
còn biết làm sao được.
Công việc sửa
chữa ngày một nhiều thêm làm cho cả tổ bận tối tăm cả mặt mũi. Công việc cuốn
Hằng đi như những ngày nào làm cho Hằng tạm quên đi nhiều điều còn đang mắc mớ
trong lòng. Tuy vậy Hằng cũng đã tranh thủ về qua Minh Đức để xem Nghi bây giờ
thế nào. Mọi cái hình như đã khác trước nhiều, mà cũng phải thôi, đã hơn sáu
năm rồi còn gì. Bãi cát, và hàng phi lao chắn sóng vẫn còn đó nhưng nhà thì
không thấy đâu. Thực ra Hằng cũng không muốn sẽ gặp Nghi trực tiếp bởi Hằng sợ
làm gia đình Nghi khó nghĩ khi Hằng ở mặt trận về, còn Nghi thì đã không chờ
nữa hoặc giả người chồng của Nghi sẽ nghĩ thế nào về vợ mình khi tự nhiên lại
gặp một người đã từng gần gũi với vợ của mình và rồi mọi tưởng tượng, mọi ngờ
vực sẽ làm rạn nứt hạnh phúc của họ. Hằng đi loanh quanh một lượt, chợt gặp một
quán nước ven đường, Hằng quyết định vào đó uống nước để rồi tìm cách hỏi thăm
về Nghi.
Sau khi đã
uống được một nửa cốc nước chè xanh, Hằng đặt cốc xuống giả như vô tình hỏi bà
chủ quán:
- Ngày xưa,
hình như cháu thấy nhiều gia đình sống ở gần bể lắm thế mà nay sao lại không
thấy bác nhỉ?
- Họ ngại gió
bão với lại hợp tác đã cho họ chuyển đi chỗ khác rồi anh ạ.
- Họ ở có xa
đây không bác?
- Cũng không
xa lắm đâu, anh quen nhà ai tôi chỉ cho.
- Cũng không
quen lắm bác ạ, chỉ có lần đi tham quan cháu nghỉ nhờ nhà một ông cụ chuyên
chữa thuốc Nam mà có cô con gái tên là Nghi ấy ạ.
- Thế thì nhà
ấy đã chuyển lên kia kìa.
Hằng đứng lên
ngó theo tay bà cụ gật đầu ra vẻ đã nhận ra rồi hỏi tiếp:
- Chả biết cô
con gái ông cụ có còn công tác hay đã về rồi bác nhỉ?
- Nó lấy chồng ở đâu xa lắm cách đây
đã mấy năm rồi còn gì.
- Có chắc
không bác?
- Sao không?
Chỉ có điều là nhà chồng nó thì tôi không biết.
- Thế còn cô
em cô ấy bác có biết không?
- Tôi lạ gì
nó, cũng có gia đình rồi.
Hằng còn hỏi
bà cụ thêm một vài câu hỏi về địa danh các vùng lân cận để cho câu chuyện tự
nhiên hơn rồi đứng dậy trả tiền nước.
Về đến nhà
thì trời đã muộn, anh lấy cơm tập đoàn về nhà rồi ngồi ăn ngay trước cửa. Mấy
anh chị ở khu gia đình đi qua vừa cười, vừa trêu làm cho Hằng quên đi bao buồn
bã trong lòng. Trở lại Minh Đức lần này thực ra chỉ để xác nhận lại những điều
anh Yên là người ở Ngư Lộc đã cho biết từ mấy hôm trước mà thôi. Dù sao thì mọi
việc đã đúng như dự định của Hằng khi anh chia tay Nghi đi chiến trường ở ga
Thị Long năm ấy.
Hằng đi xem
phim ở bãi Hàm Rồng về đã hơn mười giờ mà Đoài vẫn chưa về nhà. Hằng vừa dọn
giường vừa lẩm bẩm: Không biết cậu này họp hành gì mà muộn thế không biết? Cũng
chưa kịp buông màn đi ngủ thì nghe gõ cửa, Hằng đoán là Đoài về liền cất tiếng:
- Cửa khép hờ
đấy, cứ đẩy mà vào.
- Đã ngủ rồi
cơ à, sao sớm thế? Dậy mà nhận thư đây này.
Hằng bật dậy
đón lá thư từ tay Đoài ném cho, chỉ mới nhìn dáng chữ ngoài bì Hằng đã nhận ra
đó là thư của Phương, anh vội xé bì thư mở ra đọc.
- Thư của cô
nào mà chữ đẹp thế không biết?
- A... à thư
của cô em đấy mà.
Hằng mong bức
thư này lắm, vì có thể trong đó sẽ có tin về sự thay đổi của gia đình và họ
hàng nhà Phương, hoặc không thì cũng có ý kiến của Phương về việc có đi vào
Thanh Hoá hay không.
Những hàng
chữ xiên xiên màu xanh đều đặn lướt nhanh dưới mắt của Hằng, anh sốt ruột đón
nhận các tin tức nên chẳng để ý đến những mở đầu tình tứ mà lướt qua một lượt
từ đầu đến cuối, sau đó anh mới đọc lại từ đầu. Anh cũng không biết vui hay
buồn khi Phương thông báo về “sự cố” hôm trước đã không có gì xảy ra. Tất cả
những điều Phương muốn nói với Hằng là xin hãy chờ đợi cô ấy... Điều anh mong
đợi là nếu không có sự cải thiện về không khí căng thẳng của gia đình Phương
thì “sự cố” đó là sự đã rồi để mọi người sẽ phải chấp nhận và cô ấy sẽ vì nó mà
mạnh dạn hơn, có thế mọi việc mới có thể tiến triển được. Nhưng việc đó đã
không xảy ra.
Anh không lạ
gì tính cách của tất cả mọi người ở cái làng quê ấy, đó là sự an phận làm ăn
tại nơi chôn nhau, cắt rốn mà chẳng muốn đi đâu. Cho dù tại cái nơi quê ấy thật
sự vẫn còn rất nghèo túng và khá lạc hậu về văn hoá. Mỗi người, mỗi nhà chỉ
mong sao nhà mình có cót thóc đầy hơn nhà khác mà chẳng bao giờ nghĩ rằng mình
còn thua xa những người ở các làng trong một xã. Những người con gái như Phương
dễ gì dám bỏ làng để đi, bởi có bao cô gái làng lấy chồng ở nơi khác nào đã
thấy ai khá giả được đâu. Khi ra đi đã vậy còn lúc cha mẹ, anh chị em có công
kia việc nọ, lúc phải quay về.
Cái sợ bóng,
sợ gió qua những lời đàm tiếu, chê bai của người làng trong bao câu chuyện hàng
ngày. Huống chi thân gái dặm trường, biết đâu số phận thế nào... Những điều
Hằng nghĩ và dự đoán thường ít khi sai lắm và chính vì thế mà anh thật là buồn.
Hằng lặng lẽ buông màn rồi tắt đèn đi ngủ, ở giường trong chắc Đoài cũng đã ngủ,
tiếng ngáy nhè nhẹ của Đoài đã đều đặn cất lên.
Đêm đã trôi
qua gần hết mà Hằng vẫn không sao ngủ được bởi bao điều vương vấn trong lòng.
Anh thầm nghĩ và tự phàn nàn về những trở ngại mà anh đã trải qua. Có bao điều
khi mở đầu thật là sáng lạn ấy vậy mà về sau thì lại cứ chuội ra khỏi cái quỹ
đạo đẹp đẽ ấy, tất cả giống như những thước phim lần lượt hiện về.
***
***
Sáng nay chủ
nhật, Hằng lấy xe đạp của Đoài xuống thư viện thị xã mượn vài cuốn sách để về
nhà đọc. Cô gái coi thư viện khá quen với Hằng ghé mắt nhìn anh lật giở các tấm
thẻ ghi tên sách rồi khẽ khàng nói:
- Loại sách
mà anh hay mượn hầu như chả còn bộ nào nguyên vẹn đâu.
Hằng cũng
chẳng thèm ngước lên mà trả lời như một cái máy:
- Cô giới
thiệu cho một vài cuốn có nội dung khác xem nào.
- Anh thử xem
một số truyện ngắn của ta xem sao, số tác phẩm mới này có nhiều chủ đề phong
phú lắm anh ạ.
- Tôi lại ưa
đọc các tiểu thuyết dài hơi hơn...! Cô có biết “Sông Tha Mi trong xanh” này có
nội dung gì không?
- Hình như đó
là truyện viết về các lãnh tụ của Mông Cổ thì phải anh ạ.
- Thế thì cô
cho tôi mượn cuốn này vậy.
Hằng mang thẻ
và giấy kê tài liệu cho cô thủ thư rồi cầm lấy cuốn sách dầy cộp lên ngắm
nghía. Anh chào cô thủ thư rồi bước ra khỏi thư viện sau khi đã ký nhận vào thẻ
mượn.
Đang lang
thang dọc đường khu phát hành sách để về nhà Hằng chợt thấy hai cô gái không
quen vừa vẫy, vừa gọi rối rít về hướng đi của mình. Anh quay đi quay lại thấy
chẳng có ai ngoài mình ra, thế là anh dừng xe tiến về phía hai cô gái.
- Anh
ơi...nhờ anh xem giúp cho em cái khoá xe một chút ạ.
- Thế nó bị
làm sao?
- Dạ... em mở
mãi không được ạ.
- Thế có nhầm
chìa khoá không?
- Chúng em
chỉ có mỗi một cái này thôi ạ.
Hằng cúi
xuống cầm chiếc chìa khóa vặn đi vặn lại mãi mà cái khoá vẫn cứ im như thóc.
Hết lôi ra lại cắm vào đến toát mồ hôi mà cũng chẳng ăn thua gì. Chán nản, anh
đã định khuyên các cô khênh xe đến chỗ ông thợ khoá nhưng rồi lại cúi xuống cố
thêm một lần nữa. Lần này anh hơi ấn cái chìa xuống một chút rồi mới vặn. Vừa
mới hơi xoắn một chút đã nghe thấy cách một cái thế là cái càng khoá đã được mở
ra. Đến lúc này Hằng mới nhận ra rằng loại khoá này dùng lâu và dùng nhiều lượt
nên đã bị mòn các răng cưa, chỉ ấn xuống một chút là mở được. Anh thử đi thử
lại sau đó hướng dẫn hai cô gái tập mở một vài lượt rồi mới dừng tay.
Vừa loay hoay
tìm cách lau mấy ngón tay bẩn anh vừa hỏi:
- Các cô công
tác ở đơn vị nào thế?
- Chúng em ở
Công ty xây lắp điện anh ạ.
- Công ty
đóng ở đâu mà sao tôi chẳng thấy có tiếng tăm gì nhỉ?
- Công ty
đóng ở Hàm Rồng anh ạ.
- Chả lẽ nó ở
mấy cái nhà trên đồi hướng ra sông Mã ấy à?
- Dạ đúng đấy
ạ.
- Thế các cô
về thăm nhà lên à?
- Chúng em đi
họp ở ngoài đó về đấy chứ.
- Thế sao các
cô lại đi ngược lại?
- Chả là khu
công nhân của chúng em lại đóng ở Mật Sơn anh ạ... Lúc nào rỗi mời anh vào
chơi.
- Nhưng biết
các cô có tiếp không.
- Có chứ! Thế
nào anh cũng đến nhé.
- Nhưng mà
biết hỏi ai mới được chứ.
Nghe đến đây
thì bỗng nhiên hai cô gái chợt hơi lặng đi một chút rồi thì thầm nói với nhau
điều gì không rõ. Đến lúc Hằng đã lên xe mới thấy hai cô vừa cười vừa nói:
- Anh cứ hỏi
thăm tên là Thái ở tổ lắp điện là đến anh ạ.
- Được rồi,
nếu có dịp thuận tiện tôi sẽ vào chơi.
Hằng vừa đạp
xe vừa nghĩ luẩn quẩn về hai cô gái hỏng xe vừa thấy buồn cười vì chỉ một tý
nữa thôi là mình bắt các cô ấy khênh xe đến hiệu khoá. Mà hình như Công ty này
là nơi vợ cậu Đạc công tác thì phải, thật toàn những chuyện gặp gỡ ngẫu nhiên
không thể tưởng tượng được. Hai cô gái này cũng khá đấy chứ, để rồi hỏi thăm
cậu Đạc xem thế nào...
Mấy hôm trước
Hằng đã nói chuyện cho Đạc nghe cuộc gặp gỡ với hai cô gái và nhờ cậu ta thăm
dò xem cô Thái này thế nào. Cũng chẳng biết vợ chồng cậu Đạc thế nào, không
những chẳng tìm hiểu được gì mà còn nói hết tất cả cho cô ấy biết, thế là cô ấy
hẹn gặp cho bằng được. Duy chỉ có một điều hơi lạ là Đạc đã kể khá tỷ mỉ về
tình tiết gặp mặt hôm ấy nhưng Thái vẫn chẳng nhớ Hằng là ai. Cũng không còn
cách nào hơn là phải ra mặt để tỏ rõ mọi việc vậy thôi. Thật không may cho Hằng
là suốt mấy ngày nay lại phải làm cả ngày lẫn đêm để xử lý sự cố của nhà máy
nên đành phải viết thư cho Thái hẹn gặp
vào dịp khác.
Gần một tháng
trôi qua trong bận rộn, hôm nay mọi việc nhà máy mới xong. Chiều qua Hằng đã
dặn Đạc hẹn với Thái là sẽ đến thăm vợ chồng Đạc, sau đó sẽ sang thăm Thái.
Cũng không hiểu thế nào mà hôm vừa rồi nhận được thư thấy cô ấy nói vẫn chưa
nhớ được cuộc gặp gỡ ấy ở đâu. Hằng cứ phân vân không hiểu tại sao, chả lẽ sự
việc xảy ra chưa đến một tháng rưỡi mà cô ấy đã quên ngay được hay sao. Dù sao
thì cũng cứ gặp cái đã rồi tính sau.
Sáng nay chủ
nhật, Hằng đi cùng với hai người bạn vào thăm nhà Đạc ngay từ sáng sớm. Hai vợ
chồng Đạc ra tận cổng khu tập thể để đón ba người vào nhà. Chỉ mới vừa vào đến
cửa nhà Đạc, Hằng đã thấy hình như có rất nhiều cặp mắt ở các chỗ kín đang nhìn
ngắm mấy ông khách trẻ. Biết vậy nhưng Hằng vẫn cứ tự nhiên bước vào nhà Đạc
giả như không có chuyện gì xảy ra.
Cũng chỉ sau
mươi phút hàn huyên với vợ chồng Đạc đã thấy mấy cô khách cùng trong khu tập
thể bước vào. Hằng lướt qua một lượt nhưng chẳng thấy cô nào quen cả, có lẽ
Thái bận gì đó nên chưa đến. Hằng còn đang suy nghĩ lung tung thì thấy vợ Đạc
hỏi:
- Thế nào,
Thái đã nhận ra người quen chưa?
Vừa nghe đến
đây Hằng chợt giật mình nghĩ ngay đến việc hai cô bé hôm nọ chắc đã lừa trêu
mình. Anh vừa buồn cười vừa giận hai cô bé vì đã chẳng cảm ơn người ta sửa xe
cho lại còn gây chuyện rắc rối cho người ta nữa, bây giờ biết tính sao đây. Vừa
lúc ấy một cô gái có khuôn mặt trái soan trắng trẻo và rất ưa nhìn chợt lên
tiếng:
- Mình nhận
ra rồi.
- Ai nào?
- Anh ấy mặc
áo kẻ.
Sao thế nhỉ?
Chả lẽ mình lại quên hay sao! Cô Thái mình quen sao có thể là cô này được. Dù
sao thì cô ấy cũng có tên là Thái và cô ấy cũng đã giúp mình qua sự rắc rối nếu
như cô ấy nói không biết mình là ai.
Cũng trong
lúc nghe hai người hỏi và trả lời nhau Hằng đã nhìn kỹ Thái hơn. Hằng dễ nhận
ra một đặc điểm khác của Thái là cô ấy có sự tăng hoóc môn nam tính nên trên
ria mép có dấu đen mờ của lớp lông tơ dày hơn người bình thường, và đôi lông
mày thì thật là đen đậm ôm kín đôi con mắt lá răm tình tứ. Tất cả những nét
trên khắc hoạ lên một khuôn mặt xinh đẹp ít gặp trong cuộc sống. Nhưng cũng từ
đó đã giúp Hằng khảng định cô gái ấy không phải là Thái mà Hằng đã gặp. Tuy sự
việc đột ngột là thế nhưng Hằng cũng khá nhạy cảm khắc phục hoàn cảnh rắc rối
này bằng cách đứng lên đi về phía Thái, tựa như anh cũng đã xác nhận sự quen biết giữa hai người. Chỉ
cần mấy bước chân Hằng đã đứng trước mặt Thái, anh chìa tay ra để nắm lấy tay
của Thái kéo cô đứng lên. Lúc đầu Thái luống cuống định rụt tay ra, nhưng anh
nắm khá chặt nên cô không tài nào rụt tay ra được. Hằng dùng sức kéo mạnh để
đưa Thái ra phía ngoài sân, cũng lúc đó hình như Thái đã nhận ra ý tứ của Hằng
nên cô không còn cưỡng lại nữa và đó chính là nguyên nhân làm cho Thái bị nhào
theo ôm lấy người của Hằng. Mọi người được thể cười rộ cả lên làm cho cả hai
người cùng ngượng nghịu đỏ mặt đứng trơ ra giữa cửa nhà Đạc. Cũng ngay lúc ấy
ai đó chợt lên tiếng:
- Bạn bè cả,
không việc gì mà ngại, ngày xưa chúng tớ cũng thế cả thôi.
Vừa lúc đó vợ
Đạc cũng chen vào:
- Thôi hôm
nay hai người là nhân vật chính nên cho được đi chơi, miễn phải vào bếp.
Được lời như
cởi tấm lòng thế là Hằng và Thái tay trong tay đưa nhau ra ngoài ngõ để tâm sự.
Vừa đi khuất mọi người Hằng đã vội buông tay Thái để tránh sự hiểu nhầm là Hằng
cố ý lợi dụng, còn với Thái thì buông hay không cũng chả cần nữa vì cô đã thả
lỏng tất cả ngay từ lúc còn ở trong nhà. Để tránh cho sự ngượng ngập vừa qua
Hằng buộc lòng phải lên tiếng trước:
- Tôi xin lỗi
Thái...có lẽ cô Thái mà tôi biết là người khác trong công ty.
- Cả công ty
này chỉ có mình em là Thái...làm gì có ai khác nữa?
- Chả lẽ còn
một công ty xây lắp điện nào nữa...?
- Anh hãy tả
cô Thái của anh cho em xem nào.
Hằng lại kể
cho Thái nghe toàn bộ câu chuyện cách đây gần một tháng rưỡi, rồi mô tả thật kỹ
hình dạng hai cô gái Hằng gặp hôm đó cho Thái nghe. Anh vừa dứt lời thì cũng
nghe Thái bật ra câu nói hết sức tự tin:
- Thế thì em
biết rồi anh ạ! Nó không phải là Thái mà nó là...
Nói đến đây
thì Thái đột nhiên dừng lại, sau một lúc cân nhắc Thái nói tiếp:
- Hẳn nào mấy
hôm ấy mỗi khi nhìn thấy em từ xa chúng nó gọi rối rít rồi cứ tủm tỉm cười, làm
em rõ tức... em phải đấm cho bọn này một trận mới được.
- Chớ đấm họ
đấy nhé, dẫu sao các cô ấy cũng giúp cho mình quen biết với nhau.
- Đó là em
nói thế thôi chứ có khi còn phải bảo chúng im mồm đi chứ không thì các anh, các
chị ấy cười chết mất.
- Tôi cũng
không ngờ sự việc lại xảy ra như thế, Thái thông cảm cho tôi và chấp nhận sự
làm quen này của tôi nhé.
Thái không
nói gì mà chỉ hơi gật đầu tỏ vẻ đồng ý và cúi xuống ngượng ngập thật sự. Vừa
lúc đó vợ Đạc đã ra gọi hai người về ăn cơm. Hằng nắm tay Thái, nhẹ tay kéo cô
theo sau để quay vào nhà. Bữa cơm thật giản dị nhưng cũng thật vui vẻ, tất
nhiên là Hằng và Thái là mục tiêu cho tất cả mọi người trêu đùa và yêu quý. Dù
chỉ mới quen thôi nhưng khi chia tay cả hai cũng bịn rịn khó nói thành lời.
Những câu nói vun vào của mọi người tựa như lời cầu thân của chàng trai và cũng
như lời tán thành của cô gái vì cả hai người chỉ có cười trừ mà chẳng hề có một
lời phản đối nào. Lẽ dĩ nhiên là những người bạn họ đều đã tự ngắm hai người và
họ nhận ra được cái ý tứ ấy. Nhiều người cũng đã nói đến cái sự thăm nhà, hỏi
cưới và bao thứ khác nữa bởi họ yêu quý cả hai người, họ muốn hai người cũng có
hạnh phúc, họ coi đó như là sự mong muốn chia xẻ của những người đã có ít nhiều
hạnh phúc cho người chưa có một tý gì. Từ những việc làm như thế cho ta thấy
xung quanh ta mọi con người đều thật tốt đẹp, thật nhân hậu. Nếu giữ mãi được
như vậy thì cuộc đời này hạnh phúc biết bao và tươi đẹp biết bao!
Sau lần gặp
ấy họ còn hẹn gặp riêng nhau mấy lần nữa, rồi thì thư đi, thư lại, dẫu chỉ là
nhờ đưa qua tay giữa vợ chồng Đạc. Họ yêu nhau nhanh chóng quá và nói với nhau
những từ yêu thương thật là đẹp trong khi gặp gỡ và cả trong thư. Không biết có
phải cái gì đến quá nhanh thì đi cũng quá nhanh hay chăng mà cuộc tình của họ
đã tan trong chỉ có mấy tháng trời. Cái sự tan vỡ bất ngờ mà mau mắn đến nỗi
Hằng chẳng biết nguyên cớ từ đâu. Nếu như gần một năm sau Hằng không gặp một
chàng Chí “Sở Khanh” do vui câu chuyện làm lộ ra.
Trong một lần
gặp gỡ Thái vào một đêm trời tối ở bên bờ đê cầu Hạc, Thái đã nói với Hằng toàn
bộ hoàn cảnh của mình từ gia đình, bè bạn và cả những người Thái đã yêu trước
đó. Có một chi tiết mà Thái thật sự mạnh dạn nói ra đó là việc Thái đã có lần
rơi vào cặm bẫy của một tên lừa đảo nào đó nên cô đã không còn sự trong trắng
của người con gái nữa. Ngay sau khi nghe cô ấy nói Hằng lặng người đi và cảm
thấy thật là buồn. Anh phân vân thật sự khi nghĩ rằng người mình yêu đã là một
thứ thừa ế của người khác, như thế thì làm sao có thể chấp nhận được. Một sự
chán nản đến cực độ đã trào ra làm cho anh không còn tỉnh táo được nữa. Bên
cạnh anh, Thái cũng im lặng, không biết cô ấy đang nghĩ gì. Có lẽ cô ấy tự giận
mình vì sự thật thà đến ngây ngô của cô ấy, hay là cô ấy đang tự trấn an mình
về những gì tốt đẹp mà cô đã xác định mình phải chấp nhận kể từ sau sự mất mát
quá lớn của đời con gái trong cô. Có lẽ sự im lặng đã giúp họ tự ổn định lại
tình cảm và lý trí của mình. Chính trong khoảng rất lâu đó Hằng đã tìm ra cái
lý do rất hợp lý để tự bào chữa cho việc mình có thể chấp nhận được người con
gái đã không còn nguyên vẹn này nữa. Một điều mà Hằng nhận thấy đó là khuôn mặt
đẹp, hình dáng đẹp của cô đã làm anh say mê. Rồi thì sự khéo léo của cô trong
bếp núc, trong thêu thùa, may vá và trong giao tiếp hàng ngày. Còn cái sự thẳng
thắn của cô ấy có phải cũng là một cái đẹp đó chăng? Trên đời này dễ có mấy ai
dám nói ra cái sự thực bất hạnh như vậy, thế mà cô dám. Cứ như cụ Nguyễn Du đã
viết trong Kiều: “nước vỏ lựu, máu mào gà -
mượn màu chiêu tập vẫn là còn nguyên” đấy sao. Mấy ai biết được và như
thế cô ấy có quyền giấu giếm những ai đó để rồi vẫn còn nguyên chứ sao! Cuối
cùng thì Hằng lại nghĩ thế còn những người đã với Hằng thì sao, những người đến
sau Hằng họ sẽ nghĩ gì. Đành rằng cái sự của Hằng làm ra hoàn toàn mang động cơ
trong sáng và không hề có ý chối từ cái người Hằng đã cùng với họ, thế nhưng sự
đời đã chẳng chiều người và cái người đã cùng Hằng có khác gì Thái hôm nay vậy.
Với ý nghĩ này đã thực sự bào chữa cho mình để có thể chấp nhận Thái kể cả khi
có người biết cái sự này của hai người. Nghĩ thế nào Hằng nói cho Thái nghe như
thế ấy. Thái vừa nghe vừa lặng lẽ khóc, cô gục đầu vào ngực của Hằng. Có lẽ cô
buồn lắm trong suốt thời gian chờ đợi câu nói của Hằng. Thế nhưng mọi việc đâu
có suôn sẻ như những gì ta đã nghĩ, đã tự đấu tranh để có được khi có một người
nào đó cứ khoét sâu vào những điều còn chưa được đứng vững trong lòng người,
còn đang chao đảo.
3
Cái công ty xây lắp điện nào có ở xa
gì khu tập thể của Hằng, chính vì vậy mà ngoài những người sống ở khu tập thể
Mật Sơn công ty vẫn còn có một số đi theo công trình và còn có cả một số sống ở
ngay ở trụ sở công ty để tiện công tác, trong đó có Như. Như là một cô gái
khoảng hai mươi bẩy tuổi, cô vừa là một công nhân trực tiếp nhưng lại là một
cán sự đoàn của công ty xây lắp điện. Cô vẫn thường đến chơi với một vài người quen ở trong khu tập
thể của Hằng. Là một cán sự đoàn nên cô ta có điều kiện được biết rất nhiều
việc của những người tuổi trẻ trong công ty. Phần thì do phải trực tiếp xử lý
mọi việc của tổ chức này nên cô được
quyền tìm hiểu, phần vì được các cấp lãnh đạo phía trên trao đổi tin tức để có
kế hoạch uốn nắn các đoàn viên của mình. Chính vì vậy các việc của Thái thì
nhiều người không biết nhưng Như thì lại biết khá rõ.
Cũng không
biết do đâu mà Như biết được mối quan hệ giữa Hằng và Thái. Có lẽ do cô nghe
được từ những câu chuyện trong số chị em ở công ty bàn tán hàng ngày. Một phần
vì Như cũng là một cô gái khá nhiều tuổi trong công ty đang rất cần có một mối
lương duyên để xoá đi cái cảnh cô đơn buồn bã nên cô cũng hay để ý tìm hiểu đối
với những nhân vật giống như Hằng, nên cô đã biết được câu chuyện quan hệ của
hai người. Cô có tốt hay không thì không biết, nhưng có vài lần cô đến chơi với
mấy người quen sống bên cạnh, Hằng thấy cô cũng không đến nỗi nào. Nhiều lần
gặp nhưng Hằng chả muốn làm quen với Như thế mà rồi Hằng cũng vẫn phải tiếp
chuyện với Như.
Không biết
thế nào mà mỗi lần Như đến thăm người quen thì luôn gặp lúc người quen của Như
đi vắng và chẳng ai có thể ngăn cô đi thẳng vào nhà Hằng để hỏi thăm về những
người quen của cô . Lẽ dĩ nhiên là cô có thể ngồi nhờ nhà Hằng để chờ những
người quen của mình trở về. Khi đã có những câu hỏi thì sẽ phải có những câu
trả lờiK, đó là phép lịch sự tối thiểu trong xã giao và rồi cả những câu hỏi
thăm đối với người đối diện cũng được tiếp tục đặt ra. Nhiều lần gặp tất nhiên
là phải quen, đã quen thì việc đến ngồi nhờ đã không còn là lý do khó hiểu nữa.
Những câu
chuyện trong khi Như ngồi nhờ chờ đợi người quen cứ tiếp tục được kể ra. Đâu là
phải quan tâm đến sự phấn đấu của mọi người. Đâu là nếu muốn phấn đấu thì phải
tránh xa những người xấu. Trong các ví dụ về người xấu mà Như kể ra có rất
nhiều trong đó có cả những người có hoàn cảnh như Thái. Hình như cô ấy muốn nói
rằng đây là cái xấu nhất của các cô gái chưa chồng. Sự nhấn mạnh dường như cứ
dần dần lộ ra cái chủ ý của cô qua những đoạn đối thoại giữa hai người:
- Em nghe nói
anh quen rất thân với Thái ở công ty em phải không?
- Làm gì có
chuyện ấy?
- Không những
thế em còn biết hai người còn quan hệ ở mức cao hơn nữa kia.
- Không có
đâu, bạn nghe nhầm đấy thôi.
- Em hỏi thật
anh nhé?
- Cô cứ nói
đi.
- Em không
biết khi quen với Thái anh có tìm hiểu kỹ không nhưng em cũng tín hiệu cho anh
biết Thái có nhiều “phốt” lắm đấy anh ạ.
- Tôi nghĩ ở
trên đời ai mà chẳng có khuyết điểm, tuy nhiên từ chỗ quen biết và hiểu sự việc
đến giúp đỡ để họ trở thành người tốt thì càng quý chứ sao.
- Không, em
nói là có những cái không còn có thể giúp đỡ sửa chữa được nữa kia.
Hằng chợt
giật mình khi nghe Như nói như vậy, anh nghĩ chả lẽ cô ấy lại muốn nói cho mình
biết cái chuyện tình xưa cũ của Thái chăng? Vì sao Như lại muốn cho mình biết
điều ấy nhỉ? Phải chăng hai người có ác cảm với nhau nên cố ý muốn phơi bày
những cái xấu của nhau ra nhằm gây hại cho nhau? Hôm nọ Hằng có hỏi Thái về Như,
anh thấy Thái nói về Như toàn là những điều tốt cả. Cô ấy nói về công tác đoàn
thể của Như và lại còn khen Như nữa. Trong khi đó, nói như Chí “Sở Khanh” thì
Như đã quá nhiều lần với cậu ta, mặc dù Chí “Sở Khanh” đã có vợ, có mấy con sờ
sờ ra đấy. Biết vậy nên Hằng càng tỏ ra như không hiểu biết gì về sự gợi ý của
Như và cuối cùng thì Như đã nói cái chuyện không đáng nói của Thái ra cho cái
người đang muốn tìm hiểu Thái biết. Hằng lờ mờ nhận ra cái ý của Như và anh cố
ý tỏ ra đã biết để làm cho Như cụt hứng, chừa cái thói thóc mách hại bạn bè:
- Cứ tưởng là
có chuyện gì khác, chứ việc ấy… Thái đã nói cho tôi biết rồi.
- Anh nói
thật đấy chứ?
- Đúng thế
mà.
- Chả lẽ anh
cũng chấp nhận?
Hằng suy nghĩ
một lúc rồi anh quyết định nói với Như những điều mà Hằng đã nói với Thái. Thực
ra Hằng cũng muốn ngoài việc tỏ rõ quan điểm của mình về sự việc ấy và còn muốn
nói với cô ấy rằng nếu cô ấy chịu tu sửa mình thì rồi cũng sẽ gặp được những
người có thể thông cảm cho mình. Có lẽ cô ấy đã không nhận thức được, hoặc giả
có nhận thức được thì cô ấy cũng không có ý muốn tự sửa mình.
Thế rồi không
biết bằng cách nào đó Như đã làm cho Thái hiểu nhầm về quan điểm của Hằng và sự
tan vỡ bắt đầu như thế. Kết cục chẳng tốt đẹp ấy có phải là tại Như hay không?
Có lẽ phần lớn là do cô ấy, nhưng cái chính là Thái không đủ tự tin và cả do
Hằng chưa có kinh nghiệm để làm cho người khác tin vào mình với một chủ đề khá
nhậy cảm và hóc búa vào bậc nhất trong tình yêu đôi lứa.
Những bức thư
với tiêu đề khô khan thay cho những từ “thương yêu” đã nhiều lần xuất hiện trên
những trang giấy Pơluya màu hồng trước đó. Cuộc tình ngắn ngủi dễ gặp, dễ tan
dù sao cũng làm Hằng phiền muộn, bởi chưa một lần nào Hằng có ý đùa cợt trong
tình yêu với những cô gái mà anh đã gặp. Người đời có thể nghi ngờ và không tin
rằng lại có một người có sức yêu đầy đặn cho đến cả chục lần như thế, đấy là
quyền của họ, nhưng xin đừng lớn tiếng bài bác vì đó là sự thật. Có bao kẻ chỉ
biết vì mình và cũng không thiếu những người suốt đời chỉ nghĩ đến người khác
cho dù họ luôn gặp tráo trở và phản bội.
VÙNG ĐẤT CŨ
1
Mùa đông năm
1976 đang dần đến, từng cơn gió bấc đã tràn về báo hiệu mùa đông năm nay chắc
sẽ lạnh. Hằng vừa xuống thị xã để lấy chiếc áo rét anh mới đặt may hồi đầu
tháng. Mấy năm gần đây người ta thường may các loại áo rét theo kiểu Blujông
của Đức, kiểu áo này khá gọn và phù hợp với thanh niên. Chiếc áo được may bằng
loại vải nhung kẻ màu xanh da trời vừa lịch sự vừa hợp với khổ người của Hằng
nên khối cậu con trai cứ tra hỏi xem may ở đâu để cũng may một cái. Một điều
quan trọng là loại vải này lại không thu tem phiếu nên số phiếu vải được cung
cấp vẫn có cơ hội mua thêm một bộ mới. Số anh em còn đang bàn tán về kiểu cách
quần áo ở các thời kỳ khác nhau thì anh Khâu bước vào.
- Này, có gì mà ầm ĩ thế? Chuẩn bị để
thứ hai đi Thọ Xuân đấy nhé.
- Sao bảo sang tháng mới đi cơ mà anh?
- Lần này phải làm cải tiến nên đi
sớm.
Mấy cậu tổ van, tổ lò thấy ông Khâu
nói về công việc liền từ từ kéo nhau về hết thành ra vừa mới đông đúc là thế mà
thoắt cái đã trơ lại có hai anh em. Đến lúc này anh Khâu mới ngồi xuống để phàn
nàn về cái quyết định cải tiến gối trục của nhà máy:
- Tao chẳng hiểu thế nào mà mấy thằng
cha ấy lại tán thành cái việc thay lớp lót cao su bằng gỗ.
Thì ra cái bố
này vẫn bức xúc về cái chuyện lấy gỗ lim làm lớp lót thay lớp lót cao su của
các gối trục trục tua bin thuỷ điện Bàn Thạch. Cứ như anh ấy nói thì lớp gỗ này
chỉ cần chưa xoay nổi một vòng đã vỡ toang ra, làm sao mà chịu cho được. Đã
biết tính anh Khâu từ hồi sáu sáu, sáu bẩy nên Hằng mặc kệ cho anh ấy nói để
cho nguội bớt cơn đi mà không chịu tiếp lời. Nhưng chính vì thế anh ấy lại càng
bức xúc mà nói to hơn nữa, nào là dốt nát, phi kỹ thuật, rồi thì thế nọ thế kia,
nghĩa là anh không muốn làm để rồi đến khi không thành mang tiếng là ngu dốt cả
mẻ vân vân và vân vân...
Đến lúc này
thì Hằng phải lên tiếng, tuy nhiên Hằng biết anh Khâu cũng đã có tý men nên
Hằng khá dè dặt:
- Dẫu sao mấy
ông “cốp” cũng đã quyết rồi nên có nói vẫn cứ phải làm thôi anh ạ.
- Có thế thì
mới tức.
- Nhưng em
nghĩ người ta cũng đã xem xét qua kinh nghiệm ở nơi nào đó rồi người ta mới
quyết chứ anh...
- Tao thì tao
mặc kệ, lần này mày cứ căn chỉnh cho tốt để cho bọn nó không dám bảo hỏng là do
chất lượng căn chỉnh kém là được.
- Anh yên tâm
đi, lần này phải có biên bản kiểm nghiệm từng phần một rồi ký kết để không ai
bắt bẻ ta được.
- Mẹ nó, sao
rét thế không biết được.
Hằng tủm tỉm
cười:
- Cho lắm
nước vào bụng làm sao chẳng rét.
- Có mỗi hai
chén con tý tẹo, làm gì có nhiều đâu mà uống.
- Theo em thì
dùng gỗ có khi được đấy anh ạ.
- Lại mày
nữa.
- Em thấy mấy
cái ổ trục xe trâu chở đến hàng tấn thế mà chạy mãi cũng có mòn đâu.
Vừa nghe Hằng
nói dứt câu anh Khâu đã vùng vằng:
- Đã thế tao
cho mày ở ban cải tiến luôn.
Thấy anh Khâu
cắu quá Hằng chỉ cười trừ mà không nói thêm gì nữa. Giữ nguyên bộ mặt khó chịu
như thế anh Khâu quay ra mà chẳng thèm chào hỏi gì nữa, cho dù Hằng có hỏi với
theo:
- Anh về đấy
à?...
Đúng như
tuyên bố hôm nọ anh Khâu đã đưa danh sách Hằng vào ban cải tiến, mặc dù anh vẫn
bắt Hằng phải hoàn thiện phần việc của tổ giao cho như những ngày xưa. Thế là
Hằng cứ phải cắm cúi vào mà làm hết mọi việc chẳng còn thời giờ đâu mà đi hỏi
thăm mấy cô bạn học ngày xưa nữa. Thực ra thì Hằng cũng không muốn đến thăm bọn
con gái ấy vì sợ họ đã có chồng con rồi bây giờ mà đến thì vừa làm mất thì giờ
của họ, hơn nữa nhỡ gặp phải anh chồng hay ghen thì rồi gia đình của họ sẽ cơm
chẳng lành, canh chẳng ngọt, như thế thì thăm nom mà làm gì.
2
Cũng đã gần
một tháng vừa đại tu vừa chuẩn bị cho cải tiến, hôm nay Hằng mới có điều kiện
được nghỉ một buổi tối. Cũng chẳng phải mình Hằng bận tối mắt, tối mũi như thế
mà tất cả mọi người trong tổ và cả anh Khâu cũng cắm cúi mà làm cho hoàn thành
với tiến độ, để kịp cho việc xả nước về làm vụ đông xuân.
Tắm rửa xong
Hằng định đi chơi quanh mấy nhà ngày xưa Hằng ở nhờ, vừa có tính chất thăm hỏi
để tỏ ra rằng mình vẫn nhớ, vẫn giữ nguyên vẹn tình cảm ngày xưa đồng thời cũng
thông báo là mình vẫn còn sống trở về. Chỉ mới mặc xong cái quần thì lại nghe
ngoài cửa có khá nhiều tiếng con gái. Hằng vừa thò đầu ra xem có việc gì thì đã
thấy sáu bẩy cô gái đứng chắn trước mặt. Thôi thì nạ dòng có, con gái có cứ như
ong vỡ tổ tràn vào gian nhà lá mà Hằng được phân xưởng Bàn Thạch bố trí ở trong
những ngày sửa chữa. Cô thì chào anh, cô thì chào chú làm cho không gian chợt
ồn ã cả lên. Hằng còn chưa nhận ra ai với ai đã thấy ai đó sụt sịt khóc, làm
cho Hằng thật sự bối rối. Anh vừa chào hỏi mọi người vừa để tâm xem ai đang sụt
sịt ở phía cuối cái giường một của Hằng, Cũng phải một lúc Hằng mới nhận ra đấy
là Hương, con gái nhà chủ mà Hằng đã trọ cách đây hơn sáu năm trời. Anh vừa tìm
mấy cái chén, vừa lấy cái ấm đựng nước gạo rang lấy từ nhà bếp về để mời mọi
người uống nước. Sau khi đã đưa chén nước cho một vài người rồi Hằng mới đi đến
bên Hương, anh đặt tay vào hai vai của Hương đang rung lên theo nhịp khóc rấm
rứt vừa cười vừa nói:
- Thế là được
rồi hà hà...! Cô bé Hương dũng cảm, hay trêu mọi người ngày xưa sao hồi này lại
mau nước mắt thế không biết được?
Vừa nói trêu
Hương, Hằng vừa định xoay hai vai Hương để cô đối diện với anh, nhưng anh chợt
nhận ra cô Hương bây giờ đã không còn là thiếu nhi nữa, thế là anh vội buông
tay ra khỏi vai cô gái. Cũng vừa lúc đó Hằng nhận ra Văn, người mà có lần Hương
đã làm mối cho anh. Văn vừa ngồi ở chỗ xa nhất lại quàng một chiếc khăn len
mỏng chùm kín một nửa mặt nên anh không nhận ra ngay từ đầu.
- Văn phải
không?
Văn nhỏ nhẹ:
- Vâng ạ! Anh
có khoẻ không?
- Anh mắc mấy
trận sốt rét nên cũng không được khoẻ lắm.
Dừng lại một
chút Hằng lại nói tiếp:
- Công việc
bận quá mãi hôm nay mới được nghỉ, đang định vào trong đó xem sao thì các em ra
đây.
Mới vừa nói
đến đó thì nghe có ai vừa cất lời với vẻ trách móc:
- Anh là anh
tệ lắm đấy nhé!
Thì ra người
nói câu ấy là Hương, cô đã thôi không khóc nữa ngay sau khi anh nói chuyện với
Văn.
- Tệ làm sao
nào?
- Thì lúc anh
đi bộ đội anh có nói cho ai biết đâu.
- À...À...
hồi đó gấp rút quá...cả đến gia đình anh cũng chẳng kịp báo nữa là.
- Thì viết
thư về không được à.
- Kể ra thì
thế, nhưng mà các anh có ở chỗ nào yên đâu.
- Chúng em
nghe tin anh ở vùng Như Xuân, thế là hai chị em vừa đi vừa hỏi thăm suốt mấy
ngày mà không gặp.
Nghe đến đây
thì Hằng thấy chột dạ thực sự, anh nghĩ: “Thế mà các cô ấy lại tìm được chỗ
mình ở và rồi lại gặp Nghi ở đó thì nguy to”. Thực ra thì câu chuyện của Hằng
nói với Hương hồi đó và cả việc đến chơi nhà Văn cũng chỉ là làm sao để sự quan
tâm của cô bé ấy không bị dội nước lã vào mà thôi, chứ thực tình anh đâu có
biết chỉ dăm ba lần qua chơi mà các cô ấy tưởng anh đã có tình ý thực với họ.
Dù sao thì đến lúc này anh cũng chẳng muốn thanh minh làm gì, vì như thế tình
anh với họ chả hoá ra bạc bẽo quá sao. Nghĩ vậy anh đành cười trừ cho xong rồi
động viên mọi người bằng việc kể các câu chuyện trong thời gian bộ đội cho mọi
người cùng nghe. Anh cũng hỏi han tình hình của các cô gái cùng đi với Văn và
Hương theo xã giao. Tuy nhiên qua câu chuyện anh biết cả Văn và cô Hương bé tý
ngày nào giờ cũng đã có gia đình cả rồi. Văn thì lấy cậu Vinh râu ở bên đường
dây chuyển tải, người mà có lần Hằng đã gặp khi vào chơi nhà Văn từ mấy năm
trước. Thực ra thì Văn chưa bao giờ yêu Vinh râu vì Vinh râu trông chả có tý
hình thức nào, trong khi Hằng thì lại có đủ mọi điều. Tuy nhiên cái chính vẫn
là sự kiên trì của cậu ta cùng với sự vắng bặt tăm hơi thậm chí có thể tắt hẳn
tăm hơi của người tình trong mộng đã khiến cô gái xiêu lòng. Bây giờ thì Văn
cũng đã có một cô bé con khá lớn, có nghĩa là Văn đã lấy Vinh ngay sau khi cùng
với Hương đi tìm Hằng mà không gặp. Còn với Hương thì câu chuyện lại còn dài
dòng và rắc rối hơn nhiều, đó là câu chuyện tâm sự của Hương khi cô còn một
mình ở lại.
Từ lúc năm,
sáu các cô gái cùng chui vào căn nhà Hằng đã thấy không hiểu vì sao mà Hương và
Văn lại đưa các cô gái mà Hằng không quen đến nhiều làm vậy, mãi khi chia tay
Hằng mới nghe Văn nói:
- Mấy đứa vừa
rồi đều là các em và các cháu của em cả đấy anh ạ. Em biết là em đã không chờ
anh được nên em định sẽ không đến gặp anh, nhưng sau khi em nói chuyện với mấy
đứa, thì chúng nó bảo:
- Ngày xưa
chị mê anh ấy như thế thì chắc anh ấy phải đẹp trai và ga lăng lắm. Nếu mà thế
chưa chừng rồi chúng em cũng mê ấy chứ. Cứ để chúng em đến chơi, nhỡ ra phải
duyên, phải số thì cũng là sự đền bù của chị với anh ấy chứ sao.
Nghe Văn nói
đến đây thì Hằng buồn cười thực sự, anh vừa nhịn cười vừa bắt chước câu nói khá
quen thuộc của người Thanh Hoá vào những năm về trước:
- Tức là bắn
súng không nên thì đền đạn chứ gì?
Nói xong cả
hai người cùng cười vui vẻ rồi chào nhau chia tay ngay trước hiên nhà.
3
Chờ cho mấy
chị em, cô cháu của Văn đi khuất Hằng mới bước chân vào nhà, đang định sắp xếp
lại bộ ấm chén bày bừa ra lúc nãy thì thấy Hương vẫn còn ở đó. Cô úp hết số
chén cuối cùng xuống cái khay men xong thì vừa lúc Hằng quay trở lại. Cô cứ
đứng trân trân như thế để nhìn anh không chớp mắt, bất chợt cô lao đến ôm chặt
lấy anh và lại rấm rứt khóc, cô nói trong nước mắt:
- Thư thì
không viết...về thì lại muộn...!
Hằng chỉ kịp
nghe loáng thoáng câu nói đứt đoạn của
Hương rồi vội vàng gỡ tay Hương ra, còn Hương thì quyết không chịu buông.
- Em buông
anh ra, kẻo có ai nhìn thấy thì rồi sẽ rắc rối cho em đấy.
Vẫn cái giọng
hờn trách và bất cần như xưa:
- Mặc kệ em!
Hắn lỳ lợm, dai như đỉa làm hỏng mọi việc của em. Nếu anh về trước đó vài tháng
thì hắn chả là gì cả.
Thì ra Hương
không được thoả mãn về mối lương duyên với chồng của cô, vì thế khi nghe tin
Hằng còn sống quay về cô càng thất vọng, cô lấy cớ về thăm nhà để gặp lại anh.
Trong lương tâm anh đã có ý định sẽ khuyên giải để Hương thu xếp ổn thoả với
hoàn cảnh của mình. Dẫu sao thì cái sự lạnh nhạt cũng chỉ do một mình Hương gây
ra mà thôi. Điều Hằng không hiểu là vì sao Hương luôn trách anh, cho anh là một
trong những nguyên nhân khiến cô có hoàn cảnh hiện nay. Phải chăng cô có gì đó
bất ổn về tinh thần nên đã biến thành bệnh, nghĩ vậy nên Hằng buột miệng:
- Nhưng dẫu
sao thì em cũng lấy người ta rồi.
- Kệ! Em phải
trả thù hắn...hắn lừa đảo em, hắn bảo thằng anh con ông bác hắn biết anh và bảo
cho nó biết là anh đã hy sinh, nên em mới đồng ý cưới.
Hằng không
ngờ câu chuyện lại xoay hướng ra như thế này, anh vừa nói vừa lựa một lúc lâu
mới gỡ được tay Hương ra. Anh đặt hai tay lên vai Hương nhẹ ấn cô ngồi xuống,
sau khi cô đã ngồi yên trên mép giường, anh tiếp tục thuyết phục Hương một lần
nữa:
- Bây giờ mọi
việc đã thế, với lại anh nghĩ hoàn cảnh của anh chưa chắc đã cho em có được
cuộc sống hạnh phúc. Em nên về nhà, không cậu ấy đi tìm mà gặp thì rồi mọi việc
sẽ phức tạp ra thêm.
- Em đang tức
với hắn, em bảo về mấy hôm nên hắn đâu biết em ở đây, sớm mai em về sớm, hắn
chẳng mừng quýnh lên ấy chứ.
Hằng cố gắng
ngó sang các phòng khác xem có ai không để tìm cớ đưa Hương về nhà, những chẳng
có ai cả vì số anh em ở khu này đều gần nhà nên họ tranh thủ về nhà hết sau mấy
tuần tối tăm bận rộn. Anh nghĩ thế là gay go to rồi, tuy vậy anh vẫn cố gắng
tìm cách thuyết phục. Thời gian trôi đi thật là nhanh, cái đài công cộng đã tắt
từ lâu lắm mà Hương vẫn chưa có ý định ra về. Từng đoạn hồi ức đang trở lại
trong cô như dòng suối cứ tuôn chảy, tuôn chảy mãi không ngừng:
- Anh có biết
em yêu anh từ bao giờ không?
- Em không
nói làm sao anh biết được.
- Em yêu ngay
từ ngày đầu tiên anh đến nhà em.
- Lúc ấy em
còn bé tý thế này mà.
Hằng vừa nói
vừa có ý pha trò, anh xoè lòng bàn tay ra rồi lật úp xuống, hết nâng lên lại hạ
xuống xuống gần sát mặt giường.
- Làm gì có
chuyện ấy, lúc đó em cao gần bằng anh rồi.
- Nhưng mà em
vẫn là thiếu niên...
- Nhưng có ai
cấm thiếu niên yêu đâu.
- Thế sao em
lại giới thiệu anh với chị Văn.
- Đó chính là
điều em giận em nhất! Bực nhất là khi chị ấy đi lấy cái lão Vinh, làm em giận
không sao mà nói ra được. Giận quá em bảo chị ấy: “Sao chị không nói trước với
em...! Chị có biết em đã phải đau lòng thế nào khi phải giới thiệu người mình
yêu cho người khác hay không! Thế rồi chị ấy cũng ngạc nhiên: Mày yêu anh ấy...?
Chứ sao nữa, chỉ tiếc là em còn ít tuổi quá anh ấy không để ý đến nên đành chịu
mà thôi”.
Đến lúc này
Hằng mới biết thì ra cái cô bé Hương ngày ấy luôn im lặng khi nhìn anh nhưng
lại hay nổi đoá với lũ em thật ra là vì cô ấy yêu người mà không được người yêu
trở lại. Nghĩ đến đây trong lòng Hằng chợt bâng khuâng tiếc nuối, anh thấy hình
như mình vừa đánh mất vật gì đó thiêng liêng và quý báu.
Cô bé Hương
vẫn ngồi đó, đôi mắt và cả cơ thể thanh xuân của cô như đang rực lên thiêu đốt
Hằng cháy thành than. Thêm một lần nữa Hằng lại phải dàn xếp với chính mình để
bảo vệ hạnh phúc cho người khác. Anh có thể dàn xếp được không khi anh đang cảm
thấy khoảng cách giữa anh và Hương đang gần lại. Cái giường một, nơi họ đang
ngồi dường như cũng co rúm lại bởi bão giông có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Trong những phút giây ấy Hằng mong có ai đó trở thành cứu cánh giúp họ bình
tĩnh trở lại. Thế mới biết rằng những điều cao đẹp bao người đã làm được ví như
sự quên mình cho nhân loại có lẽ cũng phải có điều gì đó hoặc ai đó luôn đứng
ra nhắc nhở khuyên can và cả bức bách nữa thì rồi những con người ấy mới đi đến
cái quang vinh mà nhân loại đã và đang còn ca ngợi cho đến khi nào trái đất tan
vào vũ trụ mới thôi.
Một phút chốc
ngắn ngủi lan man trong những suy nghĩ không đầu, không cuối đó đã làm cho Hằng
quên đi Hương đang ở ngay bên cạnh, chỉ đến lúc cả tấm thân mềm mại bất chợt
choàng lên người, Hằng mới giật mình trở lại thực tại. Anh phân vân không biết
có nên dùng sức của mình gỡ Hương ra một cách thô bạo hay không. Cô ấy đâu có
phải kẻ thù, cô ấy đẹp và đầy sức sống, cô ấy chỉ si mê và yêu mình, chứ đâu có phải giết mình,
hãy nhẹ nhàng với cô ấy để rồi lựa dần vậy thôi.
Không biết đã
bao nhiêu thời gian trôi qua, khuôn ngực nở nang luôn có tiếng gõ nhẹ của trái
tim trong đó. Vành môi nóng ấm trượt qua, trượt lại trên mặt và trên môi của
Hằng. Vòng tay ôm ngang lưng và truyền hơi nóng vào chính cái phần da thịt mà
nó chặn lên. Những cơ quan nhạy cảm nhất đã có xu hướng bắt đầu khởi động ở mức
cao nhất. Có lẽ những gào thét của xác thịt sẽ rất nhanh buộc họ phải chung
đụng với nhau. Cuộc vật lộn bằng tư tưởng đã hoàn toàn thất bại, hai người đã
thay đổi tư thế cho nhau để bắt đầu trong những tiếng đếm cuối cùng cho cuộc
chạy việt dã và thật bất ngờ, ngay đâu đó rất gần có tiếng gà gáy gọi sáng rất
to vừa được cất lên.
Tiếng gà cất
lên thật vừa lúc, tiếng gà đã thức tỉnh hai con người đang say mê đến cùng cực
quay trở lại với bản ngã của mình. Chàng trai giúp cô gái gài lại những gì vừa
mới bung ra, còn cô gái thì sau vài phút bần thần cô nói trong nước mắt:
- Dù thế nào
em cũng không thể mất anh được!
Câu nói mỗi
lúc một nhỏ dần theo bởi khoảng cách của cô ngày một xa gian nhà lá, bên trong
đó có một chàng trai đang đứng nhìn theo cô trong lờ mờ sương sớm.
4
Sớm nay tất
cả các bộ phận đã thu xếp đồ đạc để nếu chạy thử thành công là sẽ chuyển về Hàm
Rồng để tiếp tục sửa chữa máy ở dưới đó. Việc chạy máy nghiệm thu ở Bàn Thạch
thường rất nhanh chóng vì khi máy đã ổn định thì hoà đồng bộ chỉ trong vài phút
là xong. Việc nâng điện thế, nâng tần số chỉ đơn giản là vặn khoá điều khiển
như vặn quả đấm khoá cửa để mở thêm nước vào là xong. Nhưng lần này thì khác vì
bộ gối trục tua bin đã được thay lớp lót bằng gỗ lim mà nhóm thợ cơ khí làm
suốt mấy tuần qua. Chính vì vậy nên mọi người đều rất hồi hộp, lo lắng không
biết việc cải tiến có thành công hay không. Có một người chẳng cần để ý đến
việc này vì anh tin rằng chẳng bao giờ có thể lấy gỗ thay cho cao su được.
Cuộc chạy máy
nghiệm thu đã được bắt đầu theo quyết định của quản đốc nhà máy Bàn Thạch và
cán bộ phòng kỹ thuật của nhà máy. Mọi người ai vào việc nấy chỉ có bọn sửa
chữa như Hằng là lởn vởn ở vòng ngoài chờ đợi khắc phục những chỗ khiếm khuyết.
Sau một vài câu trao đổi ngắn nhân viên vận hành đã tiến hành lần lượt các thao
tác theo đúng với quy trình. Thế nhưng khi mở nước vào máy thì máy cứ ì ra
không chịu nhúc nhích một tý nào. Anh Khâu được thể cứ lắc đầu quầy quậy:
- Tao đã bảo
mà, có mà bò cũng không nổi chứ chạy với chả chạy cái con khỉ. Chỉ khổ mấy
thằng sửa chữa lại phải bò lê, bò càng ra ôm lấy cái cổ trục chết dẫm này thôi.
Cuộc thử
nghiệm đã bị thất bại hoàn toàn và người phải tổ chức tháo gỡ cái trò cải tiến
này không ai khác lại là nhóm công tác của Hằng.
Lắp vào đã
khó nhưng đến khi tháo ra lại càng khó bởi vì cả cái gối trục đã ôm cứng lấy
trục, muốn tháo tách gối trục ra thành hai nửa thì phải kéo cả gối lên cao gần
ba chục phân, mới có chỗ đưa dụng cụ vào để tháo các bu lông bắt hai bên thành
của gối trục, thật là một cuộc vật lộn thật sự chứ chẳng phải dễ dàng gì.
Nhóm công tác
của Hằng hết bắt quai sắt và đòn gánh vào rồi vặn các bu lông kích cũng chẳng
ăn thua. Cũng đã thay đến mấy lần bu lông kích mà ren vẫn cháy hết. Ngay từ đầu
nhiều người cũng muốn đứng lại chờ tháo ra để tìm hiểu xem nó vướng cái gì mà
không chạy được nhưng rồi thấy lâu quá nên cũng chuồn dần hết về khu tập thể.
Sau khi kích kéo mãi không được Hằng cũng thấy nản nhưng rồi anh vẫn cố tìm các
cách khác xem sao. Đâu là vam đòn vào vỏ gối để quay xem có nhúc nhích hay
không, nhưng hình như cái lớp gỗ lim đã dính liền với trục thì phải. Hằng đành
cho cả nhóm lên tầng nghỉ giải lao một chút để lấy sức làm tiếp các “đỏ” sau.
Còn lại một mình ngồi trên cái phễu côn đó với điếu thuốc trên tay Hằng nghĩ có
lẽ cái giống gỗ này khi có nước là nó nở ra nên có khi phải làm khô đi thì mới
tháo ra được. Hút xong điếu thuốc Hằng lại tiếp tục công việc, nhưng lần này
anh không tìm cách mở bu lông gối trục mà tìm cách tháo số nước chứa sẵn trong
hộp gối trục. Cũng may bên dưới đáy hộp chỉ là lớp chèn bằng cao su nên anh
dùng cái lá căn dày vừa phải uốn cong ấn vào khe hở nhỏ tý teo đó là số nước ở
đó cạn dần, việc còn lại là làm thế nào cho gối trục chóng khô là được. Vừa lúc
ấy số anh em trong nhóm cũng đã đi xuống để tiếp tục làm việc. Mấy cậu thợ mới
gọi xuống hỏi:
- Đã tiến
triển tý nào chưa anh ơi?
- Cậu nào lên
mượn anh Hậu hộ tớ cái đèn khò, với lại lấy cho tớ một tấm gioăng Amiăng nhé.
Một lúc sau
các thứ đã được mang xuống, tuy nhiên các cậu này cũng có vẻ không tin tưởng
lắm nên uể oải ra mặt. Biết thế nên Hằng
cũng chẳng bảo các cậu ấy làm gì mà tự mình làm lấy các công việc còn lại. Buộc
xong tấm gioăng Hằng lấy môt miếng vải thấm nước bọc thêm vào cổ trục để cho
trục khỏi bị nóng trong quá trình hơ nóng gối trục. Anh bật lửa đốt đèn khò rồi
hơ quanh gối trục từng lớp một. Ngọn lửa đèn khò phun ra xanh lét kêu phè phè
làm cho mấy ông già ở tầng trên cũng xuống xem, anh Dưa người Miền Nam trêu:
- Chui cha,
thằng này đốt máy chúng mày ơi.
Hằng ngẩng
đầu lên cười với anh Dưa:
- Đốt cho nó
đỏ lấy vận may anh ạ.
Có lẽ Hằng
cũng đã hơ đến hơn nửa giờ đồng hồ rồi còn gì. Anh vặn nhỏ đèn xuống rồi sờ thử
vào gối trục:
- Nóng thế
này có khi là được đây.
Vừa lẩm bẩm
một mình, Hằng vừa nắm tay vào cái đòn quay vẫn gắn vào gối trục quay thật
mạnh.
- Ái chà!
Thật không ngờ nó lại trơn đến thế làm mình tý nữa thì nhào theo nó.
Vừa
nghe thế, mấy cậu thợ phụ đang định đi ra phía phòng điều khiển lại vội quay
lại. Xem ra các cậu có vẻ phấn khởi phục lăn ông anh nhóm trưởng và cũng chẳng
cần ai bảo các cậu ấy lao ngay xuống phễu côn để thay cho Hằng lên nghỉ. Hằng
mang các thứ vừa tháo ra lên sàn máy rồi mang đèn khò lên giả anh Hậu. Việc
tháo gỡ và thay mới cũng chỉ tròn hai tiếng là xong, nhưng các bộ phận chạy máy
đã giải tán, số anh em trong nhóm của Hằng đành phải ở lại chờ chạy máy rồi về
vào hôm sau vậy.
Tuy gặp trở ngại trong lần đầu tiên
nhưng xem ra cấp trên vẫn quyết tâm để thử nghiệm và thế là Hằng và Độ phải ở
lại với anh Uyển ở phòng kỹ thuật để tiếp tục chương trình. Sau mấy lần bàn bạc
Hằng đã đưa ra ý kiến là phải khử độ nở khi gặp nước của lớp lót bằng gỗ. Anh
cho rằng cần phải tiện sơ bộ rồi ngâm khúc gỗ vào trong nước để gỗ nở hết cỡ,
ngay cả khi gia công trong ngày chưa xong cũng phải tháo chúng đem ngâm vào
nước. Thậm chí còn phải ngâm liên tục trong nước sau khi đã tiện hoàn chỉnh.
Có một điều quan trọng là mỗi khi tháo
ra cặp vào có định tâm đúng như cũ được hay không. Phải nói rằng nhóm thử
nghiệm mới, tập trung hầu hết là những người khá sáng tạo. Vấn đề chế tạo một
bộ gá để sử dụng trong suốt quá trình đã được anh Đà vừa là tổ trưởng sửa chữa
ca của Bàn Thạch, vừa là thợ tiện đề xuất giải quyết, tuy nhiên lại cần một
chiếc mâm cặp bốn vấu mới đủ độ lớn để kẹp và điều chỉnh bộ gá và thế là Độ lại
phải trở về tổ cơ khí mượn mâm cặp bốn vấu.
Trong lúc Độ về Hàm Rồng lấy mâm cặp,
anh Đà phải tiện sơ bộ các khúc gỗ để đem ngâm, còn Hằng thì phải vào nhờ xí
nghiệp Công nông rèn mấy cái đục vũm để làm rãnh nước bôi trơn. Sau hơn một
tuần ngâm nước các khúc gỗ hầu như đã ngấm no nước vì mấy lần Hằng mang lên đo
thấy không biến đổi kích thước nữa. Thế là nhóm thử nghiệm quyết định hoàn
thiện phôi đầu tiên sau một ngày chủ nhật chơi bời thoải mái.
Tất cả các loại gối trục đều có lớp
lót gắn vào vỏ gối, kể cả loại lớp lót bằng hợp kim ba bít, bằng đồng, bằng gang cho các thiết bị ở trong điều kiện
khô ráo có chế độ bôi trơn bằng dầu. còn các loại gối trục có vòng quay thấp và
ở môi trường nước lã thì thường được làm bằng cao su dán chắc vào vỏ sắt, sau
đó cả tấm lót này lại được lắp vào gối trục bằng gang pha thép. Như vậy thì lớp
gỗ cũng phải được dán chặt với vỏ thép mới được, tuy nhiên nếu nước nhà có thể
mua được loại keo dán này thì đem cao su mà dán cần gì phải dùng gỗ, vì vậy nên
gỗ phải gắn vào vỏ bằng cả một hệ thống vít chìm dầy chi chít phân đều trên bề
mặt cung tròn của tấm lót.
Bề mặt lắp ghép với lớp vỏ đã được
tiện đúng với kích thước, việc còn lại là Độ và Hằng phải khoan cả vỏ sắt và
lớp lót gỗ hàng loạt các lỗ Phi 5 mm, sau đó lại mở rộng phần miệng lỗ trên lớp
lót để vừa với các đầu vít nhưng phải để độ dầy theo đúng quy định để sau này
khi tiện bề mặt lớp lót tiếp xúc với cổ trục mà đầu vít không lòi ra va chạm
vào cổ trục, nhưng cũng không thể để lớp gỗ còn lại quá mỏng làm cho tấm lót bị
nứt vỡ vì gỗ thường rất dễ nứt theo chiều dọc thân. Các lỗ trên vỏ phải được
tarô các lỗ ren M6 để vặn vít vào kẹp chặt lớp lót bằng gỗ vào với vỏ sắt.
Cuối cùng thì chiếc gối trục đầu tiên
đã hoàn thành, tuy nhiên việc bóc lớp gỗ bên trong đã phải làm rất nhiều lần
sau đó lại ngâm nước xem có biến dạng hay không. Việc ngâm nước dưới sâu thì
quá dễ dàng, tuy nhiên vị trí làm việc của gối trục lại chỉ có chút ít nước nên
lại phải thực nghiệm bằng cách ngâm trong môi trường tương tự. Một điều khả
quan là độ giãn nở của gối hầu như đã ổn định. Vấn đề còn lại chỉ là thử nghiệm
nữa mà thôi, còn vấn đề quy trình chế tạo gia công đã được hoàn thiện triệt để.
Gần hai tuần qua trong lo lắng tính
toán từng đường đi, nước bước đã kết thúc. Gối trục bằng gỗ lim đã được lắp vào
đúng vị trí, các khe hở giữa lớp lót với cổ trục vẫn được theo dõi chặt chẽ
hàng ngày, thậm chí mỗi ngày còn dùng Pa lăng kéo trục lên quay thử, trục vẫn
trơn cho dù mấy ngày ngâm trong ổ trục.
Các bộ phận chạy máy lại triển khai
đầy đủ như mọi khi. Anh Uyển tuy không thể làm trực tiếp nhưng anh thường xuyên
ghi chép, nhắc nhở về quy trình gia công. Chắc anh ấy cũng lo lắng lắm nên mặt
thì rộc rạc đi, răng thì nhô ra trông thật đáng ngại. Dù sao thì anh cũng là
người chịu trách nhiệm chính của công trình nên lo lắng gầy người đi là phải.
Tám giờ ba mươi phút sáng công việc
giao ca mới xong, mọi vị trí đã thống nhất các mệnh lệnh để tiến hành thử
nghiệm. Tay vặn mở máy đã được xoay đến chỉ số định mức, bánh vít quay chầm
chậm làm cho cần dẫn động thụt sâu vào ống dẫn hướng. Cánh tay đòn chuyển động
để xoay các cánh tĩnh mở nước chảy vào buồng máy. Trục máy quay nhẹ êm như
không có gì khác với những kỳ chạy máy trước đây. Tất cả mọi người trong ca và tổ
thử nghiệm hoàn toàn im lặng trong suốt quá trình chạy thử giờ đây mới hết lo
lắng, ai cũng muốn được nói một vài câu làm cho không khí như vỡ oà ra trong
gian máy chật hẹp.
Ba ngày sau
máy dừng để kiểm tra lớp lót và cổ trục. Tất cả hầu như vẫn chưa có gì thay đổi
trừ một vài vết bóng trên lớp lót biểu hiện việc đã có một vật tựa vào nó mà
quay thế thôi. Gối trục được lắp trở lại và máy tiếp tục vận hành lâu dài chờ
kỳ kiểm tra sau ba tháng.
Sau ba tháng,
sáu tháng, và hơn một năm sau tấm lót gỗ vẫn đảm bảo vận hành ổn định. Tuy
nhiên việc kiểm tra và định kỳ thay thế sẽ phải dầy lượt hơn vì ai biết khi nào
thì lớp gỗ bị mủn ra và khi nào thì có một cái ốc giữ vỏ bị mòn vết tán trên vỏ
để rồi lỏng dần ra cọ vào cổ trục. Dù sao thì ta cũng đã giải quyết được những
khó khăn tưởng như không thể nào khắc phục được.
Còn đến bây
giờ đây loại keo dán cao su ta đã có rồi, công nghệ làm gối trục cao su đã đơn
giản vô cùng. Nghĩ lại cái thời đó, ta không khỏi không trạnh lòng khi Phan
Trọng Hiệp báo cáo về chế tạo cao su chịu dầu và chế phẩm cách điện tại hội
nghị sáng kiến toàn Công ty điện lực ở sở hai Hải Phòng giống như là một phát
mình vĩ đại vậy.
5
Sáng nay Hằng
lắp tiếp đoạn ống xả hơi chèn kín trục cho phần cao áp của tua bin, đây là phần
việc cuối cùng trong đợt đại tu thiết bị của phân xưởng Trung tâm. Công việc
này cũng không phức tạp lắm nên Hằng làm thoáng cái là xong. Vừa hoàn thành
Hằng liền sang bên gian lò để hỏi thời gian chạy máy và tán dóc với mấy cậu bạn
ở tổ lò. Chẳng biết mấy cậu này đang bàn nhau cái gì mà khi thấy Hằng đến thì
liền im cả, có vẻ như muốn giấu Hằng. Biết vậy, Hằng cũng giả tảng như mình
không biết gì và không nghe thấy gì cất giọng hỏi một cách vô tư:
- Mấy bố này
có vụ việc gì mà có vẻ bí mật thế?
Người thì trả
lời thế này, người thì trả lời thế nọ, xem ra các câu trả lời chẳng ăn nhập với
nhau. Vừa lúc đó thì bác tổ trưởng từ đuôi lò vòng lại:
- Làm gì có
gì mà bí với chả mật! chẳng qua là mấy cậu ấy đang tính cái chuyện vợ con cho
cậu nhưng chưa xong nên chưa muốn cho cậu biết đấy thôi. Với lại cậu cũng nên
chủ động kẻo lại cha già con cọc như chúng tớ thì vất lắm.
- Lại cái
chuyện vợ con ấy à? Xem ra cháu vẫn chưa đứng đầu đứng số thì phải. Cứ động đến
vụ nào là vụ đó lại cứ chuội ra, thế mới tức chứ.
Một cậu bạn
cùng lớp cũng phụ hoạ:
- Chẳng qua
là cậu hơi kén chọn quá mà thôi, cứ vớ vẩn mãi rồi đến lúc cả mấy con mẹ nạ
dòng nó cũng ngán ngẩm chẳng chịu tiếp cậu đâu.
- Chả lẽ mình
lại vô duyên đến thế?
- Thì đấy có
mấy con bé nó mới về thực tập đấy cậu thử tán để chúng tớ xem nào.
- Tán để lấy
chứ tán để cho các cậu xem thì có mà...xin kiếu.
- Được, lần
này chúng tớ phải cột chặt cậu vào một con bé nào đó mới được.
Đối thoại với
mấy ông bạn một lúc thì rồi cũng chả đi đến đâu, thế là Hằng lại bỏ mấy ông bạn
nhọ than này để lên khu nhà gianh của tổ điện ở trên đồi. Kể ra mà nói thì Hằng
cũng đã biết việc phân xưởng tiếp nhận một đoàn học sinh trường điện của tỉnh
về thực tập, nhưng cậu chưa gặp vì mấy cô cậu này thường hay ra muộn và lại về
sớm nên khi Hằng rời chỗ làm ra về thì tất cả đã vắng ngắt. Đón cậu chỉ còn mấy
chị lớn tuổi là người của phân xưởng mà thôi. Thành thực mà nói từ khi rời nhà
đi học nghề rồi lại qua mấy năm quân ngũ nhưng hầu như ở đâu Hằng cũng được mọi
người rất quý. Từ những người thợ già khó tính nhất đến cả lũ trẻ con còn chưa
biết gọi mẹ cũng đều thân thiện với anh. Còn với mấy chị thợ điện này thì còn
phải nói vì có nhiều hôm chủ nhật Hằng không đi đâu, mấy chị lại mang con đến
nhờ Hằng trông giúp để giặt giũ chăn màn quần áo. Lũ trẻ vì gặp mặt luôn nên
cũng chẳng sợ hãi gì chú Hằng. Với lại chỉ sau mươi phút nghe chú Hằng ca cẩm
vài câu là chúng đều ngủ khá say sưa. Lẽ dĩ nhiên với các chị có con mọn thì
chú Hằng là nhất, làm gì mà các chị ấy chả mong giúp cho cậu em đã từng bị mất
mát, thiệt thòi so với mọi người.
Còn cách tổ
điện một khoảng xa Hằng đã nghe các chị tổ điện tranh nhau phát thoại. Người lạ
mới đến tưởng là các chị đang cãi vã lẫn nhau. Cho dù Hằng đã vào đến cửa mà
cuộc cãi vã vẫn cứ tiếp tục. Cuộc tranh luận dường như quyết liệt hơn chỉ vì
một chị cho cô Chân nào đó xinh hơn, còn người kia lại cho cô Thanh nào đó xinh
hơn. Thế rồi cô này có vẻ hiền lành, cô kia có vẻ chanh chua, cô nọ ở gần, cô
kia lại ở quá xa...Thôi thì nâng lên, đặt xuống bắc đồng cân, đồng lạng tựa như
đang mua, đang bán vậy. Nghe một lúc thì Hằng cũng nhận ra cuộc cãi vã này nhằm
vào việc giới thiệu bạn gái cho Hằng. Đến lúc này thì Hằng nhận thấy hình như
mọi người trong đơn vị đều thật sự yêu mến Hằng. Họ muốn Hằng cũng có cuộc sống
hạnh phúc, có gia đình như họ bởi anh là người cuối cùng trong đơn vị đã ba
mươi tuổi mà vẫn còn cô độc.
Buổi chiều
nay tưởng sẽ chạy máy nhưng rồi lại bị hoãn vì số đông các đồng chí lãnh đạo về
kỹ thuật đều bận họp. Hằng cùng với mấy bác già đi soát xét lại từng chỗ một
lần nữa để tránh xảy ra những thiếu sót. Cùng lúc ấy có bốn năm cô con gái trẻ
theo bác tổ trưởng tổ điện lên xem thiết bị. Bác tổ trưởng có tiếng là nhẹ lời
đã lần lượt nói về thiết bị điện mỗi khi đi qua từng chỗ một. Hằng đoán đây là
mấy cô bé về thực tập nên cậu cũng cố nhìn xem có cô nào giống như mấy chị sửa
chữa điện mô tả hay không. Kể ra thì các cô cũng khá gọn ghẽ và rất trẻ trung,
cái sự trẻ trung làm bộc lộ cái duyên dáng ưa nhìn. Vừa lúc đó có mấy cô mạnh
dạn tiến lại gần Hằng, các cô chào hỏi xong thì tỏ vẻ muốn nhờ anh chỉ dẫn một
vài thiết bị trông khá hoành tráng mà cụ tổ trưởng tổ điện đã quên không giới
thiệu vì nó không phải là phần thiết bị của nghề sửa chữa điện. Thấy các cô gái
có vẻ dạn dĩ nên Hằng cũng không ngại cùng trò chuyện với mọi người. Thực ra
thì sự mạnh dạn của mấy cô gái về thực tập làm cho Hằng hơi bất ngờ vì đến ngay
cả anh nếu cần tiếp xúc làm quen với một người lạ anh cũng thấy ngại, nhất lại
là một cô gái thì càng ngại hơn. Trong tâm thức của mỗi người ta đều có cái sự
ngần ngại cố hữu là sợ người khác đánh giá mình là người quá xuồng sã, quá dễ
dãi và cả trơ tráo nữa, nghĩa là cần phải từ tốn và kín đáo và đừng có tỏ ra
săn đón quá. Mới hôm qua đây thôi anh chàng Quơi mới về tổ hồi tháng trước,
trong lúc tâm sự với Hằng đã trút sang cho Hằng một loạt những quan điểm về
cách tìm bạn gái, cậu ta cứ xơi xơi những là: “Cậu bây giờ khá tuổi rồi phải áp
dụng lối nhất bạo nhì dai, chứ cái thứ tam tài, tứ đức thì lâu quá không dùng
được”. Ngày bấy giờ mấy anh bạn của Hằng vẫn hay truyền tụng câu nói cửa miệng
giống như là lời tổng kết về cách tìm hiểu bạn gái của các đấng nam nhi mà hôm
qua Quơi đã bật ra. Câu nói nghe ra có vẻ rất vần nhưng khi đọc lên cứ thấy có
cái gì đó gờn gợn trong lòng vậy.
Thực ra thì
Hằng cũng đã để ý đến một vài cô trong cái đám con gái hàng ngày vẫn cứ léo
nhéo ở trên mấy gian nhà của tổ điện. Cũng chẳng có cô nào “sắc nước hương
trời” đến mức đáng để phải theo đuổi. Cô thì mặt gẫy lại có bộ ngực đồ sộ đến
mức chưa nhìn thấy người đã nhìn thấy ngực, cô thì lùn tịt như một chị vịt bầu,
có cô cao thì lại cao quá. Thực ra thì đó chỉ là những nét điển hình vậy thôi,
điều này cũng dễ xuê xoa bởi vì đa số các cô mới chỉ độ mười tám đôi mươi, cái
duyên của sự trẻ trung, tươi tắn vẫn tạo ra những nét ưa nhìn. Sau một loạt
những lần yêu không có kết quả Hằng cũng đâm nản, anh cũng muốn làm sao đó
nhanh kết thúc những ngày này để sớm có một gia đình. Có một điều anh lo hơn cả
đó là chuyện mẹ anh vừa trải qua một cơn ốm nặng thập tử nhất sinh, tưởng không
qua được. Sau đợt ốm cụ già đi đến hơn mười tuổi, trông cụ xuy xụp quá, anh sợ
nếu anh không cưới vợ nhanh thì chưa chắc cụ có còn được biết mặt cô con dâu
của cụ hay không.
Sáng nay công
việc cũng chưa có gì mới, cả tổ chỉ làm vệ sinh thiết bị dự phòng. Anh Khâu kêu
Hằng lên kho lấy thêm ít dụng cụ bổ sung để sắp tới lại đi Hoằng Xuân đại tu
Điedel tại đó. Không biết ông Thuỵ thủ kho đi đâu mà Hằng tìm mãi không thấy.
Còn đang ngơ ngáo nhìn ngược, nhìn xuôi thì chị Dung gọi vào hỏi:
- Này thế
chuyện hôm nọ chị bảo thế nào rồi?
- Chỉ bảo
chuyện gì cơ ạ?
- Thì cái
chuyện con Thơ ấy.
- ...
- Tao trông
nó cũng được đấy! Nó lại là con nhà nghèo nên chịu thương chịu khó, nhưng cái
chính là nó không kênh kiệu khi gặp cảnh nhà chồng nghèo.
- Em cảm thấy
không hợp với cô ấy. Người gì mà tiếng cứ lanh lảnh, nghe đến khiếp chị ạ.
- Hay là cái
Chân? nó thì ngay bên cầu đây thôi?
- Cô ấy trẻ
quá chị nhỉ?
- Thế nhưng
nó lại rất thích chú đấy.
- Sao chị
biết?
- Hôm trước
cái Hoa nói chuyện về cậu, chị thấy cô ta nghe rất chăm chú, không những thế
khi nói đến việc tìm cho chú một đứa thì nó cứ hỏi lên, hỏi xuống xem chú ưng
đứa nào. Sau đó mấy đứa tổ chị cứ thu vén cho cái Thanh thế là cô ta xị mặt ỉu
xìu ra ngồi một xó.
- Thật thế hả
chị?
- Thật quá đi
chứ lại.
- ... Hôm kia
cô ấy mời em sang nhà chơi chị ạ.
- Thì đấy,
tao đã bảo mà.
Câu chuyện có
lẽ còn dài nữa nếu như anh Thuỵ không từ đường cái đi vào.
Câu chuyện
tìm người yêu của Hằng xem ra đã loang rộng ra khắp phân xưởng. Khối người muốn
giới thiệu làm cho Hằng không còn biết đâu mà nhận lời. Thôi thì ế ẩm, tồn kho,
nhỡ lứa, thậm chí có cả mấy cô vợ liệt sĩ chưa con cũng được lôi ra. Đâu là em,
là cháu, là bạn thời chăn trâu cắt cỏ, chỗ nào cũng chỉ thấy cái hay trong ý
nghĩ của những ông, bà mối một mùa. Mấy tháng trước nhóm bạn cùng quê miền
ngoài sau một thời gian áp đặt thấy không kết quả đã nới lỏng cho Hằng tự tìm
hiểu, đến giờ này thấy tình hình có vẻ nan giải và phức tạp nên cậu Vy bàn với
cả nhóm liền quyết định vào cuộc lần thứ hai. Đúng ra thì Hằng chẳng có ý định
gấp rút trong chuyện này, anh vẫn muốn chờ Phương dàn xếp với gia đình, nhưng
xem ra cô ấy có vẻ hơi nhút nhát nên hầu như cô ấy chả dám làm gì. Còn với Hằng
thì anh cũng không còn có thể chần chừ hơn được nữa, mẹ anh có thể nằm xuống
bất kể lúc nào. Còn cái nguồn mà anh hướng tới có lẽ không có chỗ nào hơn là
đám học sinh thực tập kia. Tuy vậy sau mấy lần qua lại chỗ mấy cô gái Hằng thấy
anh cũng có nhiều đối thủ chứ không phải đơn giản gì đâu. Số bạn cùng lớp của
các cô cũng có khối cậu “cao to, béo mượt” ra dáng lắm, dễ gì các cậu ấy lại
chẳng có ý tứ.
Cũng chẳng
biết do vô tình hay hữu ý mà chiều hôm thứ năm tuần trước anh đang đi thì nhận
ra có một cô gái phía trước nom có vẻ khá quen. Hình như cô ấy có ý như muốn đi
chậm lại để chờ anh nên dù anh vẫn đi bình thường nhưng khoảng cách hai người
hình như càng ngày càng gần lại. Đến khi chạm mặt thì anh nhận ra đấy chính là
Thơ. Họ buộc phải dừng lại một lát để mà chào nhau theo kiểu xã giao. Quãng
đường không dài nhưng họ cũng đã hỏi thăm được đôi chút về hoàn cảnh của nhau.
Cuối cùng thì anh hiểu rằng Thơ cố ý về sau để đợi gặp anh nhờ viết mấy chữ vào
cuốn sổ tay của cô. Tất nhiên là anh nhận lời vì tối ấy có đến ba cô gái cùng
mời anh xuống nhà chơi.
Buổi tối hôm
ấy qua đi thật là nhanh chóng, nhưng xem ra cũng từ hôm ấy họ có vẻ thân mật
với nhau hơn. Thơ cũng đã cùng các bạn đến chơi tận phòng ở của Hằng một vài
lượt và còn nhờ anh viết giúp một vài thứ vào các quyển sách học kỹ thuật của
cô. Trong ánh mắt, lời nói đã có dấu hiệu của sự gần gũi đồng cảm.
Những ngày
tháng buồn bã cứ tiếp tục qua đi cùng với sự chờ đợi đến nao lòng, vậy mà sao
Phương cũng chẳng có tín hiệu nào khả quan hơn. Những đối tượng mới thì lại cứ
tiến gần hơn cả về cự ly và cường độ. Chiều nay mấy cô gái lại hẹn Hằng đến khu
trọ của họ chơi, anh phân vân một lúc rồi cũng nhận lời. Một khoảng thời gian
không dài nhưng số các cô gái trẻ hầu như đã thất bại trong chiến lược tình cảm
của mình. Sự phân hoá bởi chiến lược của mấy cô nhiều tuổi hầu như đã thắng
trong việc chinh phục chàng trai chưa vợ gần như duy nhất ở cái đơn vị công
nghiệp mà các cô đã về đó trong bước đầu tập làm thợ của mình. Các cô gái trẻ
thất bại còn bởi mấy bà chị khôn khéo hơn đã tranh thủ mấy chị công nhân lớn
tuổi trong cái tổ điện lắm điều nhiều lời kia. Nhưng có lẽ đây là số phận họ
không có duyên với nhau nên mọi việc cứ tự nhiên mà rời rạc ra vậy thôi chứ nếu
không thì làm sao cái anh chàng cô độc nọ lại cứ gần gũi hơn mấy cô gái già
kia. Nói như thế cứ tưởng mỗi nhóm các cô chắc là đông lắm nhưng thực tế đã
không phải như thế. Nhóm các cô gái trẻ thì có bốn, còn nhóm các cô gái già thì
chỉ có ba cô mà thôi. Một cô có dáng đàn chị hơn thì có khuôn mặt gẫy đến khắc
khổ, cái hấp dẫn của cô là nước da rất trắng và bộ ngực đồ sộ cứ ưỡn ra phía
trước. Cô lại đã qua trường đời khá phong phú ở một đội Thanh niên xung phong
nào đó. Nhìn cô người ta thấy toát ra sự từng trải và cả sự thông thuộc trong
tình trường của cô và sự thực thì hình như cô cũng đang yêu, có chấp nhận sự
quen biết người khác có lẽ là có ý muốn lựa chọn xem có thể có người khác khá
hơn người mình đang gắn bó. Cô thứ hai thì có dáng người hơi cũ kỹ và quắt queo
đến khó hiểu, cô còn lại chính là Thơ mà ta đã nói đến ở trên. Thơ là con cả
trong một gia đình có đến sáu người con, bốn trai hai gái. Ông bố là cán bộ
đang công tác ở một đơn vị an dưỡng của công an võ trang. Có lẽ cô cũng đã qua
một vài lần yêu đương gì đó với vài cậu bạn cùng quê hoặc vài chàng bộ đội ngày
còn chiến tranh vẫn hành quân qua làng của cô để rồi đi ra mặt trận. Cho đến
lúc này, cô có còn người yêu nào nữa hay không thì có trời mới biết được. Cô có
khuôn mặt bình thường nhưng dễ nhớ bởi hai bên lưỡng quyền nhô cao, tướng mặt
này nếu nói như mấy ông thầy tướng thì khá là cao số. Cũng may cô cũng có nước
da khá trắng và thân hình khá uyển chuyển cùng với duyên con gái nên chợt nhìn
cũng dễ chấp nhận.
Cũng không biết sao mà buổi tối hôm
nay khi Hằng đến chơi như mọi lần nhưng cả nhóm con gái tiếp đón hơi khác mọi
khi. Anh cứ phân vân trong bụng và tự mình nghĩ lại tất cả mọi việc xem mình có
nói gì hay làm gì để họ phật ý hay không, nhưng anh chẳng thấy gì cả. Thế rồi
mọi việc cũng qua đi nhanh chóng khi cả mấy cô nháo nhào đi tìm nước và mượn
cốc chén của mấy anh chị công nhân ở trong khu tập thể. Độ mươi phút sau có ai
đó bá vai Thơ lôi về phòng thì người tiếp Hằng đã chuyển giao sang tất cả cho
Thơ. Ngay cả khi Hằng chào mọi người ra về thì sau cả loạt câu chào lại, người
tiễn anh vẫn chỉ có một mình Thơ. Suốt chặng đường về Hằng cứ tự vấn về chuyện mấy
hôm trước các cô vô tư là thế mà sao hôm nay cô nào cô ấy cũng dè dặt giữ ý sao
đó không biết, có lẽ họ ngầm thu vén cho Hằng và Thơ thì phải.
Gần nửa tháng
qua Hằng khật khừ mỏi mệt khác hẳn mọi khi, lúc đầu anh tưởng anh đi làm thêm
giờ và thức đêm nhiều nên mỏi mệt. Cho đến hôm nay thì anh đã nhận ra sự việc
không phải vậy mà chính là căn bệnh sốt rét tưởng đã dứt điểm ở khu an dưỡng
nay lại tái phát. Những cơn rét run ập đến chẳng khác nào phong ba bão táp, mấy
anh bạn cùng khóa đã mang đến ba cái chăn bông chồng lên mà Hằng vẫn cứ run lên
bần bật. Những người chưa gặp sốt rét lần nào thì phát hoảng cả lên lo đưa đi
cấp cứu, bộ phận y tế của phân xưởng thì cũng bế tắc vì trong cơ số thuốc thông
thường của họ không có loại thuốc này. Cũng may cho Hằng là khi rời đoàn an
dưỡng anh có xin thêm được mấy viên phòng số ba màu nâu vẫn để trong cái hộp
nhựa đựng thuốc cất ở trong rương. Mặc dù Hằng đã mang thuốc ra uống rồi nhưng
cũng phải có thời gian nhất định thuốc mới công hiệu. Nghe Hằng bị sốt quá cao
lại run bần bật nên nhiều các anh chị trong phân xưởng đều ghé vào thăm làm cho
cả căn phòng gần như đầy chặt cả người. Ông y tá già của phân xưởng hò hét mãi
rằng phải để cho bệnh nhân thở họ mới chịu ra bớt. Cuối cùng thì căn phòng cũng
vắng vẻ vì đã đến giờ ra nhà máy làm việc, trong nhà chỉ còn vài người có trách
nhiệm trông coi Hằng ở lại.
Lại một cơn
rét run nữa đang kéo tới, lần này có vẻ còn ghê gớm hơn mấy đợt trước đó. Hằng
đang kêu mấy anh bạn trong tổ đắp thêm cho mấy cái chăn nữa thì Thơ vào. Cô đi
có một mình từ nhà máy về rồi vào thẳng nhà Hằng trong bộ áo bảo hộ xanh chéo
thường ngày. Nhìn cô dở muốn đến bên giường của Hằng, dở không dám đến vì sợ
mấy anh bạn trong tổ của Hằng phát hiện ra tình ý của cô nên cô thật lóng
ngóng. Một lúc lâu sau chắc là đã cố gắng trấn tĩnh được nên cô đến ngồi cạnh
giường của Hằng vừa dém lại những cái chăn đang chồng lên đống lên người Hằng
vừa lí nhí hỏi han Hằng về bệnh tật. Cuộc thăm hỏi của Thơ chỉ kết thúc khi
chuẩn bị hết giờ làm việc. Có lẽ cô sợ mấy cô cậu cùng khoá phát hiện ra việc
này rồi trêu cợt nên sau câu chào là cô vội vã rời phòng ở của Hằng...
Một cuộc hẹn
gặp như bao nhiêu cuộc hẹn trong một buổi tối mùa thu êm ả đã xảy ra sau nhiều
lần lỡ hẹn. Hằng đón Thơ ở cổng cơ quan rồi hai người đi dọc con đường xuôi về
phía thị xã Thanh Hoá. Cái thị xã miền Trung này ngày xưa có tiếng là đẹp và
rộng rãi chạy dọc theo con đường quốc lộ số một từ Bắc vào Nam. Cái thị xã một
thời là địa danh oanh liệt nhất trên miền Bắc về chiến đấu và chiến thắng trong
cuộc chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, giờ đây đang hối hả trong thời kỳ
xây dựng lại. Về ban đêm chỉ có đôi chỗ ở trước các cơ quan công quyền trong
thị xã có vài ba cột đèn đường thắp chiếu lệ tạo ra những vầng sáng mờ nhạt.
Các địa hình còn lại thì tối om, tối óp chẳng nhìn thấy gì mỗi khi màn đêm
buông xuống.
Bóng tối
chẳng giúp gì cho ai ngoài việc làm cho người ta dễ ngủ để tái tạo lại sức khoẻ
sau một ngày lao động cật lực. Cũng có thể còn nhiều cái lợi nữa nhưng mà cũng
chẳng nên kể nhiều ra thế để làm gì ngoài việc kể ra một tác dụng khá hấp dẫn
là nó giúp cho những người, những việc không muốn bộc lộ, không muốn công khai
ví như giúp cho bọn du thủ, du thực, bọn trộm cắp dễ hoành hành và cho những
anh chị muốn qua lại tình tự với nhau được tự nhiên hơn.
Đã có điều
kiện tối trời rồi nhưng người ta còn muốn vắng vẻ nữa thì mới thật sự tiện lợi.
Cũng chính vì thế nên cặp đôi Hằng và Thơ đã rẽ ngay đầu cầu Hạc đi vào con đê
cụt bên trái con đường quốc lộ. Hình như họ chưa quen thuộc nhau lắm nên suốt
dọc đường họ chỉ nói với nhau rất ít, còn thì cứ đi và đi bên cạnh nhau như
vậy. Những câu hỏi thường là của người con trai, còn người con gái thì trả lời,
đa số các câu hỏi tập trung về hoàn cảnh gia đình là chính. Cũng có lúc người
ta chỉ nghe thấy tiếng cô gái mà không thấy tiếng của chàng trai, đấy là lúc cô
kể chuyện về gia đình cô và kể về bản thân cô. Tất nhiên là chỉ với những nội
dung giản đơn thôi chứ có những điều thuộc về bí mật của cô như đã yêu ai hoặc
đã gần gũi với ai thì chắc là cô chẳng bao giờ nói.
Mỗi người
sinh ra, lớn lên thường phải tiếp xúc với nhiều người, ngoài những người là
ruột thịt họ còn phải tiếp xúc với những người ngoài, phần vì công việc xã hội
có liên quan, phần vì cùng ở chung một chỗ, làm chung trong một công việc. Những
quan hệ qua lại hoặc cùng đi đâu đó trong đồng giới thì chả nói làm gì, thế
những với người khác giới thì tất phải có lý do nào đó. Nói thế để hiểu rằng
Hằng và Thơ cũng đã có chút gì đó cần phải gặp gỡ, cần phải tìm để biết về nhau
và điều giải thích sau cùng là họ đã muốn có nhau.
Con đường đê này không dài lắm nên họ
đi chả mấy chốc đã gặp đoạn cuối cùng và lẽ dĩ nhiên là họ phải quay trở lại.
Câu chuyện của họ cần biết về nhau vẫn chưa nhiều nên họ vẫn chưa muốn ra về và
thế là họ đành phải ngồi xuống bên vệ đường để tiếp tục câu chuyện. Sương đêm
đã bắt đầu làm ẩm lớp áo ngoài và cái lạnh đêm thu đã khiến họ xích gần lại với
nhau hơn. Tuy nhiên họ chưa thể có gì gần gũi hơn được vì từ phía cô gái cái
việc quá chủ động là điều không nên xảy ra, còn phía chàng trai thì cũng luôn
phân vân chán chường vì bao nhiêu lần yêu mà không thành tựu. Họ ngồi như vậy
khá lâu rồi cùng đứng lên tiếp tục đi vì từ phía đầu con đê có hai bóng người
cũng đang đi nhanh về phía họ. Cô gái chia tay với chàng trai cùng với lời hẹn
mời chàng trai về thăm quê và gia đình trong một ngày chủ nhật của tuần sau đó.
Cuộc hẹn không thành vì chàng trai bận đi công tác đột xuất đến gần một tháng.
Khi trở lại cơ quan thì số học sinh thực tập đã kết thúc, số học sinh này hình
như đã tốt nghiệp và được bổ sung về các đơn vị công nghiệp trong tỉnh. Thơ
cũng ra đi như các bạn của cô kết thúc những gì đã xảy ra trong những ngày thực
tập.
GIA ĐÌNH
1
Câu chuyện
quan hệ của Hằng và Thơ đã lắng xuống và gần như bị quên hẳn nếu như sau đó mấy
tháng một người bạn không mang về cho Hằng một bức thư dán kín trong một chiếc
phong bì tự làm bằng giấy thếp. Bức thư ghi rõ tên họ người nhận nhưng địa chỉ
thì chỉ ghi là gửi về nhà máy. Cũng may mà anh bạn Hằng nhìn thấy tên họ chứ không
thì thư không biết sẽ đi về đâu vì trong nhà máy có đến hàng chục người cùng
tên Hằng, biết của Hằng nào mà chuyển đến.
Bức thư người bạn mang về cho Hằng nét
chữ không quen lắm, nhưng có một điều chắc chắn đây là thư của con gái, nét chữ
khá nắn nót cho thấy người viết thư rất cẩn thận đồng thời có ý muốn người đọc
thư hiểu được tình cảm hết sức trang trọng của người viết. Khó có thể đoán được
đây là thư của ai khi chưa mở thư ra, trong khi đó thì mấy cậu bạn cứ hỏi quáng
lên và còn muốn giằng lấy để bóc ra ngay, làm cho Hằng cũng sốt ruột. Tuy vậy
anh vẫn giấu kỹ được vào trong người rồi đi về phòng của mình.
Cũng chẳng cần dao kéo làm gì cho
phiền phức Hằng dùng móng tay lựa theo mép bì thư để xé ra cho đỡ rách các tờ
bên trong. Đến khi hai tờ thư được lôi ra thì Hằng mới biết đây là thư của Thơ.
Anh lặng lẽ đọc những dòng mực màu xanh trên nền giấy trắng. Sau khi đọc xong
lá thư Hằng đọc tiếp sang tờ thứ hai, mới đầu anh chẳng hiểu cô ấy nói gì, mãi
đến khi đọc được gần một nửa anh mới nhận ra đây là một bài thơ, đương nhiên có
thể gọi là thơ vì nhiều câu có vần điệu tuy không phải là hay về mặt nghệ thuật
nhưng có thể nói rằng bài thơ là chứng tích của sự xúc cảm, tựa như có một lúc
nào đấy niềm vui tràn ngập ta tự thốt ra lời.
Lá thư của Thơ dường như một tiếng nói
nhẹ nhàng gợi lại một thời gian đã qua, nó như tiếng ngân của chiếc đồng hồ báo
thức, đánh động cho Hằng nhớ về một người mà anh đã từng có sự tiếp xúc và từng
quen biết, không phải là vô cớ. Lá thư cũng như là một tờ thông điệp báo tin về
cô ấy cùng với những công việc và nơi cô ấy đang ở. Những tin tức đó đâu phải
là ngẫu nhiên mà nó chính là cái ý muốn nói rằng tôi đang ở đó và anh có thể
đến với tôi.
Đọc thư xong Hằng còn đang hồi tưởng
lại những lần gặp gỡ với Thơ trước đó thì nhóm bạn đã ăn cơm chiều xong đang ồn
ào kéo tới. Tất nhiên là trong lúc ăn cơm đám bạn này đã đoán già đoán non
nhiều về tác giả lá thư nhưng chưa ai cầm chắc cho nhận định của mình nên đến
tận cửa phòng vẫn có cậu cố cãi chưa chịu nhau. Vi vẫn là người nhạy cảm nhất
trong bọn đã phán xanh rờn rằng đấy nhất định là thư của mấy cô thực tập rồi,
nhưng là ai thì cậu ấy còn lưỡng lự giữa hai cô gái mà cậu ấy đang lấy ý tứ của
mình ra mà chọn. Tất nhiên đến lúc này thì Vi cũng chẳng cần dự đoán làm gì vì
dứt khoát Hằng phải báo cáo tình hình rồi.
Thế rồi cũng chẳng cần Hằng có đồng ý
hay không lá thư đã được đọc cho cả hội đồng nghe. Cùng với giọng đọc khá hài
hước là những nhận xét khá lý thú về cuộc dự đoán lúc trước của cả đám bạn. Lá
thư vừa mới đọc đến chỗ Thơ nói về nơi làm việc của cô ấy thì Chinh đã reo lên:
- Rồi, rồi...cứ về với tớ là đâu vào
đấy tất.
- Về với cậu là thế nào?
- Chỗ ấy gần nhà tớ mà, chỉ một đoạn
là tới.
Đến giờ mọi người mới hiểu ra những
điều Chinh vừa nói. Thì ra là Chinh bảo nếu có đến thăm Thơ thì đi với cậu ấy
vì nơi Thơ đóng quân là hội trường huyện Hoằng Hoá ở thị trấn Bút Sơn ngay quê
của Chinh.
Thế là một cuộc bàn kế hoạch để cho
Hằng đến thăm Thơ lại được nhóm bạn đặt ra. Tất nhiên là nhiều ý kiến nhưng
cuối cùng thì các bạn cũng tán thành cho Hằng đi thăm Thơ vào chiều thứ bấy
tuần tới. Xe thì lấy của Đại, rồi đi cùng với Chinh về Bút Sơn, chỉ tiếp xúc
với đối tượng ở cơ quan còn tối thì về nhà Chinh ngủ, sáng thứ hai lại đi cùng
với Chinh về đơn vị...
Cuối cùng thì Hằng cũng phải chấp hành
“nghị quyết” của bạn bè đi gặp Thơ để “triển khai” tiếp mối quan hệ đã gián
đoạn từ mấy tháng trước. Quãng đường từ Hàm Rồng xuống Bút Sơn cũng không xa
lắm nên chỉ độ ba mươi phút là Hằng đã tìm đến hội trường uỷ ban huyện Hoằng
Hoá. Đêm ấy Hằng ở lại với những người công nhân trong đội xây lắp điện của
Thơ. Cũng không ít người trong đội đã có chồng, có vợ nên họ cũng mừng cho Thơ
và cố tạo điều kiện cho hai người có thời gian tâm sự. Hằng chia tay Thơ vào
cuối ngày chủ nhật cùng với lời hẹn sẽ về thăm nhà Thơ thay cho lần lỡ hẹn mấy
tháng trước đó.
2
Đường về nhà
Thơ cũng không xa lắm và hầu hết đều là đường ô tô nên cũng thuận tiện. Qua cầu
Quán Nam ở cuối thị xã chỉ một đoạn ngắn là đã đến đường rẽ về Nông Cống. Đoạn
đường tiếp theo chính là con đường đá được mở rộng từ thời chiến tranh trước
đó. Những chuyến xe tải trọng mươi mười lăm tấn vận tải lâm sản từ các vùng
rừng núi về đã làm cho lớp đã bong lên và nằm lổn nhổn trên đường. Người đi bộ,
đi xe đạp chỉ có thể dựa vào lối mòn hai bên để mà đi. Lúc một lại có những
chuyến xe ô tô đi qua cuốn theo cả một
quầng bụi kéo dài đến hàng nửa cây số làm cho người đi đường phải nhắm mắt,
nhắm mũi để tránh bụi. Nếu không có những trận mưa thỉnh thoảng xuất hiện thì
có lẽ những mái nhà, cành cây hai bên đường phủ đầy đất đỏ. Chiếc xe đạp như
con ngựa vía láng đi, láng lại để tránh những hòn đá mồ côi thỉnh thoảng mọc
lên ở giữa lối mòn cũng không làm cho cặp trai gái nọ khó chịu. Công việc của
họ cần chính là việc phải vượt qua con đường ấy mới có thể về được đến nhà. Mặc
dù mệt nhoài cả người trên quãng đường đầy bụi, đầy đá Hằng vẫn không quên dự
tính cho mình những tình huống khi gặp người nhà của Thơ. Anh nghĩ ra khá nhiều
phương án để đối phó với những tình huống có thể xảy ra khi gặp người nhà của
Thơ, ví dụ anh sẽ chào thế nào với bố mẹ, ông bà của Thơ. Biết đâu lúc đó có
thể gặp một vài người khá tinh quái họ có thể sẽ hỏi về quan hệ cụ thể của anh
và Thơ và cùng với nhiều câu hỏi khác hóc búa hơn nữa, mà anh không thể không
trả lời vì người đó lạ là cô gì chú bác của Thơ. Tuy nhiên anh cũng tự tin vào
mình vì anh cũng đã trải qua khá nhiều tình huống của giao tiếp hàng ngày cùng
với sự giao tiếp của anh trong những lần gặp gỡ người nhà của những người bạn
mà anh đã quan hệ trước đó.
Còn đang suy
nghĩ lung tung mọi việc thì anh nghe Thơ bảo đã đến đường rẽ vào làng. Ngõ nhà
Thơ là một đoạn đường đất không rộng lắm, có lẽ chỉ vừa cho hai người tránh
nhau. Hai bên đường trồng toàn những cây ô rô, cây ruối làm hàng rào ngăn nhà
với đường. Làng quê của Thơ cũng giống như bao làng quê khác mà anh đã từng gặp,
từng qua trong những năm còn trong quân ngũ. Còn đang lúng túng với chiếc xe
đạp bị kẹt phanh thì Hằng chợt nhìn thấy ngay đầu ngõ trước mặt có một người
đàn ông khá trẻ mặc quần đùi áo cộc đang tập trung vào việc dọn dẹp rơm rác,
cây que ngay trước cổng. Hằng đoán đây là những người có nhà ở cùng ngõ của nhà
Thơ. Anh nghĩ đã là hàng xóm của gia đình nhà Thơ thì mình cũng nên có sự chào
hỏi thân thiện để nhận được sự cảm mến ban đầu. Anh nghĩ ở độ tuổi này cũng
không còn trẻ nhưng cũng chưa già, mình nên chào là anh cho thân mật. Vừa định
cất tiếng chào thì đã nghe Thơ cất tiếng chào trước:
- Bố về hôm
qua ạ!
Hằng thật sự
giật mình tự nghĩ trong bụng “thật là may cho mình, là cô ấy đã chào trước.”
khi nghe Thơ chào người đó là bố, Hằng cũng chuyển ngay sang câu chào khác:
- Cháu chào
chú!
Ông bố của
Thơ vừa bị đánh động bằng câu chào của con gái chợt ngẩng đầu lên và ông cũng
ngạc nhiên không kém khi nhận ra đi cùng con gái mình còn có một chàng trai lạ
mặt. Ông đứng im mất một lúc rồi mới mời chàng trai vào nhà.
Những câu
chuyện thân mật giữa Hằng với mọi người trong gia đình của Thơ ngay sau đó
cứ kéo dài hết đề tài này sang đề tài
khác. Hỏi han nhiều hơn cả về gia đình của Hằng vẫn là ông nội của Thơ. Hằng
cũng đã thoáng thấy có nhiều những đôi mắt của những người làng từ một góc
khuất nào đó nhìn vào anh. Có lẽ họ muốn xem cái chàng trai mà Thơ mang về có
khá hơn bọn trai làng hay không, hoặc khả dĩ họ có thể tìm ra một vài đặc điểm
nào đó để cân lên đặt xuống về sự lựa chọn bạn của Thơ khi cô rời nhà đi thoát
ly ra ngoài làng, ngoài xóm. Cho đến lúc hai người xin phép rời gia đình để về
đơn vị thì chiều đã muộn.
Hằng và Thơ
ra đến Hàm Rồng thì trời đã tối đã khá lâu, cho dù có muốn đi ngay về Bút Sơn
thì Thơ cũng không làm sao có thể đi được nữa, hai người đành về khu tập thể
của Hằng tìm chỗ cho Thơ nghỉ lại. Số phòng ở tập thể hầu hết đều khóa kín cả
vì số anh em quê Thanh Hoá đều về nhà chưa lên. Hai phòng còn lại thì chỉ có
phòng của Hằng và Đại là có hai người, phòng đầu cùng thì lại là phòng đặc biệt
giành cho y tế của phân xưởng vừa ở vừa cất giữ thuốc men. Cuối cùng thì Đại
phải sơ tán sang phòng đầu nằm chung với y tế để Hằng và Thơ ngủ lại phòng của
hai người.
Đi lại cả
ngày như thế chắc hẳn ai cũng mỏi mệt dễ chừng họ sẽ ngủ ngay nhưng Hằng và Thơ
hình như chẳng biết mỏi mệt là gì, họ đang bận nói chuyện về buổi thăm quê Thơ
sáng nay. Có lẽ còn có những chuyện gì quan trọng nữa nên thoảng hoặc họ vẫn
còn nghe thấy từng đoạn đối thoại ngắn của hai người. Có lẽ phải đến hơn hai
giờ sau phòng của họ cũng đã tắt đèn. Đêm trôi đi nhè nhẹ như mọi khi cùng với
tiếng côn trùng rỉ rả bốn xung quanh ngôi nhà tập thể. Không gian có lẽ sẽ hoàn
toàn yên tĩnh nếu như từ đồi cây phía sau nhà không thỉnh thoảng cất lên những
tiếng lục khục do các cành va vào nhau khi gặp gió.
3
Cũng chỉ còn
hai tháng nữa là đến tết âm lịch, thế mà mẹ Hằng vẫn phải nằm viện. Cụ già đi
và gày guộc trông thật đáng ngại. Những điều cụ thường xuyên nói với Hằng vẫn
là giục cậu xây dựng gia đình để nếu cụ có mệnh hệ nào thì cũng đã biết mặt con
dâu của cụ. Hằng không vội sao được khi thấy mẹ mình nói đã đến điều. Nghĩ đến
việc này anh lại sốt ruột vì đã gần hai tuần qua vẫn không nhận được tin tức gì
của Phương. Tín hiệu gần nhất mà anh nhận được qua một người bạn thì hầu như
tình hình quan hệ của Hằng và Phương vẫn bế tắc và vô hy vọng.Việc anh sẽ phải
làm gì trong hoàn cảnh hiện nay thật khó có thể rành rẽ được. Tình cảnh của
Phương, sự nhiệt thành của Thơ? Đành rằng anh vẫn chưa một lần nói với Thơ về
tình cảm của anh, nhưng anh nghĩ dẫu sao anh cũng đã gieo vào lòng cô gái này
sự hy vọng nào đó. Anh vừa có ý lên án mình vì đã có sự quyết tâm nhưng lại
không thật mãnh liệt lắm trong việc thuyết phục Phương theo anh vào Thanh Hoá,
thậm chí anh còn có ý nghĩ tìm cô gái khác để thay Phương. Cái giận từ gia đình
Mận, gia đình Phương đã làm anh không còn tỉnh táo được hơn. Bao lời đàm tiếu
của những người trong xóm, ngoài làng khiến anh buồn và đã có lúc nghĩ đến việc
trả thù đời. Điều này cũng không thể đổ hết cho anh được khi anh cũng chỉ là
một cá nhân nhỏ bé trong cái xã hội loài người, anh đâu có là vĩ nhân, là thần
thánh. Sau khi đã nghĩ đi, nghĩ lại không biết bao nhiêu lần về việc này, anh
đã quyết định xuống Bút Sơn để gặp Thơ.
Hằng xuống
Bút Sơn rồi hỏi thăm vào đến hội trường Uỷ ban huyện Hoằng Hoá vào khoảng gần
chín giờ sáng. Hội trường vắng vẻ quá làm anh chột dạ, anh nghĩ nhóm thợ của xí
nghiệp lắp điện có lẽ đã di chuyển, tuy vậy anh vẫn cứ vào xem thế nào. Thật
may mắn là nhóm thợ vẫn còn ở đấy nhưng Thơ thì lại đi dự đám cưới vắng nhà.
Sau khi nói chuyện với mấy người phụ nữ cùng làm với Thơ một lúc thì anh đứng
dậy ra về. Giữ anh ở lại mãi không được, hai người phụ nữ đành bảo anh nên đi
về theo con đường lớn hướng nam để may ra có thể gặp cô ấy trên đường về.
Hằng cũng
chẳng tin lắm vào lời của hai cô phụ nữ ấy nhưng anh cũng đi về theo con đường
mà họ đã dặn. Vừa đi anh vừa nghĩ có lẽ số phận vẫn chưa muốn cho anh có gia
đình, thôi thì đành vậy. Có lẽ anh sẽ không yêu ai nữa trong vòng mấy năm tới
để tập trung vào việc tiếp tục học văn hoá. Cũng đành mắc lỗi với người mẹ già
nua hết một đời gian nan vất vả vì chồng, vì con, vì cháu, vì mình. Từ lâu anh
đã hiểu về cuộc đời của mẹ gian nan thế nào, cực khổ thế nào từ tấm bé cho đến lúc về già qua những câu
chuyện bà kể cho mấy chị em nghe trong những đêm đông giá rét. Chỉ còn một đoạn
ngắn nữa là đã đến con đường rẽ, anh sẽ quay về Hàm Rồng và quyết thực hiện
những điều anh đã tâm niệm. Có lẽ anh cũng không có duyên với Thơ như lâu nay
anh vẫn nghĩ.
Anh vòng tay
lái theo đường rẽ và nhìn lần cuối về hướng con đường đi từ Sầm Sơn về Hoằng
Hoá. Từ phía xa lắc xa lơ Hằng chợt như thấy có một người đang đi lại phía
mình. Anh dừng lại như có ý chờ đợi nhưng cũng không hy vọng lắm về sự ngẫu
nhiên của anh và Thơ. Gần mười phút trôi qua, bóng người ngày càng rõ ràng hơn,
Hằng đã nhận ra người đi đó là một cô gái khá trẻ, mặc một cái áo vét ka ki màu
đất tay xách một cái túi nhỏ. Hằng thất vọng đang chuẩn bị đạp xe đi thì cô gái
ngước mắt nhìn lên. Hằng thật là bất ngờ vì khuôn mặt quá quen thuộc, người ấy
lại chính là Thơ. Hai người chào hỏi nhau xong liền quay lại uỷ ban huyện. Mấy
người bạn dường như cũng ngỡ ngàng và mừng cho hai người vì đã gặp được nhau.
Suốt dọc đoạn
đường quay trở lại Hằng cứ luẩn quẩn trong đầu về sự gặp gỡ ngẫu nhiên vừa xảy
ra. Anh tự hỏi không biết có phải đây là số phận hay không mà sao cái hy vọng
mỏng manh như vậy vẫn đến. Cuối cùng thì anh cũng quyết định sẽ tiếp tục với
cái kế hoạch mà anh đã trù tính mấy hôm nay. Cũng chẳng màu mè gì nhiều, anh
bình tĩnh nói với Thơ về dự định của mình bằng những lời chẳng lấy gì làm văn
hoa cho lắm. Cũng chẳng phải chờ đợi lâu la gì anh đã nhận được sự đồng ý của
Thơ ngay trong lúc hai người trên đường quay lại hội trường uỷ ban huyện Hoằng
Hoá...
Sáng nay Hằng
và Thơ đưa nhau về Côn Sơn để hỏi ý kiến gia đình của Thơ về việc xin tổ chức
cưới. Hằng cũng lo lắng rất nhiều chuyện nhưng rồi mọi sự cũng qua đi nhanh
chóng. Cũng không hiểu sao hôm nay Hằng lại bình tĩnh đến thế. Những nội dung
đề xuất của anh đã được nói ra thật rành rẽ. Từ việc gia đình neo đơn không có
người lớn vào gặp đến hỏi ý kiến về các thủ tục cưới hỏi. Ông nội của Thơ vẫn
là người tiếp chuyện anh, lần gặp này dễ dãi và thân tình hơn rất nhiều. Cụ băn
khoăn lắm mới nói ra được yêu cầu của nhà gái:
- Công việc
này cháu cứ yên tâm, ông đã đồng ý thì bố nó cũng tán thành, có điều các cháu
vẫn phải xuống chỗ bố nó công tác để nói cho bố nó biết.
Hằng cũng sẵn
sàng tiếp nhận yêu cầu một cách vui vẻ:
- Chúng cháu
sẽ xuống ngay chiều nay ạ!
- Các cháu cứ
xuống sớm cho bố nó mừng, còn việc tổ chức thì cũng phải chu đáo để cho làng họ
khỏi chê. Lâu nay mình cũng đã ăn của người ta khá nhiều rồi, cái Thơ lại là
con đầu cháu sớm nên không thể sơ sài được.
- Ông cứ cho
cháu biết cụ thể để cháu chuẩn bị.
- Thế này
cháu ạ! Mày cứ cho tao một tút thuốc lá, với một ngàn cau là được, còn trầu,
chè thì tao bảo mẹ nó sang chợ mua mấy nón là xong.
Chưa nghe dứt
chữ xong Hằng đã phát hoảng lên vì những yêu cầu của ông nội Thơ. Một tút thuốc
lá thì chả có khó gì nhưng một ngàn cau thì anh sao có thể lo nổi. Mấy hôm
trước anh nghe ai nói cau năm nay mất mùa, mỗi quả cau gần bằng bao thuốc lá
chứ có rẻ đâu. Vừa thầm tính toán anh vừa nghĩ: có lẽ mình phải hoãn lại vì
không thể lo nổi số lượng cau khủng khiếp kia. Nghĩ sao nói vậy, anh vừa định
cất lời thì ông cụ lại nói tiếp:
- Ông thấy
ngoài cửa hàng tổng hợp họ có cau của miền Nam đấy. Cũng chỉ độ một cân là đủ
cháu ạ!
Lúc nãy Hằng
phát hoảng bao nhiêu thì bây giờ anh mừng bấy nhiêu. Anh không ngờ, quê Thơ lại
có tục chia quà cưới bằng cau khô. Thế là hai người ra cửa hàng mua hẳn hai cân
cau khô và một tút thuốc lá Lạch Trường mang về cho ông cụ.
Hằng và Thơ
xuống đến khu an dưỡng của bộ công an ở Sầm Sơn có lẽ cũng vào khoảng hơn một
giờ chiều. Đây chính là nơi ông bố của Thơ làm việc, ông là một trong bốn vị
lãnh đạo của đoàn an dưỡng. Hằng vừa đánh tiếng hỏi thăm một đồng chí chiến sĩ
của đoàn thì anh ta đã chạy ngay đi để báo tin.
Hằng đang
tính trong đầu xem mình nên mở đầu câu chuyện ra sao thì ông cụ đã đến ngay sau
lưng. Vừa nghe Thơ cất tiếng chào bố anh liền giật mình quay lại thì đã nghe
ông cụ hỏi:
- Các con
chưa ăn cơm phải không? Để tao bảo mấy cậu cảnh vệ lấy cơm xuống ăn cho đỡ đói.
Vừa dứt lời xong
thì ông cũng nhón chân quay đi chẳng cần nghe Hằng có chào hỏi hay không. Đang
còn lúng túng không biết chào hỏi nói năng ra sao thì ông cụ lại đã đi ngay làm
cho Hằng gần như mở cờ trong bụng vì có thêm thời gian để mà chuẩn bị. Có một
điều thật sự may mắn là ông cụ đã nhanh chóng đánh tiếng trước, hơn nữa trong
câu nói của ông không biết vô tình hay cố ý đưa vào cặp từ “các con” làm cho
không khí dường như đã rất thân tình, tựa như là ông đã nói cho Hằng biết ông
đã thừa nhận sự quan hệ của anh với con gái ông ngoài ra ông còn có ý muốn bảo
rằng: “chàng trai ơi, cậu đừng ngại gì cả, hãy nói chuyện với tôi theo mối quan
hệ như cậu đang nghĩ là được”. Đó là Hằng tự suy luận ra thế chứ thực tế có
phải là thế hay không thì anh cũng chẳng biết được. Biết đâu ông cụ cũng có
phần lúng túng khi mình chưa đến năm mươi đã có một người sắp xưng là con, gọi
mình là bố khi anh ta cũng chỉ kém mình mười lăm, mười bảy tuổi là cùng. Thôi
thì dù thế nào thì bằng sự mở đầu như vậy cũng đã tạo ra những thuận lợi cho cả
hai người. Đang còn suy nghĩ lan man quanh chủ đề ấy thì mấy anh cảnh vệ đã
mang cơm và thức ăn đến mời Hằng và Thơ vào ăn cơm. Hằng và Thơ cảm ơn mấy anh
cảnh vệ rồi cầm đũa ăn cơm ngay tại phòng ăn của đoàn an dưỡng
Hình như các
đồng chí trong đơn vị của ông cụ cũng không muốn làm hai người mất tự nhiên nên
họ cũng ít qua lại thành ra Hằng và Thơ ăn uống tự nhiên hơn. Hằng và Thơ ăn
xong đang xếp bát đũa lại thì một anh trong đơn vị đã đến giúp mang đi. Đến lúc
này thì một số anh khác mới đến hỏi chuyện hai người. Vốn dĩ Hằng là người đã
tiếp xúc với khá nhiều người trong xã hội, lại quen với công tác tập thể nên
anh nhanh chóng bình tĩnh trở lại. Anh thẳng thắn nói chuyện với những người
lính trong đơn vị một cách thật tự nhiên. Anh cũng không giấu giếm mục đích của
mình khi xuống đây để gặp ông bố của Thơ. Có một chú khá nhiều tuổi hỏi thăm về
công tác của Hằng, anh cũng không ngại gì khi nói mình vốn cũng đã là lính
chiến ở chiến trường ra.
Câu chuyện
nhanh chóng kết thúc khi ông bố của Thơ từ trên nhà khách đi xuống để gặp hai
người. Ông tự mình kéo một chiếc ghế ở bàn bên để ngồi cạnh hai người rồi từ
tốn nói chuyện:
- Hôm nay đơn
vị liên hoan tổng kết năm nên cỗ bàn khá chu đáo, đơn vị cũng vừa mới ăn xong
lúc các con đến. Bố bận chào khách mất một lúc nữa, nên bây giờ mới xuống được!
Đến lúc này
thì Hằng đã thật sự bình tĩnh, anh nhẹ nhàng nói chuyện cùng ông cụ:
- Chúng con
vừa vào trong quê xin ý kiến bố mẹ và ông bà cho phép chúng con được tổ chức
đám cưới trong thời gian tới. Ông bảo chúng con xuống đơn vị gặp bố để bố hướng
dẫn mọi việc.
- Ông bảo làm
thế nào thì các con cứ làm như thế là được. Chỉ nên tổ chức theo đời sống mới,
chứ cũng không nên bày vẽ làm gì để đoàn thể người ta phê bình...
Dừng một lúc
dường như để suy nghĩ tiếp điều gì đó rồi ông lại nói tiếp:
- Các con nên
tổ chức ở đơn vị. Bố sẽ nhờ một ông bác ra đại diện gia đình là xong. Nhà mình
hoàn cảnh khó khăn, bố cũng không cho đơn vị biết để tránh chuyện mừng mọt, ăn
uống tốn kém.
Hằng lặng lẽ
nghe ông cụ nói rồi vâng nhẹ sau mỗi lần ông cụ dứt câu, cuối cùng thì anh
chẳng nói được gì thêm sau câu mở đầu lúc nãy. Hằng không ngờ anh lại có ông bố
vợ thật là dễ tính. Tác phong của ông thật giản dị và thân tình. Ông gặp gỡ
nhanh, nói chuyện nhanh và kết thúc cũng thật nhanh bằng sự giục giã:
- Mọi việc cứ
như thế là được, đã có ông bà và mẹ các con ở nhà lo lắng, bố bận ra Hà Nội họp
chắc không về được đâu, thôi các con về nhanh kẻo tối...
Chiều hai
mươi tháng giêng Hằng và Thơ đem giấy tờ về quê của Thơ để làm thủ tục kết hôn.
Cán bộ uỷ ban xã lại có họ với gia đình của Thơ nên ông ấy đưa cả tờ khai và
giấy đăng ký kết hôn cho hai người mà chẳng cần đợi một tuần như quy định lúc
bấy giờ. Khi cầm tờ giấy kết hôn trên tay cả Hằng và Thơ đều cảm thấy rất ngỡ
ngàng, họ ngỡ ngàng vì một điều hết sức mới mẻ đó là giờ đây họ đã là một gia
đình, họ đã thành chồng thành vợ một cách nhanh chóng đến không ngờ được.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét